← Quay lại trang sách

Chương XII (3)

Tôi bỗng choàng thức giấc. Đầu võng tôi bị lắc mạnh và có tiếng gọi gấp rút khẩn trương của Tùng:

– Báo cáo anh Tư… Anh Tư ơi, Anh Tư!

Tôi ngóc đầu, nhòm dậy, vén mùng:

– Gì đó? Gì đó đồng chí?

-Dạ, báo cáo anh Tư, anh chị em dân công họ đang kéo nhau ra khỏi căn cứ, chúng tôi cản không được.

– Ơ! Hả? Sao không được?

– Dạ, dân công họ kéo nhau đi về nhà. Chúng tôi cản không được. Nói họ không nghe.

Tôi tỉnh hẳn, nhảy xuống đất. Trời đã sáng. Sương mù trắng mênh mông. Tôi quyết định cấp tốc:

– Đồng chí ra lệnh cho Trung đội bảo vệ chận lại cho bằng được. Chúng tôi ra ngay! Bảo cho dân công biết, họ có đi cũng phải chờ chúng tôi ra đã!.

Anh cán bộ Tỉnh ủy Bình Dương vụt chạy đi. Tôi bước vội đến tốc mùng Cường:

– Anh Cường! Anh Cường:

Cường nhồm dậy như cái lò xo:

– Có! Gì vậy. anh!

– Đồng chí cán bộ Tỉnh ủy Bình Dương vừa báo cáo cho biết dân công họ đang kéo ra khỏi căn cứ đi về nhà. Mấy anh em cán bộ địa phương, họ cản không được.

Cường dụi mắt, đứng dậy, tỉnh bơ như không:

– Vậy còn Trung đội bảo vệ của mình chi?

– Tôi mới ra lệnh cho Trung đội cảnh vệ của mình đấy!

– Mấy thằng cha địa phương này… thứ chuyện nhỏ như vậy cũng không làm được. Cán bộ chó gì vậy!

Tôi lại võng mang thắt lưng vào, Cường cũng vậy. Hai chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi căn nhà hoang. Quang cảnh phía trước thực là kỳ dị. Cả Tiểu đoàn dân công không hiểu họ thức dậy tự bao giờ, cuốn đồ đạc mang vào người, đứng nối đuôi nhau, lặng lẽ không một tiếng nói, từ căn cứ dài ra đến đường lớn, đường «thống nhất» bên ngoài. Chúng tôi phải vẹt đám cây con dọc theo hai bên đường mòn một cách khó nhọc để vượt lên trước.

Ngoài đầu đường, một Tiểu đội bảo vệ dang tay thành hàng ngang chận lại. Trông mặt người nào người nấy hết sức khẩn trương.

Nhìn dọc theo đoàn dân công, giờ tôi mới thấy rõ sự hỗn tạp như Cường đã nói với tôi hôm qua. Trong đoàn, nam có, nữ có, già có, trẻ có.

Đa số là già. Trẻ con có đứa chừng 12, 13 tuổi. Có lẽ chúng đi thế cho cha mẹ chúng. Kẻ mang nồi niêu, kẻ mang chiếu, đệm, gạo thóc. Người quần cụt. Kẻ quần dài. Người khăn quấn cồ, người cột đầu, người cột bụng, ở trần, mặc áo, đồ bà ba, đồ Âu phục nhầu nát, lẫn lộn với nhau.

Tôi và Cường đứng trước mặt anh em bảo vệ, đối diện với hàng quân ngộ nghĩnh. Mọi người nhìn chằm chặp vào chúng tôi, không ai nói gì cả. Từ phía sau đoàn dân công, Tùng anh cán bộ Tỉnh ủy mặt mày nhăn nhó, lò dò bước đến đứng cạnh tôi. Vậy là Ban Chỉ huy Tiểu đoàn dân công đứng đủ ba «chư vị» rồi đây. Riêng tôi, nhìn không khí và quang cảnh trước mặt, đột nhiên tôi thấy có vẻ gì khôi hài buồn cười làm sao. Và tôi mỉm miệng cười, chờ xem sự thể xảy đến, bình thản dửng dưng… Duy chỉ có Cường là sắc măt, cử chỉ diễn biến không ngừng. Chứng tỏ anh ta vừa nóng nảy bực tức, vừa bối rối trong việc quyết định một thái độ, giải quyết sao cho hữu hiệu mà êm đẹp nhất.

Cường nhìn tôi như hỏi ý kiến. Trước mặt mọi người, tôi không còn cách nào khác hơn là cười nụ. Cường lại nhìn đoàn dân công. Ngoảnh đi, ngoảnh lại một lúc. Cường hắng giọng, lên tiếng:

– Yêu cầu bà con cho chúng tôi biết bà con muốn gì?

Đoàn dân công im phăng phắc. Không ai trả lời. Cũng không ai nhúc nhích, cử động. Tất cả như hờ hững, không nghe lời Cường hỏi, giương mắt nhìn.

Cường cao giọng:

– Sao không ai phát biểu ý kiến hết vậy? Một lần nữa tôi yêu cầu bà con cho chúng tôi biết bà con muốn gì?

Bác nông dân già đứng đầu hàng, tay cắp chiếc chiếu cột túm hai đầu, tay chống cây gậy tre, cụ cựa một tí, rồi lại đứng im.

Có lẽ tin ở tài thuyết phục của mình và thấy sự thể cũng chưa gì găng lắm, nên lần này Cường có vẻ tươi tỉnh quay sang Tùng:

– Bà con không nói thì thôi. Đại diện của bà con cho tôi biết cũng được. Vậy xin đồng chí đại diện Tỉnh ủy Bình Dương cho chúng tôi biết công việc đã xẩy ra như thế nào?

Tùng thở phào một tiếng:

– Bà con ở đây, đồng lòng yêu cầu đưa trả bà con trở về xã. Nếu tổ chức không đưa thì bà con cũng tự kéo ra về.!

Cường nhìn đoàn dân công, ưỡn ngực ra:

– Tại sao lạ vậy? Bà con, anh chị em cũng biết rằng chúng tôi là bộ đội, thoát ly gia đình theo cách mạng, hy sinh bản thân để tranh đấu cho quyền lợi của giai cấp công nông, đánh đuổi kẻ thù. Mà giai cấp công nông là bà con, anh chị em đây. Chúng tôi chịu đựng gian khổ, hy sinh cả tánh mạng vị nhân dân, vì giai cấp, thì bây giờ có chiến dịch, bà con, anh chị em tự nguyện đến đây giúp đỡ ủng hộ chúng tôi trong những công tác hậu phương, vận cluyển, tiếp tế. Bà con anh chị em có giúp chúng tôi, chúng tôi mới chiến thắng được kẻ thù áp bức bóc lột bà con chớ. Vậy sao bà con anh chị, em lại kéo về?

Có tiếng một thanh niên lẫn trong đoàn dân công phía sau lên tiếng vọng tới.

– Hạn định công tác của chúng tôi đã mãn nên chúng tôi về!

Cường hỏi lớn:

– Ai nói mãn? Chiến dịch chưa mở thì sao lại mãn được?

– Chi bộ xã nói! Hôm chúng tôi còn ở nhà, chi bộ xã cho biết chúng tôi chỉ đi dân công mười ngày thôi. Đúng mười ngày sẽ cho chúng tôi về. Nay là mười lăm ngày rồi. Lúc này là lúc chúng tôi bắt đầu làm mùa ruộng.

– Đó là chi bộ xã nói láo với đồng bào. Chi bộ xã chịu trách nhiệm. Thật ra, ở trên đã cho các địa phương biết là đợt dân công này kéo dài trong nhiều tháng. Để rồi chúng tôi sẽ kiểm điểm, phê bình khuyết điểm của chi bộ xã. Bây giờ chúng tôi yêu cầu bà con vui lòng ở lại.

– Không được đâu! Vì chi bộ xã ép chúng tôi, phải đi và đi trong mười ngày, nên chúng tôi không kịp thu xếp việc nhà. Vậy gia đình chúng tôi bối rối, ở lâu đâu được. Ngay lúc bị bắt đi gấp rút, ngoài bộ đồ bận trong mình, không còn quần áo gì khác để thay, chịu sao nổi?

Cường bước tới một bước:

– Bà con không thương bộ đội à? Bộ đội là con em của bà con, thoát ly, bà con không thương sao? Chi bộ xã đã nói láo với bà con, vì xã muốn có đông dân công để đạt thành tích nên nói láo với bà con, và ép bà con, Đảng sẽ khiển trách họ! Còn chuyện gia đình, đồng bào cũng nên vì bộ đội, vì tổ quốc mà hy sinh. Quần áo của bà con không có đem theo thay đổi hả! Bà con đừng lo! Chúng tôi sẽ cấp cho bà con mỗi ngưrời một bộ bà ba, một quần và một cái khăn mặt nữa. Bà con thiếu võng chúng tôi sẽ cho mượn. Chúng tôi cũng sẽ cho bà con nylon nóc, nylon choàng y như bộ đội. Chúng tôi cũng sẽ cung cấp tiền ăn, thực phẩm và mỗi người hàng tháng có chút ít tiền phụ cấp xài vặt nữa. Vậy, xin bà con hãy ở lại. Bà con cần gì, chúng tội sẽ giải quyết.

– Nhưng ở đây là sông Mã Đà. Ngườ ta nói nước Mã Đà độc lắm. Uống vô vàng vọt, xanh xao, lớn bụng rồi chết. Như vậy, chúng tôi không ở lại được. Chúng tôi về.

– Ai nói vậy? – Cường vừa cười vừa nói- Nói vậy là nói láo! Như bà con thấy, nếu chết thì tại sao chúng tôi đây không chết. Bà con thấy tôi có lớn bụng không? Bà con yên tâm ở lại với chúng tôi.

Lần này, bác nông dân già đứng ở đầu hàng lên tiếng:

-Chú em nói vậy thì hay vậy, nhưng gia đình, nhà cửa tụi tui thì ai lo? Không làm mùa được thì cả nhà chết đói. Nhà tui nghèo, con cháu thì đông, làm cật lực ngày đêm còn bữa đói, bữa no. Bắt tui đi như vầy…đâu đựợc.

Cường xoa xoa tay:

– Xin bác cứ yên tâm! Bà con nghe đây! Địa phương sẽ lo cho bà con. Bà con đi dân công, địa phương sẽ tổ chức cày cấy dùm hà con. Bà con yên tâm ở đây, giúp bộ đội hoàn thành chiến dịch. Xong rồi bà con hãy về!

Có tiếng nhao nhao lên:

– Láo, láo! Chết đói thì có!

Hai hàm răng của Cường cắn chặt lại. Cằm bạnh ra. Mặt đỏ hồng. Cường giận tột độ. Tôi không còn dửng dưng được nữa. Tình thế trước mắt nghiêm trọng thật sự. Dù thế nào tôi cũng có một phần trách nhiệm, nếu để cho sự thể xảy ra đến một tình trạng xấu, đáng tiếc.

Tôi vội nắm tay Cường kéo về phía sau khẽ nói:

– Anh Tư, nghỉ một chút đi. Kệ họ! Để tôi nói thử xem.

Cường run run gì giận. Không trả lời. Thay Cường tôi bước ra:

– Chúng tôi hoàn toàn thông cảm với các bác, các anh, các chị trong những khó khăn lớn về gia đình, cũng như mùa màng sắp tới. Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với các anh chị về những hành động sai, những lời hứa gạt gẫm của cán bộ ở địa phương. Nhưng tôi nghĩ rằng, không có việc gì không giải quvết được. Mọi người bình tĩnh một chút, nhân nhượng hy sinh một chút, nhất là các bác, các anh, các chị vốn tinh thần cách mạng cao, sẵn sàng đóng góp công sức cho cách mạng. Vậy thì, trong khi bộ đội sẵn sàng hy sinh tại mặt trận, anh em bộ đội họ chết cho ai, vì ai? Họ được hưởng lợi lộc gi riêng cho họ, các bác, các anh các chị biết không? Hoàn toàn không! Như thế, ở hậu phương, tại sao sự đóng góp công sức một phần nhỏ của các bác, các anh, các chị giúp cho bộ đội, các bác, các anh, các chị lại nở thoái thác, từ chối để bộ đội chịu chết, chịu khổ lấy một mình? Tuy vậy, chúng tôi hứa là sẽ nghiên cứu hoàn cảnh của từng người để các bác, các anh chị không phải bị thiệt thòi quá lớn. Thời gian phục vụ dân công trong chiến dịch này cũng không lâu gì đâu. Vậy chúng tôi yêu cầu các bác, các anh chị tạm thời giải tán, trở vào, có gì chúng mình sẽ giải quyết sau.

Không ai nói câu nào. Mọi người vẫn đứng yên. Nhưng tôi thấy trên nét mặt mọi người có vẻ dịu, đỡ găng hơn rước. Tôi thấy cần phải nói thêm ít câu, dọa sơ sơ để họ nản lòng thêm không còn muốn về ngày hôm nay nữa. Tôi nói tiếp:

– Chúng tôi cũng cần báo cáo thêm điều này để các bác, các anh chị rõ, là lúc còn ở địa phương hay trên đường đi thì không nói làm gì. Chứ khi các bác, các anh chị đến đây rồi thì vấn đề bảo vệ sinh mạng cho các bác, các anh chị là trách nhiệm của chúng tôi. Nếu chẳng may có một người nào bị hy sinh vì bệnh hoạn, tai nạn hay phi pháo địch, trách nhiệm đó lớn lắm. Từ đây về đến các xã Nam Bến Cát, các bác, các anh chị có đi sớm lắm cũng phải hai ngày mới tới. Mà đi cũng phải có giao liên dẫn đường. Có súng ống bảo vệ, còn phải có gạo, thực phẩm đi đường mới đi nổi. Giao liên không có, lực lượng bảo vệ không có, gạo, thực phẩm đi đường cũng không có. Đó là một trở ngại rất lớn. Ngay như việc qua sông Bé, không cầu, không xuồng ghe, không ai tổ chức làn sao có thể qua sông dươc! Cho dù qua sông rồi, làm sao các bác, các anh chị biết đường nào đi về đường 13, Bình Mỹ? Chưa nói đến việc dọc đường, đi đông gặp phi cơ oanh tạc, không ai canh gác, dọc đường địch phục kích bắn chết các bác, các anh chị làm sao. Vậy, một lần nữa tôi khuyên các bác, các anh chị vui lòng trở vào nghỉ ngơi, rồi chúng tôi sẽ giải quyết, thu xếp sau.

Tôi quay ra sau nói nhỏ với Tùng:

– Anh là người địa phương, dù sao bà con cũng tin, nghe anh hơn. Vậy phiền anh quay vào nói với các cán bộ địa phương khác lãnh đạo quần chúng trong đoàn dân công, vận động kéo dân công trở vào, giải tán đi.

Tùng không nói gì, uể oải đi vào rồi biến mất trong hàng ngũ dân công đang đứng trước mặt chúng tôi. Quả hiệu nghiệm thật. Chừng ba phút sau hàng ngũ dân công bắt đầu rục rịch, xao động, nhúc nhích rồi tan hàng, lần lượt kéo vào căn cứ đồi 115.

Cường thở phào. Tôi cũng thở phào, lắc đầu nhè nhẹ nhìn anh ta. Đoạn hai đứa trở vào căn nhà hoang lo cuốn mùng cuốn võng thu xếp đồ đạc và bắt đầu ăn sáng. Bây giờ đã 9giờ hơn.

Sau đó, ăn cơm xong, chúng tôi hội ý, phân công nhau vào việc, sắp xếp tổ chức lại hệ thống lãnh đạo, điều khiển đoàn dân công theo như kế hoạch của Cường đưa ra trước đây. Và chùng tôi cũng phân tán mỏng dân công ra thành từng đơn vị trung đội, đóng xa nhau với mục đích cách ly họ, dễ lãnh đạo, dễ kiểm soát, theo dõi và họ có muốn kích động, rủ rê nhau theo kiểu vừa rồi không sao thực hiện được nữa.

Tôi không ngờ tiểu đoàn I Dân Công cánh A của chúng tôi, có rất nhiều cán bộ xã, ấp từ cán bộ Đoàn Thanh Niên lao động, Nông Hội, Du kích đi theo để làm công tác lãnh đạo, giữ những nhiệm vụ chỉ huy tiểu đội, đại đội, vậy mà họ lại đứng vào hàng ngũ đòi về địa phương, làm chúng tôi phải một phen vất vả.

Cường thì ức về chuyện đó lắm. Anh ta quyết điều tra cho kỳ được nguyên nhân, cũng như những cá nhân nào đã gây nên vụ «làm reo» của dân công mới nghe.

Hai hôm sau, toàn Tiểu đoàn dân công được dàn mỏng, trải đài trên suốt trục giao thông Sông Bé – bàu Đồng Triêng để vận chuyển gạo, thực phẩm, hàng chiến lược, xây cất các kho dự trữ. Ban Chỉ huy tiểu đoàn của chúng tôi cũng «dời đô» về gần bàu Chân Ra, Cường đưa tôi đến gặp hai cô gái dân công. Cả hai đều là cán bộ Trung đội của Đại đội I, vì trước đây ở xã là Phó bí thư và ủy viên Chi đoàn Thanh Niên Lao Động..

Cường cho tôi biết là anh ta đã nhờ hai cô này điều tra, theo dõi sự kiện đó mấy hôm nay.

Hai cô gái trông rất dạn dĩ, cười toe toét thay vì chào Cường và tôi. Cường chưa kịp mở miệng, một cô nhanh nhẩu nhập đề ngay:

– Tụi em biết được nhiều chuyện «hay ác ôn» đi, mà mấy anh hứa chắc cái này, tụi em mới nói. Không thì hổng thèm nói đâu!

Tôi đâm vui lấy cái vui của cô ta. Tôi cười bông lơn:

– Hứa gì bây giờ? Hai cô bắt hai đứa tôi hứa chắc….chà! Khó quá!

Cô kia nhướng mắt, ngoẹo đầu sang bên:

– Anh kỳ quá hè! Người ta không có bảo mấy anh hứa chuyện tầm bậy đâu mà cười.

Cường ra bộ nhăn mặt:

– Biết bậy, biết không? Không hứa chuyện tầm bậy thì cứ nói ra, chuyện gì người ta mới biết chứ!

– Hứa giữ bí mật cho tụi em!

– Giữ bí mật chuyện gì?

– Chuyện anh bảo tụi em điều tra đó!

– Ờ! Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó hai cô không cần nói tụi tôi cũng giữ bí mật triệt để rồi. Đó là nguyên tắc bắt buộc.

– Cán bộ địa phương biết tụi em nói với mấy anh, chắc tụi em bỏ xứ đi luôn, nếu không họ cắt cổ nấu cháo chớ đâu để yên.

Tôi khoanh tay lại:

– Xin hai cô nói cho nghe đi!

– Bà con trong Tiểu đoàn dân công này ùn ùn làm reo, kéo về như vậy là do một người sách động điều khiển…

Cường hớt ngang:

– Ai vậy? Tay nào mình đồng xương sắt, gan vậy?

– Thủng thẳng mà! Anh gấp quá hè! Thật ra thì bà con ai ai cũng bất mãn vì bị chi bộ xã nói láo, gạt họ…

Cô kia dường như ngứa miệng, muốn khoe sự hiểu biểt rộng của mình, tiếp theo ngay:

– Hai anh nghĩ coi, trên Miền thì đặt mức yêu cầu xin một số dân công lớn, chỉ thị Tỉnh ủy cung cấp. Tỉnh ủy dựa theo đó, đặt chỉ tiêu vượt trên yêu cầu cho các huyện. Huyện ủy lại đặt chỉ tiêu cho từng xã, càng trên mức yêu cầu, càng đạt thành tích thi đua. Nhưng ở xã, chi bộ vận động khó khăn, dù giải thích, tổ chức học tập kỹ lưỡng, là từ nay về sau mỗi năm, mỗi người phải đi dân công ba tháng, nếu ai không đi sẽ bị mời lên chiến khu giáo dục lại… ·

Thấy cô ta «cà kê dê ngỗng», Cường nóng nảy chận ngang.

– Biết rồi! Đó là chính sách, chẳng có gì lạ! Nhưng tôi muốn biết là tay nào mình đồng xương sắt…?

– Khoan, anh cho em nói hết đã! Nói cho nó có đầu có đuôi…

– Ù, thôi, nói mau mau đi!

– Ở xã kêu gọi đi dân công, không ai chịu đi nên mới bày ra nói láo là đợt dân công đầu, chỉ có bảy ngày. Lâu lắm là nửa thảng. Đi gần đây thôi. Nếu ai chần chờ không chịu đi đợt đâu, đợt sau phải đi ba tháng, lại đi xa ra khỏi tỉnh. Thêm nữa, chi bộ còn cho biết, bà con nào bệnh hoạn nên ráng đi dân công đi. Nhân dịp này, lên trên, Đảng sẽ đưa vào Khu A chữa bệnh cho. Vừa được xem là đã đi dân công đợt một, vừa được bác sĩ trị cho hết bệnh khỏi mất tiền.

-Trời đất ơi! – Cường thốt lên-. Kêu dân công đi chữa bệnh như thế này ác chi mà ác vậy!

– Nhờ vậy mới có đông dân công vây chớ! Nếu không, ai cũng lo mùa màng, lo công việc nhà, dễ gì kiếm được đông.

– Thành ra cái Tiểu đoàn dân công này, chả trách đa số là lão nhược bệnh hoạn, đàn bà con nít. Biết trước như vầy cũng nên giải tán họ cho rồi. Đi dân công là làm công tác tải gạo, tải thực phẩm, tải thương nặng nhọc chứ đâu phải đi chơi, đi trị bệnh? Nhưng chính yếu điều chúng tôi muốn biết là tay nào sách động làm dân công làm reo, đòi về nhà?Tay nào vậy?

– Anh Tùng đại diện cho Tỉnh ủy Bình Dương chớ ai!

Cường lõ mắt:

– Đồng chí Tùng? Đại diện cho Tỉnh ủy Bình Dương lãnh đạo Tiểu đoàn dân công này? Vậy thì còn trời đất nào nữa!

– Ảnh cho bà con biết nước sông Mã Đà đc lắm, uống vào lớn bụng. Rồi đợt dân công này còn đi xa tuốt lên biên giới nhiều tháng, phải nhịn đói ăn bắp kè thay cơm và ra mặt trận thế nào cũng có một số lớn bị chết, bị thương vì bom đạn. Chỉ có cách tốt nhất là tất cả nhất loạt đòi về mới hy vọng sống sót.

Cường dậm chân kêu trời liền miệng.

Sau khi nghe hai cô nữ dân công và một số «nồng cốt» mà Cường tổ chức được báo cáo tình hình, Cường liền tức tốc trở về Hội Đồng Cung cấp Trung Ương báo cáo lại.

Thì ra lão cán bộ Tỉnh Bình Dương kia bất mãn việc Cường đặt y vào cương vị chịu trách nhiệm trực tiếp, điều khiển dân công qua sự chỉ huy, kiểm soát của Cường và tôi. Y đã tâm tình, thố lộ với những cán bộ địa phương khác, y là một «cán bộ mùa đông», gian lao khổ sở, công trận đối với cách mạng miền Nam rất nhiều, lại đường đường một Tỉnh ủy viên, bây giờ lại đặt y dưới quyền của một «cán hộ mùa thu» trong khi y sống chết cho miền Nam thì «cán bộ mùa thu» đó, tức là Cường, tập kết ra Bắc chỉ biết học hành ăn hút, chẳng chút gian lao khổ sở gì cho miền Nam.

Giờ cách mạng miền Nam trưởng thành, thành công lớn lao thì «cán bộ mùa thu» về chỉ huy lãnh đạo. Đó là một sự bất công, bạc đãi những cán bộ được đào tạo nên trong chiến trường gian khổ, «chí cốt» làm việc, hy sinh đủ thứ. Đúng là thằng làm để thằng ngồi không hưởng. Chỉ huy ra lệnh này nọ. Y không bằng lòng.

Mặt khác, y được biết đợt phục vụ chiến dịch này có thể dài đến bốn, năm tháng, như vậy y phải xa vợ con lâu. Nhân lúc dân công bất mãn, y khai thác nỗi bất mãn đó thành một mâu thuẫn trọng đại, gây khó khăn cho Cường và tôi điên đầu, mất uy tín với cấp trên chơi. Có vậy lòng tự ái của y mới thỏa mãn và sẽ có cớ đó trở về địa phương với gia đình sớm, tránh được chuyện bị «cán bộ mùa thu» điều khiển hàng ngày.

Không biết Cường đã báo ra làm sao, mà Hội Đồng Cung cấp Trung Ương và Đảng Ủy Tiền Phương cho hai cảnh vệ đến mời Tùng trình diện tại Đảng Ủy Tiền Phương. Sau đó, «hộ tống» đưa y trở về Tỉnh ủy Bình Dương cbo Tỉnh ủy Bình Dương giải quyết. Không biết người ta giải quyết bằng cách nào, nhưng chuyện cảnh cáo, khai trừ «loại ra khỏi hàng ngũ» là chuyện không thể nào tránh khỏi.

Từ đó, nhờ sự cố gắng giải quyết của chúng tôi nên tình hình nội bộ dân công tạm yên, bắt đầu vào công tác vận chuyển gạo, thực phẩm và xây dựng hệ thống kho tiếp liệu.

Số dân công bệnh hoạn đến đây với mục đich chữa bệnh, chúng tôi buộc lòng phải gửi trả họ về địa phương.

Như vậy, Ban Chỉ huy Tiểu đoàn I dân công cánh A, giơ chỉ còn Cường và tôi. Cường với nhiệm vụ Tiểu đoàn trưởng chịu trách nhiệm chỉ huy chung và liên lac thường xuyên với Hội Đồng Cung cấp Trung Ương để trực tiếp nhận chỉ thị. Còn tôi với tư cách Tiểu đoàn phó, làm công tác hành chánh quản trị và chịu trách nhiệm liên hệ công tác với Đảng ủy Khu A, cũng như Hậu Cần Tiền Phương, để biết số lượng công tác và phân phối vật thực phẩm cho dân công.

Về vấn đề quân y, phục vụ riêng cho dân công, theo lệnh Đảng ủy Tiền Phương. Ban quân y Khu A cho thiết lập một trạm xá riêng điều trị cho dân công, phát thuốc, thăm bệnh mỗi ngày và có đủ chỗ nằm cho mười người bệnh.

Bằng vào từng ấy công việc, tôi cứ phải đi luôn, hết nơi này rồi nơi khác, lội bộ muốn rã giò. Thỉnh thoảng nhờ xe vận tải hoặc xe «díp» của Ban Chỉ huy Tiền Phương.

Một hôm vào giữa tháng 5 năm 1965, tôi ghé thăm qua trạm xá của Tiểu đoàn đóng ở gần cầu Công Binh, để biết tình hình điều trị của dân công ở đây. Tình cờ tôi lại gặp một trongười hai cô gái dân công, cán bộ chi đoàn Thanh niên Lao động và là cán bộ Trung đội dân công, đã giúp Cường điều tra về hành động của tay đại diện Tỉnh ủy Bình Dương.

Vừa bước vào trạm xá, trong căn nhà nhỏ lợp mái bằng nylon để che mưa nắng, tôi thấy cô ta ngồi ở góc giường khóc nức nở. Người cô ta gầy nhom, da dẻ xanh như tàu lá, tóc tai bơ phờ, tưởng chừng như tôi không còn nhìn ra nữa. Cái vóc dáng ưa nhìn, xinh xắn, dí dỏm yêu đời của ngày nào biến mất. Đúng là nạn nhân của thần sốt rét Khu A.

Tôi vui vẻ hỏi ngay:

– Chà! Lâu gặp cô dữ! Cô đang bị sốt rét đó à?

Cô ta liếc nhìn tôi một thoáng đoạn khóc òa lên, mùi mẫn, khóc đến não lòng người đối diện. Tôi nghĩ thầm, đàn bà gái có khác. Bệnh một tí, đã bi quan khóc om lên rồi.

Tôi cười, cố tạo không khi vui vẻ:

– Vậy là đỡ rồi đó! Bậy nè, sao lại khóc? Người ta lêu lêu cho! Sao hôm nay cô đỡ nhiều rồi chớ?

Cô ta trả lời trong tức tửi:

-…Vẫn… còn sốt! Nhưng… nhưng… chắc em chết luôn thôi.

Cô ta lại khóc to hơn. Tôi dịu dàng, khuyên nhủ:

– Nè! Em nín đi! Em nghe anh nói nè! Em đừng có sợ kỳ cục vậy. Sốt rét là chuyện thường. Điều trị dễ lắm. Không chết chóc gì đâu mà em sợ. Em đừng khóc. Nín đi! Anh cam đoan vài bữa là hết. Hổng sao đâu!

Bị bệnh vốn đã yếu, khóc nhiều càng làm cho cô ta thêm xanh, lả người ra thêm. Tôi nhìn quanh. Trạm xá vắng ngắt. Tôi lấy làm lạ không hiểu cha nội y sĩ phụ trách trạm xá này với một y tá, hai cứu thương nữa, đi đâu mất biệt thế này! Làm việc cái kiểu này, rủi bệnh nhân biến chứng nguy hiểm thì ai trông nom cứu cấp cho? Tôi thấy khó chịu, bất mãn hết sức.

Cơn mệt đã làm cô ta bớt tức tửi, nhưng lại ngã nằm dài ra trên giường tre, hai vai gầy nhô lên theo nhịp thở. Mắt cô ta nhắm nghiền. Tôi lập lại lần nữa:

– Em yên tâm đi. Đừng có bi quan thái quá, sốt rét ở đây như ăn cơm bữa, chẳng chết chóc gì đâu.

– Không phải… em chết vì sốt rét đâu… mà chết vì… cái khác.

Tôi lấy làm lạ:

– Em nói gì lạ vậy? Anh không hiểu?

Cậu bảo vệ theo sau tôi, nhoẻn miệng cười. Tôi nhướng mắt nhìn cậu ta với vẻ không bằng lòng. Giữa lúc đó, cô ta úp mặt vào lòng hai bàn tay:

– Chết… chết vì bị… làm nhục!

– Gì mà nhục?

– Em nói vậy…mà anh không biết nữa.. sao?

– Có gì cô cứ báo cáo cho tôi biết. Tôi giải quyết cho. Ai làm nhục cô?

– Anh y tá trạm xá này!

Tôi nghe choáng váng. Ngạc nhiên đến sững sờ. Tôi hiểu rồi! Nhục là thế đó. Mặt tôi nóng bừng lên. Tôi bước tới, đỡ cô ta ngồi dựa vào gốc cột.

– Em nghe nè! Bình tĩnh lại đi. Đầu đuôi nội vụ nói cho anh biết, anh sẽ giải quyết cho.

Cô ta lau nước mắt:

– Mới đêm hôm qua! Số là em bị sốt rét từ mấy bữa trước. Chiều hôm qua em đươc khiêng đến nằm điều trị ở đây. Đồng chí y sĩ trưởng trạm dẫn mấy đồng chí y tá, cứu thương đi lãnh thuốc hết. Ở nhà chỉ còn lại có mỗi một mình anh ta.

Ngưng lại một tí để thở, cô ta tiếp:

– Anh ta khám bệnh, lấy nhiệt độ rồi tiêm cho em một ống thuốc. Cho tới tối, sau khi cho em uống một ca sữa, ảnh tiêm thêm một ống thuốc nữa, rồi ảnh leo lên giường ngồi kế bên. Ảnh bỏ tay ngang bụng em. Em xô ảnh, đuổi ảnh đi hỏi ảnh làm cái gì kỳ vậy? Em không bằng lòng đâu. Ảnh cười bảo ảnh có bổn phận phải thức gác bệnh cho em. Sau đó thì… thì…

Hai hàng nước mắt lại chảy như mưa. Cô ta vật vã lắc đầu, đập tay xuống giường tre đánh bộp một tiếng. Hai vai gầy lại run lên.

Tôi thở dài chép miệng:

– Thôi, em! Chuyện đã dĩ lỡ rồi! Biết sao giờ! Em đừng sầu thảm quá, gắng điều trị cho hết sốt rét đi. Thay mặt tổ chức, anh xin lỗi em, đã không tiên liệu, không đề phòng trước những chuyện đáng tiếc có thể xảy ra. Tổ chức sẽ có biện pháp và thẳng tay trừng trị kẻ đã gây nên tội ác. Em sẽ hài lòng. Anh sẽ có biện pháp ngay bây giờ, trước mắt em.

– Anh nghĩ coi giữa rừng già thế này, chung quanh không có ai, em lại bị sốt, tay chân giỡ không muốn nổi thì làm sao em chống đỡ cho được. La lối gì cũng vô ích. Trời ơi! Em đành xuôi tay, cắn răng mà chịu nhục. Bây giờ, chỉ có chết mới rửa sạch được cái nhục này. Còn dám nhìn mặt mũi ai. Trời ơi!

– Thôi, em! Tai nạn ai có muốn bao giờ! Trong trường hợp này, có việc gì mà em phải xấu hổ đâu. Anh sẽ giữ kín chuyện này. Mấy đồng chí đi với anh đây cũng vậy. Và anh cũng yêu cầu em giữ kín chuyện này đừng nói với ai khác, không có lợi. Ví dụ người khác có biết, người ta càng thương em chứ có ai khinh, ai cười em đâu. Em yên lòng đi.

Tôi đưa mắt nhìn quanh. Trạm xá vẫn vắng hoe, không thấy một nhân viên nào. Tôi muốn biết gấp anh chàng y tá đã giỡ trò dã man với bệnh nhân anh ta. Tôi sẽ giải quyết như thế nào đây? Bắt anh ta ngay bây giờ ư? Tôi lấy quyền gì mà bắt? Và bắt thì sau đó tôi phải làm gì? đưa anh ta đi đâu?

Còn để y nguyên tình trạng, chờ tôi về báo cáo cho Cường biết, rồi báo cáo lên cấp trên giải quyết sau thì hóa ra tôi nói láo, hứa láo với nàng sao? Ít ra trong cương vị chỉ huy của tôi, tôi cũng có chút quyền giải quyết vấn đề mà!

Tôi đi quan sát quanh trạm xá, đoạn quay trở lại hỏi cô ta:

– Mấy anh em ở trạm xá này, lãnh thuốc về tới chưa em?

– Dạ, họ về hồi sáng!

– Em có nói cho đồng chí y sĩ biết chuyện này chưa?

– Dạ rồi!

– Thế đồng chí ấy nói sao?

– Anh ấy giận lắm bảo để anh ấy báo cáo lên trên.

– Bây giờ mấy anh em đó đâu hết rồi?

– Họ đang cưa cây xoài mút, ở phía trong rừng kia!Em nghe tiếng cây ngã nãy giờ, chắc cũng sắp về tới.

Tôi lầm bầm khó chịu:

– Làm việc thế này thì hỏng! Đang giờ làm việc kéo nhau đi đốn xoài, bỏ trống trạm xá như thế này, hết chuyện rồi!

Hơn năm phút sau, đồng chí y sĩ và một cậu cứu thương từ phía sau rừng lửng thửng bước vào. Mỗi người, trên tay đều xách một túm xoài mút, vừa đi vừa nhai nhóp nhép. Thấy tôi, đồng chí y sĩ bối rối ra mặt. A!Thì ra người ta không ngờ tôi đến đây vào giữa lúc người ta bỏ nhà, bỏ đơn vị để đi đốn xoài.

Tôi không hề mở miệng trách, hay phê bình một lời nào về khuyết điểm trên đây. Nhưng tôi nghĩ, chỉ cần nhìn gương mặt khó chịu của tôi, từng ấy cũng quá đủ rồi. Không để cho đồng chí y sĩ kịp mở miệng xin lỗi, tôi nhập đề trước bằng nhát búa tạ:

– Đồng chí đã để cho nhân viên mình hãm hiếp bệnh nhân, vậy từ sáng giờ đồng chí đã giải quyết ra sao? Đồng chí y tá đó đâu rồi, đồng chí?

– Báo cáo đồng chí… – Anh ta ấp úng, nguợng ngập nhìn tôi – Báo cáo đồng chí… đồng chí y tá đó còn đang hái xoài trong kia.

– Lý lịch của đồng chí đó thế nào, đồng chí?

– Dạ… đồng chí đó trước đây là cán bộ quân y của 1.2 gửi về bổ sung cho Rờ. Bên phòng Quân Y lại gửi sang tăng cường cho Ban quân y Khu A và đưa đến làm việc ở đây mấy tuần nay. Đồng chí ấy đã lập gia đinh; có vợ, hai con còn lúc ở 1. 2. Thành phần xã hội của đồng chí ấy lai bần nông, tham gia cách mang từ lúc mới đồng khởi, gia nhập Đảng năm 1961. Công tác tốt, tư tưởng tốt…

Tôi cười. Tư tưởng tốt, tốt mà như thế đó? Tôi chẳng nói gì, mở bồng ra lấy giấy, viết mấy chữ gửi Ba Vinh. Cán bộ, chiến sĩ của trạm xá này thuộc quyền quản lý và điều động của Khu A. Do đó, việc giải quyết là việc của Đảng ủy Khu A.

Ở cương vị của tôi hôm nay, tôi chỉ có quyền «ốp», làm báo cáo và «giải lao» về cho Đảng ủy Khu A, để bên đó ngươi ta tùy nghi áp dụng kỹ luật.

Viết báo cáo cho Ba Vinh xong, tôi xếp lại và ra lệnh cho đồng chí bảo vệ của tôi, chốc nữa đây, khi «tội nhân» hái xoài vào phải mang báo cáo và dẫn cậu ta đi ngay tức khắc về giao trả cho Ba Vinh.

Sau đó, tôi từ giã mọi người đi thẳng về văn phòng Tiểu đoàn với tất cả sự bực dọc. Gặp Cường cũng vừa ở Hội Đồng Cung cấp Trung Ương về tới, đang ngồi uống trà. Chưa kịp chào hỏi, tôi đã xì ngay:

– Tôi vừa ở trạm xá về đây, găp một chuyện tầm bậy quá anh!

– Chuyện gì vậy, anh? – Cường hỏi.

– Tối hôm qua một chư vị y tá, lợi dụng mọi người đi lãnh thuốc, ở nhà một mình với cô dân công bị sốt rét liệt giường. Chư vị thức trực bệnh nhân bằng cách lật ngang cô ta «đớp» lia. Anh nghĩ có tầm bậy, dã man không chứ? Mà cái cô nạn nhân lại là một trong hai cô đoàn viên, cán bộ B của C1. hôm rồi báo cáo với mình về lão Tỉnh ủy Bình Dương đó.

Cường chưng hửng, nhảy nhổm lên:

– Trời đất! Có sao không?

– Còn sao gì nữa! «đớp» rồi.

– Không! Tôi muốn nói cô kia kìa! Người ta đang sốt rét, làm ẩu dám chết như chơi!

– Cô kia thì không chết. Nhưng bây giờ thì thằng đó chết.

Cường cười:

– Đéo quả! Nó mà ở miền Bắc, ra tòa thì nhất định hai chục năm tù ngồi. Rồi anh giải quyết ra sao?

– Chư vị đó thuộc quân số của Khu A, nên tôi làm báo cáo «ốp» rồi giải giao cho Ba Vinh, để Đảng ủy Khu A họ giải quyết.

– Chuyện này làm tôi nhớ tới cha nội Vũ ở chiến dịch Bình Giã hôm trước. Mấy lần anh đến B Hậu Cần Tiền Phương, anh có nghe Xuân Chánh kể cho nghe chưa? Cán bộ của Xuân Chánh đó!

– Chưa!

Cường cười hăng hắc:

– Cha nội Vũ đó, trình độ dê đã thuộc vào hàng sư tổ. Y còn trẻ lắm. Đẹp trai nữa, lại chưa vợ. Ở chiến dịch Bình Giã, Cục Hậu Cần cử y đến tiếp với Xuân Chánh, phụ trách điều khiển công tác hậu cần chiến dịch. Chả là dân công phục vụ chiến dịch Bình Giã, đa số là phụ nữ. Không hiểu y làm cách nào mà trong vòng 3 tháng 23 ngày điều khiển dân công sàng gạo, phơi gạo, vô kho ở chiến dịch đã có 7 cô đi thưa kiện với Bộ Chỉ huy Tiền Phương về cái tội Sở Khanh. Trong số 7 cô dân công đó, có 3 cô bắt đầu có thai. Ấy chưa kể số nữ dân công khác làm thinh, không thưa gởi. Số đó chưa biết là bao nhiêu. Ghê chưa! Trước kia, y là trung úy sĩ quan Hậu Cần của 338 ở miền Bắc đó.

– Bộ y là thánh sao? Chỉ có từng ấy ngày.. rồi trước khi ngủ với người ta, y còn phải mất một số thời gian cần thiết để gạ gẫm nữa chứ! Chả lẽ mỗi đêm y có thể ngủ một lúc với nhiều người? Chả lẽ…

– Thiệt mà, anh! Rõ ràng là có 7 cô đi thưa. Vụ này tôi biết rõ ràng mà!

– Rồi Bộ Chỉ huy làm sao giäi quyết cho êm xuôi thỏa mãn được hết 7 cô! Y chỉ có thể nhận một người làm vợ thôi chứ!

– Còn biết làm sao bây giờ? Rốt cục y chả làm chồng cô nào cả! Anh Ba Đình mời y nghỉ công tác Hậu Cần, chuyển ngành cho y ngồi ''tham thiền nhập định'', nghiền ngẫm về kỹ thụật dê. Thấy kỹ thuật của y cao siêu quá, Cục Chính trị cho cảnh vệ đến hộ tống rước y về Khu B để tuyên dương công trạng rồi.

Cường khoái trá về lối dí dỏm của mình, vỗ tay đánh đét một cái, cười lăn ra. Tôi cũng không nín được cười. Vừa cười, vừa nghĩ mà phục cái anh chàng Vũ ''quá cỡ'' ấy.

Hết Quyển II