← Quay lại trang sách

Chương IX (3)

Ở buổi đầu tiên mới đến đã có sự thông cảm của Hai Minh và toàn thể anh chị em trong đơn vị, tôi thấy mình được an ủi rất nhiều, nhẹ đi mọi phiền muộn, làm dịu được «cơn bão chính trị» đầy thù hận, xâu xé giữa lòng tôi.

Phần lớn những anh chị em ở B195 là những người cùng một tâm trạng, dù cảnh ngộ khác nhau nhưng cùng bị hất hủi bạc đãi tinh thần như nhau. Trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ này, không còn phương tiện giải thoát nào khác, đành phải cam tâm chịu đựng, giúp đỡ nhau, chăm sóc thương yêu nhau. Tình thương đó trải ra, chan hòa, đều khắp.

Ngày ba buổi, không gạo, không thực phẩm, chúng tôi chỉ được cấp muối theo tiêu chuẩn mỗi người 5 kí một tháng. Cho cả đến dầu hôi, mỗi người được cấp 2 đồng một tháng trong khi dầu 5đồng/1lít. Hai Minh cho biết tháng này chưa kịp đi lãnh, Đảng ủy U.50 đã chỉ thị cho hay vì chưa tổ chức xong cơ sở thu mua và hệ thống vận chuyển nên dầu hôi cũng không còn. Từ nay, mỗi đơn vị phải tự thu xếp lấy để thích ứng với hoàn cảnh mới.

Ở khu vực chúng tôi ở, vùng đồi cao, mọc rất nhiều kè. Kè là một loại cây như dừa nhưng tàu lá lại giống như cây chà là, lá cây mặt cật dùng để đan nón lá. Nhờ có vóc dáng như dừa đó, chúng tôi mỗi ngày cho người đi đến ngã cây, chặt cành lá lấy những bắp kè non mềm và cổ hủ của nó đem về băm nhuyễn ra nấu ăn, thay cho gạo.

Khoai mì, dù sao cũng thuộc loại ngũ cốc. Nó có chất bột. Ngán, khó ăn nhưng bổ dưỡng, nuôi cơ thể được. Người ta vẫn khỏe, còn có sức. Đàng này bắp kè là một món vô bổ, khó nuốt gấp mấy khoai mì. Không thể để dạ dày trống rỗng được, «đói đầu gối phải bò», đành ăn vậy chứ biết sao. Trong khi đó, những lúa thóc, bắp khô, khoai mì do chúng tôi sản xuất ra, thu hoạch được phải cho vào kho, giao cho Đảng ủy khu A đến nhận để…dự trữ!

Để tưởng thưởng công lao, chúng tôi chỉ được phép truất số lúa hoặc bắp đó ra đủ dùng một bữa ăn liên hoan mà thôi, gọi là mừng vụ mùa thu hoạch tốt. Theo quyết định chung của tập thể, số lúa, bắp đó không được đem ra ăn liên hoan. Phải để dành bồi dưỡng «chiếu cố» cho những anh chị em bị bệnh.

Đảng ủy khu A giải thích rằng, thực phẩm dự trữ, lúa, bắp của B195 sản xuất ra cũng như lúa, bắp của những C102, C104, C108 v.v… sản xuất, có giá trị tương đương với những vũ khí đạn được của C110 (Ban quân khí và Binh công xưởng thuộc U.50), tương đương với những công tác không sản xuất khác. Vậy thì, trong lúc các đơn vị khác không làm nhiệm vụ sản xuất ngũ cốc, họ sẽ ăn gì để sống? Cho nên, không thể có chuyện bất công là các đơn vị sản xuất ngũ cốc, hoa màu tự tiện dùng số ngũ cốc hoa màu đó.

Phải quan niệm ngũ cốc sản xuất là một thứ kết quả công tác đóng góp cho Đảng, cho cách mạng miền Nam. Nó không phải của riêng đơn vị nào, không phải ai muốn xử dụng cũng được. Ai lén xử dụng có nghĩa là ăn cắp, là tham ô, coi thường kỷ luật của Đảng, phá hoại chánh sách Đảng, tiếp tay với đế quốc Mỹ Diệm chống lại Đảng, chống lại cách mạng…

Phải thành thực nhận rằng, ở thế giới của Đảng này, «Đảng» là một cái gì to lớn, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Chỉ biết có phục tùng. Nó đã trở thành một ấn tượng, một thói quen. Một thứ bất khả kháng. Nó là «sức mạnh vạn năng» mà tất cả mọi người chỉ biết phải tuyệt đối phục tùng. Đó là kỷ luật tính, tổ chức tính thấm nhuần trong tư tưởng của mọi người như hơi thở, không thể thiếu. Trong thế giới đó, dù sao tôi cũng chỉ là một người, một chiếc lá trong đám lá khô bị cơn bão cuốn theo. Làm sao được?.

Thành ra, bắp kè vẫn là bắp kè đều đều, liên tục.

Cũng may, chúng tôi còn có thịt rừng nếu không chẳng biết sẽ ra sao?

Tình trạng đó càng kéo dài càng làm cho sức khoẻ của toàn thể gần như bị tiêu hủy dần mòn. Một số lớn bị kiệt sức, gầy yếu, xanh xao thê thảm.

Cách chúng tôi hai giờ đường rừng, Đảng ủy khu A có đặt một bệnh xá G3 do một y sĩ và hơn năm y tá, cứu thương để nhằm phục vụ cho các đơn vị ở khu vực này, đặc biệt nhất là nhằm phục vụ cho các đoàn cán bộ đi theo đường dây, hàng ngày từ Miền Bắc trở về Nam.

Để giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng trầm trọng của anh chị em trong đơn vị B195, tôi bàn với Hai Minh, luân phiên đưa anh chị em đến điều trị bồi dưỡng ở bệnh xá. Lúc đầu, khi chúng tôi gởi bệnh nhân đến, Ban Chỉ huy Bệnh xá G3 tuy có phàn nàn nhưng vẫn thu. Sau G3 không nhận nữa, quyết liệt từ chối với lý do: những anh chị em đó không phải bị sốt rét. Chẳng những vậy, còn báo cáo về Đảng ủy khu A khiển trách B195.

Tôi thấy tình thế thực đen tối hết mức nên bàn với Minh dùng phương thức khác. Phương thức đó là dùng số muối thừa đem đổi lấy gạo của đồng bào Thượng thuộc dân tộc thiểu số Sa Tiên ở đồi Bù Cháp. Buôn của đồng bào này cách căn cứ chúng tôi hơn một giờ đường rừng.

Mặt khác, chúng tôi tổ chức nhiều toán đi đào củ chụp. Củ chụp là một loại khoai như khoai mỡ, khoai ngọt. Củ to bằng cổ chân, mọc thẳng đứng, sâu trong lòng đất. Sâu đến bốn năm thước là chuyện thường. Cho nên củ chụp rất dài, nếu không đào tới đâu bẻ gãy ngang ở đó thì nó chẳng khác gì như một đoạn tre rừng dài xọc.

Vùng tôi ở, bên này sông Đồng Nai, không có củ chụp phải sang bên kia sông, thuộc vùng đất Khu 6, miền Nam Trung Bộ mới có. Mỗi chuyến đi, về mất hai ba ngày trời. Nhờ vậy tình hình ăn uống được cải thiện phần nào. Ngoài ra, hàng ngày chúng tôi tìm thêm chất tươi bằng cách gài bẫy bắt thú, đi săn và đánh cá ở sông Đồng Nai.

Vùng tôi ở, bên này Đồng Nai Thượng là vùng có nhiều đồi thấp nhưng cũng có rất nhiều bàu rộng mênh mông. Càng gần về bờ sông, chếch hướng tây bắc, anh chị em cho biết, mùa mưa đến, vùng đó nước lụt mênh mông. Lau sậy chìm dưới nước như trên đồng cỏ hoang vu Đồng Tháp Mười. Mùa khô đến, nước hạ xnống còn trơ lại những bàu, đầy cá bóng, cá trê, cá lóc, cá rô, các loại cá đồng.

Cá ở đây, từ hàng trăm, hàng ngàn năm nay, không ai bắt nên mực độ sinh sản của chúng nhiều vô kể. Nhiều gấp mấy lần cá ở Đồng tháp (Ba Răng, Hồng Ngự), ở Cà Mau (Rau Dừa, Cái Nước, U Minh Hạ v.v…) Cá lại to. To đến độ không ai ngờ tới. Râu cá bằng ngón tay, mọc dài năm ba phân. Năm rồi tức vào những ngày hè 1962, khi tổ chức cảnh giới của C110 (Ban Quân Khí và Binh công xưởng khu A) phát hiện được vùng bàu có nhiều cá, lập tức các đơn vị toàn khu A được phổ biến cho biết ngay, tổ chức những toán tự túc kéo đến tát bàu, kéo lưới để làm mắm, làm khô dự trữ thực phẩm cho đơn vị. Ngoài ra còn mang cá tươi về cho đơn vị ăn «sốt dẽo».Và, Đảng ủy Khu A phái một tiểu đội mang đủ dụng cụ «đồ nghề» đến vùng bàu khai thác, chuyên làm mắm, làm khô để dự trữ, bán ra cho các đơn vị với giá rẻ: 3 đồng/1kí mắm, 5 đồng/1kí khô cá lóc, cá bông và tổ chức đưa xuống Bình Mỹ đường 13, chở đi Sàigòn bán để gây quỹ tự túc riêng.

B195, Hai Minh cũng phân công hai tổ tam tam sáu người, hai nam bốn nữ mang thùng thiếc, tải muối đến vùng bàu làm cá. Bàu lớn, rộng mênh mông, dù tìm được những bàu nhỏ đi nữa, nước có cạn mấy đi nữa, mà dụng cụ không có, lấy thùng thiếc tát nước thay gàu giai thì quả là chuyện vác đá vá trời. Kết quả là xách nước đổ ra sông. Ấy thế mà, sáu anh chị em chỉ việc lội đại xuống bưng, bàu cạn mò cá, vạch cỏ theo bờ, mò những hang cá mòn lẵn, trong năm ngày cũng đã đem về cho đơn vị vừa khô vừa mắm, vừa cá tươi hơn 200 kí. Quả chuyện không thường một chút nào. Cá bông, có con nặng gần 20 kí. Cá lóc nặng đến 5 kí, còn cá rô bằng bàn tay…

Năm nay mùa khô đã đến từ lâu, nhưng mực nước vùng bàu chưa cạn. Nghe anh chị em kể lại chuyện làm cá năm ngoái tôi thích vô cùng. Trước kia tôi từng sống qua Đồng Tháp, U Minh, Cà Mau, tôi đã từng đi cắm câu, tát đìa, kéo lưới. Tôi ham vô tả. Giờ nghe nói cá Đồng Nai Thượng, lòng cứ nôn nao trông cho đến mùa bàu cạn nước, đi với anh chị em một chuyến xem sao.

Tôi bàn với Hai Minh nên chuẩn bị cho mùa cá năm nay, chuẩn bị có chu đáo mới bắt được cá nhiều, ít mất thì giờ hơn.

Tuy không thể so bì được với «Tiểu đội sản xuất mắm, khô» của U.50, họ có máy bơm nước, có lưới, có đủ đồ nghề của một bộ phận chuyên môn đánh cá, nhưng việc đến Ban Tiếp Liệu nhờ mua cho vài tay lưới ngắn, một cái chài cá bằng lưới nylon bán đầy dẫy ở mấy tiệm chợ Cầu Ông Lãnh hẳn không phải chuyện khó khăn gì. Tiền nong thì tiền khẩu phần mỗi ngày 3 đồng, suốt mấy tháng nay đơn vị đã tiêu tốn đồng nào đâu? Năm sáu nghìn bạc thừa mua rồi.

Hai Minh hoàn toàn tán thành ý kiến của tôi và nhờ Ban Tiếp Liệu mua về xong.

Để đối phó với nạn hết dầu hôi, nghĩa là hết ánh sáng giữa rừng tối om, học tập kinh nghiệm của đồng bào Thượng, chúng tôi xách rựa, xách búa ra mấy cây dầu to ba bốn người ôm chưa giáp, đẽo, khoét thành những bộng cây nhân tạo. Dầu từ trong thân cây sẽ chảy ra đọng lại đó, mỗi ngày, một cây ít nhất cũng cho được nửa lít dầu.

Dầu đen ngòm, sánh lên và trơn chẳng khác dầu trai mù u chút nào. Dầu này, sau khi hỏi ra tôi mới biết rằng những tiệm Tàu Chợ Lớn trước đây gọi là «dầu trong» bán cho nhân dân dùng để nấu với chai cục trét ghe xuồng, sơn cột nhà, rui nhà cho chắc, lâu mục ở các vùng quê. Thì ra loại dầu mà chúng tôi «khó khăn đẻ ra sáng kiến» hôm nay lại là loại «dầu trong» ông bà ta từ xưa đã biết dùng rồi. Ngay cách lấy dầu cũng chỉ là sự học lại chẳng mới mẻ gì.

So với dầu hôi, loại dầu trong này chậm bắt lửa, lại khói mịt mù, khét lẹt. Ánh sáng của nó mập mờ như những bóng điện trong các xóm lao động Sàigòn, câu đi câu lại chuyền hàng chục nhà qua một cái «công tơ» 5«am-pe». Dầu cho vào chai thay cho dầu hôi, dầu không sao rút lên được cho nên muốn đốt nó chúng tôi phải rót vào dĩa hoặc những chén bể miệng, xé băng, hoặc lấy bông gòn làm tim thả nằm trong dầu, gác đầu lên miệng dĩa, cho cháy to như đốt đuốc, may ra mới nhướng mắt kê sát đèn đọc được một đoạn sách hay vài chữ về đêm.

Dầu hôi, giờ trở thành như một vật quý giá. Còn bao nhiêu, chúng tôi để dành đổ vào hộp quẹt, bật lửa, tiết kiệm từng giọt một.

Về nếp sống mới của tôi, từ sau cái ngày đến B195, tôi dành ra phân nửa thì giờ để soạn thảo tài liệu giáo khoa, đặt chương trình, kế hoạch học tập cho đơn vị. Buổi sáng ở nhà soạn tài liệu. Buổi trưa sau khi ăn cơm thì dạy học. Buổi chiều cùng ra rẫy phá rừng, lao động với anh chị em.

Phụ việc dạy văn hóa với tôi là một ban gồm có 4 người. Ngoài tôi còn Hai Minh, cô Hiền và cô Ngân. Cứ mỗi trưa, sau khi ăn, từ 12 giờ đến 2 giờ chiều là lúc các lớp học bắt đầu hoạt động. Sợ Đảng ủy U.50 trềnh tròn, khiển trách thường xử dụng thời giờ công tác để học văn hóa, chúng tôi đành phải «tranh thủ» bỏ giấc trưa. Như vậy vừa được học, vừa không mất thời giờ công tác chung.

Theo thời dụng biểu, sáng ra 6 giờ kém 15 chúng tôi phải thức dậy. 6 giờ ăn sáng. 6 giờ 30 ra rẫy. 11 về. 11 giờ 30 ăn trưa. 12 giờ học văn hóa đến 2 chiều. Sau đó lại ra rẫy đến 5 giờ 30. 6 giờ tối ăn cơm chiều. Xong là «hội ý» họp tổ tam tam, tự do và ngủ vào 9 giờ 30 tối.

Sinh hoạt chúng tôi cứ đều như vậy. Suốt ngày, coi như không phút nào tôi được rảnh rang. Hết công việc này đến công việc khác. Có lẽ nhờ thế, tôi không còn thì giờ suy nghĩ phiền muộn và những ray rứt, dằn vặt của nội tâm. Những tư tưởng diễn biến chớm nở trong hoàn cảnh mới.

Tôi vẫn biết cái mộng về Sàigòn, cái chuyện chấp nhận lời thách đố phải còn lâu lắm mới có thể thực hiện được. Nếu người ta cứ bắt tôi ở nơi đây mãi mãi không có dịp đi về đồng bằng lần nào, biết sao đây? Chẳng lẽ số kiếp tôi đen tới đến thế này sao…? Dù sao cũng phải có một ngày.. «Nhẫn nại sẽ thành công.» Tôi xem đó là một quy luật tất nhiên.

Sinh hoạt của tôi cứ đều đều. Các lớp học từ cấp 1 đến cấp 2 tiến bộ một cách rõ rệt, thực không gì làm cho tôi vui bằng. Các môn học của các lớp chỉ gồm luận văn, chính tả, toán hình và số học cho cấp 1 tức bậc tiểu học.

Ở cấp 2, tức bậc Trung học đệ nhất cấp gồm Việt Văn và Toán Lý Hóa. Tài liệu giáo khoa hầu như là các sách giáo khoa xuất bản tại Sàigòn, ngoại trừ một vài cuốn xuất bản tại Hà Nội, do những cán bộ từ Bắc về Nam qua đường dây Ông Cụ, đi ngang đây tặng cho.

Tôi sợ nhất môn Việt Văn, vì nó «phản ảnh» đường lối giáo dục của chế độ vô sản. Nếu tôi đem chương trình và phương pháp dạy Việt văn theo kiểu Sàigòn, nhất định nó sẽ là tai họa lớn nhất cho tôi. Tương lai sinh mạng chính trị của tôi sẽ do vấn đề này quyết định. Giác ngộ hay không giác ngộ, phản động hay không phản động giai cấp vô sản, lập trường giai cấp, tư tưởng như thế nào v.v,.. đều thể hiện qua các bài học và lý luận của văn học cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tôi sợ nhưng tôi không thể bỏ môn học này. Biết sao giờ? Quả thực vừa dạy vừa run. Dù rằng tôi dạy đúng chương trình phổ thông cấp hai của Bộ Giáo Dục miền Bắc.

Càng ngày tôi càng đen ra, càng gầy thêm nhưng niềm tin ở trong lòng tôi lại càng lớn, càng vững hơn bao giờ hết. Tôi cũng không ngờ sau mấy tháng đến đây, tôi đã luyện được cho mình một đức tính chịu đựng kiên nhẫn, bình tĩnh dị thường.

Cuộc đời giúp cho tôi khôn ngoan và trưởng thành một cách chính chắn, trên phương diện hiểu biết và sự suy tư trong tâm tưởng mình. Sự yên tĩnh và nỗi truân chuyên khổ sở cùng cực của rừng Đồng Nai Thượng dạy cho nhiều việc, giúp cho tôi mở rộng mắt nhìn.

Loay hoay chả mấy chốc đã đến tháng tám. Mau thật. Mới đây, mới ngày nào đây, tôi rời Sàigòn giờ đã tháng tám rồi. B2 gởi đến cho chúng tôi một tài liệu học tập chính trị về ý nghĩa và lịch sử cuộc cách mạng mùa thu 19-8-1945, kèm theo đó là một thông tư hướng dẫn học tập, động viên chính trị, phát động đợt thi đua trong đơn vị.

Trong thông tư hướng dẫn, có một đoạn nhấn mạnh về hậu phương lớn miền Bắc của tuyến đầu Tổ quốc, Miền Nam, đồng bào đang thắt lưng buộc bụng, hy sinh tất cả cho cuộc chiến đấu chống Mỹ Diệm. Mỗi người đều thi đua làm việc bằng hai với những khẩu hiệu «Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm» «Ngày không giờ, tuần không thứ». Thanh niên phụ nữ, thi đua «3 khoan, 3 chống» v.v…

Tôi buông xấp tài liệu xuống, mỉm cười một mình. Thi đua làm việc dữ thế ư? Nhưng so ra, ở B195 này còn hơn miền Bắc nhiều. Không thi đua còn hơn thi đua. Đời sống chúng tôi như thế đó. «ngày không giờ, tuần không thứ» mà còn thêm tháng không ngày, năm không tháng nữa kia.

May, B195 nhờ cái đồng hồ đeo tay của tôi có lịch ngày với công chịu khó nhớ tháng của tôi nên ít ra cũng còn biết được ngày tháng. Còn ngày nào thứ mấy trong tuần lễ dành chịu phép. Đã không lịch treo, cũng không báo chí tin tức, radio cũng không nốt thì làm sao chúng tôi còn có ý thức đúng đắn về thời gian?

Nhân dịp này, tôi nảy ra ý nghĩ: Làm một cái lịch Tây. Nghĩ là làm liền. Tôi đi lấy giấy pelure mỏng của một xấp tài liệu cũ mà Hai Minh bỏ nằm lăn lóc trên kệ quần áo, cắt ra từng miếng nhỏ bằng ngón tay cái, nhìn đồng hồ viết số ngày, tháng theo thứ tự, từ tháng tám cho đến tháng 12 năm 1963. Duy có thứ, tôi đành phải chạy hỏi cậu cảnh vệ từ B2 tới, xem hôm nay là thứ mấy để khởi đầu cho tờ lịch thứ nhất của tôi.

Nhờ thế, trước kia chúng tôi cứ bảy ngày nghỉ một bữa, không biết ngày nghỉ có phải chủ nhật không, từ giờ trở đi không phải nghỉ vào ngày khác.

Ngày chủ nhật sau đó, Hai Minh rủ tôi đi vào buôn Bù Cháp đổi thuốc lá trồng của đồng bào Thượng. Tôi vui vẻ nhận lời. Trong lúc Hai Minh lui cui xuống nhà bếp xúc vài lít muối để làm vật trao đổi, tôi lo rút quai dép và lấy khẩu súng trường Mas cho đạn vào ổ, khoác lên vai.

Chợt Hiền từ ngoài bước vào hỏi tôi:

– Anh đi đâu vậy, anh Tư? Chủ nhật anh không nghỉ sao?

Tôi cười:

– Chủ nhật nghỉ nên mới đi chơi!

– Anh đi đâu?

– Bù Cháp! Đi ngoại giao với đồng bào Thượng đổi thuốc lá rẫy.

Hiền ngạc nhiên:

– Anh đi có một mình thôi sao? Làm sao anh biết đường?

– Không! Có anh Hai Minh nữa!

Mắt Hiền sáng lên, bước sát đến bên tôi, ngoẹo đầu sang bên làm nũng như em gái nhỏ:

– Anh!Anh Tư! Anh cho Hiền đi với nhá! Hiền đi với nhá!

Tôi không dám nhìn Hiền, tránh ánh mắt nàng:

– Đi thì… Tôi… tôi cũng muốn có Hiền đi cho vui nhưng Hiền hỏi anh Hai Minh đi!

Hiền vẫn nũng nịu.

– Anh hỏi cho Hiền hà! Nghe anh?

Tôi bối rối gật đầu.

Như vậy là chúng tôi: tôi, Hai Minh và Hiền cùng đi đến buôn Bù Cháp. Hiền mừng rỡ, vui vẻ như chim sơn ca. Hiền cho tôi biết, tủ thuốc quân y của đợn vị dư nhiều thuốc sốt rét chloroquine và aspirine lắm. Dư vì chị em «trốn» uống thuốc phòng, sợ cái vị «đắng ngán ngược» muốn ói của chloroquine. Thuốc này do Ngân (được đơn vị cử làm chiến sĩ vệ sinh, giữ thuốc và phụ trách chăm sóc sức khỏe cho đơn vị, trong khi đơn vị chưa có cứu thương, hoặc y tá phụ trách) cất giữ, nhiều viên cũ mèm muốn đóng mốc ra.

Tôi nảy ý nghĩ hay là mang số thuốc kia «dân vận» đồng bào Thượng thì tốt quá. Bàn với Hai Minh, Minh cũng đồng ý và giao cho Hiền lấy thuốc, phụ trách việc cho đồng bào Thượng. Nhưng Hai Minh phì cười:

– Anh Tư coi! Tôi nói có sai đâu. Tháng nào họp đơn vị, chị em mình cũng báo cáo uống thuốc phòng đều, uống thuốc phòng tốt. Vậy mà bây giờ lòi ra cái vụ thuốc dư nhiều quá đến nỗi cũ mèm, đóng mốc. Anh biết không, thỉnh thoảng đi xung quanh nhà bếp tôi cứ gặp thuốc sốt rét liệng hoài. Có lúc, mấy bà đó liệng lên nóc nhà, mình đang ngồi ăn, tự nhiên thấy trên nóc nhà rớt xuống cái độp. Tưởng gì dòm lại thì Nivaquine.

Trên đường đi, Hai Minh kể cho tôi và Hiền nghe về một số phong tục, tập quán của đồng bào Thượng ở những buôn mà Minh đã đi qua, nhất là trên dường dây Ông Cụ đường từ Hà-nội về Nam.

Khi đến vùng sông Ba, đoàn của Minh, một tối, đến gần một buôn Thượng thuộc Quốc Gia kiểm soát. Đoàn đi, gạo sắp hết mà thực phẩm, đồ dùng, thuốc hút, trà.v.v.. nhất nhất cái gì cũng không còn. Nghe đồng chí giao liên Thượng bảo gần đấy có buôn đồng bào, có bán đủ thứ.

Nhất là nghe nói có trà, có thuốc thơm, có gà, có gạo, ai nấy mắt sáng rỡ lên. Ban Chỉ huy Đoàn quyết định mạo hiểm, dẫn theo một tiểu đội súng yểm trợ, do chính trị viên đoàn hướng dẫn, theo anh giao liên Thượng vào buôn mua thực phẩm bằng tiền miền Nam.

Minh được chọn vào tiểu đội súng. Trong khi mọi người lo mua bán thì Minh được cắt gác ở một ngả ba đường. Chỗ đó có năm sáu cái nhà, đèn đuốc sáng choang. Trong nhà, nhà nào cũng có ba bốn thiếu nữ Thượng. Kẻ mặc áo màu hồng, người mặc áo xanh, son phấn lòe loẹt, nước hoa thơm phức. Cô nào cũng đeo bông tai, đeo vàng lấp lánh trên tay, líu lo tiếng Thượng Ba Na làm Minh chẳng hiểu gì cả.

Đáng lẽ phải nấp kín trong bụi, đàng này mãi mê nhìn, không hiểu chỗ này là chỗ gì? Minh thoáng qua thoáng lại ngoài đường, bị một cô trông thấy, chạy ra níu tay kéo áo lôi vào. Giữa lúc đó ở nhà bên cạnh có hai dân vệ người Thượng vác súng đi ra tới sân. Minh chết điếng, không biết phải làm thế nào? Nổ súng sợ chạy không thoát, rồi còn những đồng đội trong buôn, chạy lại càng chết sớm. Cô gái Thượng cười đùa, nói với Minh mấy câu, Minh không hiểu gì cả, nhưng linh tính báo cho Minh biết đây chính là những cô gái điếm người Thượng. Trong giây phút điếng người đó, Minh đành nín thinh đi theo để hai ông dân vệ kia không để ý.

Đến trước nhà thì hai dân vệ đã khuất ngoài ngả ba, giờ này Minh mới vùng vẫy:

– Gì vậy mấy chị?

Đến lượt mấy cô gái Thượng ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì tưởng Minh là «khách» Thượng. Minh thở phào, nói một hơi, giải thích cho biết mình là «thằng cán bộ», «thằng cách mạng». Một cô chận họng Minh một câu bằng tiếng Việt lơ lớ:

– ''Thằng cách mạng'' nghèo hả? Lấy ''thằng Quốc Gia'' năm chục, «thằng cách mạng» nghèo, «ủng hộ» hai chục thôi!

Minh phát chạy ra đường. Trong nhà các cô gái Thượng la om sòm lên. Không biết sao, Minh bắn mấy phát súng báo động rồi vắt giò lên cổ chạy về ngõ cũ. Báo hại tối hôm đó, cả đám cùng nhau chạy thụt mạng. Và Minh về Đoàn bị một mẻ phê bình dở khóc dở cười.

Từ mạn sông Ba về đến Đồng Nai Thượng, Minh cho biết đồng bào Thượng có rất nhiều dân lộc khác nhau không kể hết. Có dân tộc ít đến độ không còn đầy một trăm người, sống vỏn vẹn trong một buôn nhỏ. Nhiều buôn gần bên nhau nhưng lại khác dân tộc, khác tiếng nói, chẳng ai hiểu ai cả.

Như ở sông Ba, hầu hết một vùng lớn quanh khu vực này, toàn là dân tộc Ba Na. Dân tộc Ba Na là dân tộc đông đảo bậc nhất, có đến năm trăm ngàn người trong số các dân tộc thiểu số ở miền Nam. Kế đó là Ê Đê, Rha Đê. Quanh vùng Đồng Nai Thượng cũng có mấy dân tộc khác nhau như Bờ Rưng, Bờ Nông Rưng, Bờ Nông Ré, Sa Tiên, Châu Mạ, Lý Lịch v.v…

Đồng bào Thượng ở Bù Cháp thuộc dân tộc Sa Tiên. So với một vài dân tộc thiểu số quanh các buôn gần đây, đồng bào Bù Cháp tương đối văn minh hơn, vì thỉnh thoảng còn tiếp xúc mua bán, đổi chác với người Kinh. Ấy thế mà… Minh kể cho tôi nghe:

– Cái lần đầu tiên tôi đem muối đến đổi thuốc rẫy hồi năm ngoái, chút xíu nữa tôi ói tới mật xanh. Đồng bào Bù Cháp, anh biết cái món ăn nào quý nhất không? Quý đến độ, bình thường trong buôn có hội hè lễ lộc cũng chưa đủ tiêu chuẩn đem ra dùng, mà chỉ để dành đãi những khách thật quý thôi. Lần đó, tôi đến nhằm vào buổi ăn sáng, chừng mười giờ. Ông cụ già người Thượng chủ nhà, sau khi vác gần nửa gùi thuốc rẫy đem ra đổi cho tôi một lít muối, mời tôi ở lại ăn cơm chơi. Anh biết cơm của đồng bào Thượng toàn là nếp, nếu không phải nếp cũng loại dẽo gần như nếp. Cơm nấu trong ống lồ ô xanh, đốt vỏ cháy thơm ác ôn lắm anh. Nghe mùi cơm, đủ thèm chảy nước miếng rồi. Nhưng khi tôi thấy con gái cụ bắt mấy con chà rang, chà rang là một loại nhái bụng bình rĩnh, có sọc, ở dài theo suối đó. Cô ta bỏ vô ống lồ ô quết, như quết nem, rồi đổ vô nồi đất, nấu canh lá bép thì tôi đã ngán ngược rồi. Ông cụ còn khoe với tôi là có món này quý lắm. Chẳng mấy khi có «anh Đội» tới buôn nên đem ra đãi «anh Đội». Ông cụ đi lại bếp, mở một ống tre đóng nút kín. Bò hóng bếp, khói bếp bám đen thui thấy phát khiếp.

Ồng cho biết đó là máu con min, tức là trâu rừng đó, vô ống treo để dành lâu lắm rồi. Quý nhất không gì bằng. Ông mở nút ống tre đưa lên mũi hít hít, mắt sáng rỡ như thơm dữ lắm. Trời đất ơi, ổng đưa cho tôi hít một cái, tôi muốn chết giấc luôn.

Nó vừa tanh, vừa thúi, cái mùi ác ôn hơn là mùi thây ma sình nữa. Máu để trong ống, ủ cho thúi, lâu ngày nó ngã màu xanh đen, rả rợt, nước lỏng bỏng… Cái món quý nhất để đãi khách như vậy đó. Ổng cho biết, mỗi lần ăn đâu phải trút ra ăn đâu, chỉ được lấy đũa thọc vào ống tre vít lấy một chút nêm vào nồi canh lá bép cũng đủ quý, đủ ngon.

Lần đó, nếu tôi không gắng gượng lắm, tôi đã ói đầy nhà. Túng quá, không biết làm sao, tôi làm bộ đau bụng để từ chối bữa ăn quý của ông ta.. Vậy mà cũng không tránh khỏi bị ông ta giận.

Hiền nghe Hai Minh kể, cứ phun nước miếng lia lịa

– Thôi anh Hai? Ghê quá anh Hai! Nghe anh kể cũng muốn ói ra bây giờ nè!

Tôi hỏi thêm:

– Đồng bào Bù Cháp, họ có nuôi gà, nuôi heo gì không anh Hai?

– Có chớ! Họ nuôi loại heo mọi, nhỏ con nhưng thịt thơm ngon lắm anh. Gà cũng không thiếu gì. Vậy mà họ lại thích ăn thịt rừng săn bắn được hơn là heo gà nuôi ở nhà.

– Mình không lui tới với họ thường, không giải thích,không hướng dẫn họ tiến dần lên như nếp sống của mình sao?

– Có chứ! Ở mỗi buôn, bây giờ đều có cán bộ thanh vận, phụ vận, đủ hết chớ! Đỡ lắm rồi anh! Bây giờ mình có đến, họ mời ăn cũng điệu nghệ lắm. Họ biết mình không quen «gu» của họ. Họ muốn mời mình ăn thì họ bắt gà giao cho mình, bảo mình tự nấu nướng lấy, chớ không phải cái kiểu bắt chà rang bỏ vô ống lồ ô, quết nấu với lá bép hay máu thú ủ cho thúi trong ống tre đâu. Chuyện đó là mấy năm về trước.

Trước kia đồng bào Thuợng ở buôn Bù Cháp, đàn bà con gái cũng ở trần như nhộng. Con gái 19, 20 cứ phây phây ở truồng tắm chung với đàn ông con trai mà không hề mắc cỡ chi cả.