Chương XIII (2)
Sáng ngày 7 tháng 6 tôi được lệnh đi đến bộ phận công tác chính trị để trao bản báo cáo động viên chính trị của Đảng ủy chiến dịch, ba bản quyết tâm thư của Trung đoàn Q761, Q762, Q763 và một số tin tức bài vở khác cho kịp quay Roneo phát hành tờ báo «Thông tin chiến dịch» do bộ phận này phụ trách.
Với lề lối làm việc và phương thức này, công tác động viên tinh thần chiến đấu được nâng lên hàng đầu, quan trọng bậc nhất. Nó đã trở thành một thủ tục, một nguyên tắc được áp dụng từ lâu cho quân đội Cộng Sản Trung Hoa. Ngày nay trong cuộc chiến tranh này, nguyên tắc đó được rập khuôn theo, áp dụng triệt để.
Tôi nghĩ bụng dù chế độ này, khung trời này là một cái gì ghê rợn, đau khổ và phiền muộn của một thế giới không có tự do, không có cá nhân, không có bản ngã, làm tôi sợ hãi nhưng với những phương pháp làm việc đặc hiệu của nó, quả là một công trình nghiên cứu tính toán chi li, hết sức hiệu nghiệm, tác động mãnh liệt đến tinh thần chiến đấu của quân đội. Nó là một ưu điểm biết khai thác, hết sức khoa học. Khách quan, vô tư mà nhận xét, thực tôi không thể nào phủ nhận được cái giá trị phương thức người ta đã áp dụng nó. Đúng là một thứ «duy vật tuyệt đỉnh» khi người ta đem tư tưởng tâm tình, không thuộc về vật chất, nhào nắn nó, biến nó thành vật chất, thành hành động. Có thể trên phương diện triết lý, nhiều người sẽ không chấp nhận «bản chất của tinh thần» là duy vật mà cho là một lối ngụy biện, một mâu thuẫn kỳ cục bởi «đề cao tinh thần», chấp nhận giá trị tuyệt đối của tinh thần thì sao còn là duy vật?
Cái chuyện chẻ làm tư sợi tóc triết lý, nhảy vào giữa biển mênh mông của triết học quả là điều tôi sợ nhất, dốt nhất. Nhưng trước mặt tôi, những việc của người ta làm, quan niệm «xử dụng tinh thần» của người ta như là lối áp dụng công thức toán cộng, toán trừ như nhìn đáp số qua máy tính điện tử. Người ta quan niệm con người như cái máy thì tôi còn biết nói năng sao cho hợp lý hơn?
Theo đó, để nâng tinh thần chiến đấu của quân đội đến mức độ sẵn sàng chết trước khi đánh giặc, chết không cần phải suy nghĩ, thắc mắc, người ta đẩy cán bộ, chiến sĩ của mình lao vào một cơn lốc, một mê hồn trận của tâm thức, quay cuồng, rồi trôi thật nhanh theo chiều xuống của dòng nước lũ từ trên một ngọn thác cao. Trước chiến dịch, người ta cố làm cho mọi người tin, kế hoạch và ý đồ được tiên liệu là chính xác, là khoa học vô song. Đánh là tất thắng, thắng một cách vẻ vang, dễ như chẻ tre, như ăn một chiếc bánh ngọt. Song song với học sa bàn, là chỉnh huấn chính trị, gây ý thức căm thù, truyền cái sức mạnh căm thù giai cấp, căm thù kẻ địch cho ngấm vào từng thớ thịt, từng tế bào một.
Ngược lại, người ta cũng xây dựng một niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng, thần thánh hoá lý tưởng, vẽ ra trước mắt mọi người một tương lai vô cùng rực rỡ, chói lọi những hào quang, hấp dẫn y như thật. Người ta đề cao sự hy sinh, chết cho lý tưởng cao cả như những á thánh tử vì đạo. Người ta chống anh hùng cá nhân chủ nghĩa nhưng lại thổi phồng lên ngọn lửa anh hùng của cá nhân, bảo đó là thứ anh hùng cách mạng, anh hùng dân tộc, chết vinh quang.
Rồi những kỹ thuật khác được áp dụng. Nào phát động đợt thi đua lập thành tích, được xem phim căm thù, phim chiến thắng, được đoàn văn công phục dịch, được tổ chức liên hoan là nhất là trong suốt thời gian tiền chiến dịch, từ lúc bắt đầu học sa bàn, chỉnh huấn cho đến ngày chiến dịch khai diễn, không khí trong đơn vị lúc nào cũng được động viên vui tươi, phấn khởi, chỉ biết có chiến thắng. Đơn vị sinh hoạt tập thể suốt ngày, không còn có thì giờ rảnh để suy tư. Không khí đó, được nuôi dưỡng, được khởi động mãi. Những bài ca cách mạng, những bài ca chiến thắng được hát đi hát lại không ngừng. Báo chí với những bài đề cao hy sinh, đề cao anh hùng tính v.v.. được chính trị viên đọc cho đơn vị nghe, có hướng dẫn, phê bình đề cao v.v…
Thử hỏi, công thức đó, được người ta áp dụng một cách thuần thục, dồn dập, khoa học do những cán bộ chính trị chuyên nghiệp, những đạo diễn thạo nghề khéo léo, làm sao nó không tác động mãnh liệt vào tinh thần chiến đấu của chiến sĩ?
Vừa đi tôi vừa suy nghĩ bâng khuâng. Tôi nhớ những ngày còn ở Sài Gòn, tôi đọc báo thấy nhan nhãn hàng ngày những tin tức chiến sự. Theo đó, nhiều người Mỹ, và cũng nhiều người khác cho rằng lính Việt Cộng ra trận đánh như điên, chết như ngả rạ vẫn không chùn bước, chắc chắn trước khi ra trận lính Việt Cộng thế nào cũng bị bắt phải uống một thứ thuốc kích thích, một độc dược về thần kinh nào đó.
Bây giờ, ở đây những điều xảy ra chung quanh tôi, ngoài hiểu biết và tưởng tượng của mình, tôi đã hiểu vì sao. Những người không ở đây, làm sao hiểu được, đánh giá nổi những tác động tinh thần do phương pháp và công thức động viên chính trị trên đây tạo ra. Phương pháp đó, công thức đó quả còn nguy hiểm gấp ngàn lần dược chất. Dược chất chỉ có thể giới hạn tình trạng vô thức, triệt tiêu bản ngã của con người trong thời gian ngắn ngủi nhất định. Sau đó, nó sẽ trở lại trạng thái bình thường. Còn phương pháp động viên kể trên áp dụng liên tục ngày này sang ngày khác thì có lẽ người ta bị rơi vào trạng thái vô thức đến muôn đời.
Quả là một phương pháp hết sức khoa học, hay vô kể nhưng cũng nguy hiểm, độc đại vô song. Còn đâu nữa là sáng suốt, là một con người bình thường như muôn ngàn người khác. Tôi thấy sợ, sợ hãi thật sự.
May, tôi không bị ghép vào một đơn vị chiến đấu. Không bị người ta quăng vào cái sinh hoạt, cái không khí vô thức triền miên đó. Nếu tôi bị đẩy vào, liệu tôi có còn giữ được sự nhận xét khách quan và những ý niệm, và nỗi kiên nhẫn đợi chờ, chịu đựng bất lâu nay.
Suốt ngày 8 tháng 6, được xem là ngày «yên tĩnh» cái yên tĩnh ngột ngạt của biển cả trước giờ bão tố. Ba Đình, Năm Thạch, Tư Thắng và Hai Chân, bốn người ngồi uống cà phê sữa bánh ngọt, ôn chuyện đã qua lúc còn ở Hà Nội những năm về trước. Trông người nào cũng có vẻ nhàn hạ, vui cười thoải mái hết sức. Sau cùng, ngã ra đánh bài «Tú lơ khơ».
Riêng tôi, thấy mình lạc lõng thừa thãi trong cái sinh hoạt của bốn ông Tướng, tôi xách võng ra nhà cảnh vệ treo tòn ten đánh một giấc ngủ dài…
Trưa ngày 9, sau khi ăn cơm xong. Hai Chân và Năm Thạch sửa soạn cùng với một tiểu đội cảnh vệ lên đường đến địa điểm tập kết của Trung đoàn Q672. Còn Ba Đình, Tư Thắng và tôi cùng với các cán bộ, chiến sĩ phục vụ tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương cũng sửa soạn bồng bị, đi đến địa điểm mới dành làm Chỉ huy sở chiến dịch.
Công việc của Hai Chân Chính ủy Tiền Phương, phải đi đến địa điểm tập kết Trung đoàn Q672 là một công việc cần thiết. Một công thức bất di bất dịch trước giờ xuất quân ra mặt trận. Địa điểm tập kết tức là địa điểm được Bộ Chỉ huy chỉ định sẵn. Bất kỳ đơn vị nào cũng vậy, trước giờ lên đường ra mặt trận phải đến tập trung ở địa điểm tập kết. Địa điểm đó là địa điểm làm lễ «xuất kích» đúng theo thủ tục.
Bộ đội tập trung trước một bãi đất trống, tập họp thành nhiều hàng dọc, đơn vị nào đứng riêng theo đơn vị nấy. Tất cả đều đứng nghiêm, nghe Chính ủy «báo cáo động viên» khuyên nhủ dặn dò và thay mặt Đảng nêu lên mục đích yêu cầu của chiến dịch cần phải đạt được. Những khó khăn, thuận lợi ra sao, mức độ hy sinh sẽ như thế nào, kêu gọi cán bộ chiến sĩ hãy nêu cao truyền thống của đơn vị, các đảng viên phải xung phong gương mẫu, vượt lên trước lập công đầu v.v… kích thích lòng hy sinh dũng cảm trong chiến đấu, thi đua nhau cố vượt cho được «chỉ tiêu» đề ra.
Kế đó là trao cờ luân lưu «quyết chiến thắng», toàn đơn vị tuyên thệ «trước Đảng», đọc «quyết tâm thư» trước Chính ủy đại diện Đảng. Thế rồi, theo thứ tự, đơn vị tiền tiêu trương cờ, dẫn đầu đoàn quân đi ra mặt trận, trước mặt Chính ủy.
Thủ tục trên đây là thủ tục động viên tinh thần cuối cùng, mà theo Đảng, nó có một tác dụng phấn khởi vô cùng to lớn, góp phần quyết định chiến thắng trong chiến dịch.
Lần chiến dịch Đồng Xoài này, Trung đoàn Q762 được chỉ định làm đơn vị chủ công, dĩ nhiên Chính ủy Tiền Phương tức Hai Chân phải đến làm lễ xuất kích. Còn những đơn vị khác, Trung đoàn Q761, Q763 v.v… vì các địa điểm tập kết xa xôi, Bộ Chỉ huy Tiền Phương không đến được, Chính ủy Trung đoàn thay mặt thực hiện.
Đáng lẽ, Hai Chân đi mỗi một mình, đã quá đủ nhưng có Năm Thạch cùng đi, thêm phần long trọng làm vững lòng quân hơn. Bởi Cầm là tư lệnh phó, là tác giả kế hoạch chiến dịch, người hồi hộp ai hết trong công tác đầu tiên, thi thố tài năng tại chiến trường miền Nam.
Hai Chân và Năm Thạch chống gậy lên đường rồi thì Ba Đình, Tư Thắng cũng mang xắc-cốt lên vai, dẫn tôi và hai cận vệ ra nhà cảnh vệ leo lên xe «díp» chạy đến chỉ huy sở mới. Những anh em khác lục đục cuốc bộ theo sau.
Tại đây các bộ phận bảo vệ, điện đài thông tin đã chuẩn bị sửa soạn xong xuôi. Hệ thống công sự, giao thông hào, bố trí cảnh giới cũng như hệ thống thông tin, điện thoại trên mặt đất đã giăng mắc gần xong.
Trời bắt đầu mưa lâm râm, tối sẫm. Tại chỉ huy sở, Hai Chân và Năm Thạch cũng đã về tới. Trong căn lều họp tạm bằng vải cao su, nền đất được đào sâu thành công sự phòng thủ, toàn bộ Bộ Chỉ huy chiến dịch ngồi quanh hai thùng gỗ thông rỗng kê sát lại làm bàn.
Bữa ăn tối bắt đầu. Trên bàn, thau đựng gỏi gà trộn rau răm với bắp cải, có dầu giấm, thơm phưng phức. Hai dĩa đựng muối ớt chanh để hai bên. Hai đầu bàn là hai ly cối to, lổn ngổn mày phiến đá cục vuông vắn, đều nhau. Dọc theo bờ đất «công sự» hơn chục chai bia để lẫn lộn với nào xắc cốt, máy điện thoại, bình trà v.v…
Hai cảnh vệ và «anh nuôi» chạy đi chạy lại từ bếp tạm, cách đó hơn trăm thước. Quanh bàn, Hai Chân, Ba Đình,Tư Thắng, Năm Thạch, bốn ông tướng ngồi nhìn nhau nói chuyện vu vơ, dù rằng những giờ tới đây, chiến dịch sẽ bắt đầu, núi rừng Đồng Xoài sẽ chìm trong biển lửa và máu, bom đạn rền trời.
Bữa ăn hôm nay, do bộ phận Hậu Cần chuẩn bị từ trước. Muốn dành cho những thủ trưởng cao cấp của mình một cái gì đặc biệt, để chứng tỏ ý thức bồi dưỡng cán bộ, phục vụ Đảng với tinh thần trách nhiệm cao, bao giờ cũng chăm sóc sức khỏe cán bộ cao cấp từng li, từng tí, từng miếng ăn giấc ngủ, từ một đòi hỏi thông thường. Bởi hàng cán bộ cao cấp tướng lãnh của Đảng phải được hưởng một chế độ đặc biệt. Đó là chính sách. Huống hồ tại miền Nam hôm nay, có được mấy người đâu?
Gà do Hậu Cần khu A mua cung cấp. Rượu bia, nước ngọt v.v… cho đến những vật dụng khác cũng vậy. Việc làm thế nào trong bữa ăn của Bộ Chỉ huy có được rau cải tươi, thực phẩm tươi đó là trách nhiệm là bổn phận của hậu cần, của cán bộ bảo vệ. Chỉ trừ trường hợp «vô phương cạy gỡ» không thể tìm ở đâu được thì thôi chứ nếu có thể tìm được nhất định bằng mọi cách phải thực hiện cho kỳ được.
Chiến khu, núi rừng không có thì tìm ở đồng bằng. Đồng bằng không có thì cho lệnh các cơ sở thu mua, tiếp phẩm mua ở Bến Cát, ở Bình Dương ở Sài Gòn, có sao đâu! Chuyên chở vận tải đã có chiến sĩ lo. Chở bằng xe, không thì tải bộ.
Đảng dạy rằng, cán bộ là «vốn quý» của Đảng. Cho nên chính sách cán bộ là một chính sách lớn, ngang hàng với những chính sách khác của Đảng. Khi đã bước chân vào đây sống trong thế giới này, dù là đảng viên hay quần chúng ngoài Đảng, dù là cán bộ hay chiến sĩ, ai ai cũng được giáo dục biết rõ điều đó để không phải thắc mắc, suy bì về những tiêu chuẩn được đãi ngộ của từng loại cán bộ. Hoặc tại sao mình lại phải có bổn phận phục vụ chu đáo, khổ nhọc còn hơn cả lúc còn ở nhà chăm sóc, lo lắng cho cha mẹ mình?
Ở gia đình, là con, con có thể lười, không kiếm thức ăn ngon về cho mẹ. Không giăng mùng cho cha mẹ ngủ mỗi tối, không lo từng cục xà phòng để tắm rửa, không chiều một thị hiếu, thói quen nào của cha mẹ, không sao cả. Nhưng ở đây ở thế giới này, khi được liệt vào hàng cán bộ cao cấp, được hưởng chế độ có cần vụ, vệ sĩ, thì những ai được chỉ định làm cần vụ, vệ sĩ, những việc trên đây nhất nhất phải vui vẻ làm tròn. Phải tỏ ra mình sung sướng, hãnh diện được phục vụ cán bộ, làm cán bộ hài lòng. Phải chiều từng thói quen, phải biết đáp ứng những thị hiếu riêng, phải đỡ đần tay chân, chăm sóc từng chút một v.v…
Nhiệm vụ đó không chỉ của cần vụ, vệ sĩ mà là của tất cả các cán bộ cấp dưới, các chiến sĩ bất kỳ ở đâu, ở đơn vị nào khi có cán bộ cao cấp đến.
Thau gỏi gà trộn rau răm, bắp cải, dầu giấm với mấy cục đá, mấy chai bia hôm nay, về giá trị vật chất nó không có nghĩa gì nhưng nó nói cho tôi biết hàng trăm ý nghĩa khác.
Ngồi bên thềm đất, dựa gốc cột, tôi vờ chửa mấy cái quai dép râu của mình, như không để ý đến hoạt cảnh chung quanh. Tôi ăn cơm chiều rồi. Ăn từ khi này với những cán bộ chiến sĩ khác tại bếp của anh nuôi.
Biết sao giờ? Đành là tôi phải ngồi đây. Ngồi đây, trong lúc mọi người bận rộn phải lo chăm sóc bữa ăn cho «mấy anh lớn», tôi đành tạo cho tôi công việc chữa dép để thấy mình không nhàn hạ, thừa thãi. Đá cục đã có sẵn trong hai ly cối to, tôi có thể khui rượu bia hầu hạ cho Bộ Chỉ huy của tôi, nhưng không hiểu sao tôi không đứng dậy nổi và làm công việc đó được.
Dù công việc hết sức nhẹ nhàng. Hoặc tôi có thể mời, có thể nhũn nhặn, lễ phép gợi một vài câu vui vẻ, lấy lòng, biểu lộ được tinh thần phục vụ, sự lo lắng của tôi với cấp trên. Ấy thế mà vẫn không. Rõ ràng, tôi tệ thật.
Tôi cứ mãi xỏ tới, kéo lui mấy cái quai dép vào đôi dép râu. Tôi nhớ hồi chiều, với dáng điệu sung sướng, đôi mắt sáng ngời, tay chống gậy cà thọt, tay ôm cái bình thủy đựng nước đá cục của Ba Vinh từ chiếc xe «díp» đậu ngoài đường mòn hối hả đi vào khoe với Ba Đình.
Ba Vinh cho biết cái «phi-di-đe» chạy dầu hôi của xưởng Dược khu A mấy bữa nay hư. Phải chữa ngày đêm mấy hôm rồi mới «chạy» được, Đảng ủy khu A và mấy đồng chí Dược liền cho «chạy đá» để gọi là chút quà mang đến, hân hạnh được phục vụ Bộ Chỉ huy trong những ngày gian khổ tại khu A. Và cũng là để mừng cho chiến dịch được đại thắng lợi, lập thành tích dâng lên Bác Đảng…
Ba Đình nheo mắt, phê: «Mấy đồng chí bày vẽ quá. Mấy đồng chí có khuyết điểm làm cho tụi tôi quen hưởng thụ thiếu ý thức chịu đựng gian khổ rồi đó nhé!» Được phê câu đó, mắt Ba Vinh cũng sáng ngời lên. Miệng cười toét rộng đến mang tai.
Kể ra, mấy cục nước đá lạnh kia, ở thành phố nó chẳng có nghĩa gì. Chỉ cần tốn ít đồng. Giữa rừng sâu, hoang vắng thế này, quả nó là một kỳ công, một cái gì khó khăn quý giá thực. Rồi từ xưởng, Dược ở «Mã Đà cầu dây» mang chuyển qua hàng năm bảy cây số, lội bộ mới đến đường xe. Và chiếc xe «díp» chạy như trâu điên từ đó đến đây, chở có mỗi bình nước đá cục. Phải giá trị của nó lớn lắm, Ba Vinh đáng được hưởng lời «trách yêu» đó của cấp trên.
Cho đến những bắp cải mang từ chợ Bình Dương về đây, những cọng rau răm, rau thơm từ một miếng rẫy nào xa lắc, những trái chanh, trái ớt từ bên kia quốc lộ 13, Vĩnh Tân, Bình Mỹ, mấy con gà v.v… nó không quý nhưng là cả một công trình, nói gì đến những chai bia…
Tôi ngồi rút quai dép với sự suy nghĩ bâng quơ
Tôi đứng dây, xỏ dép vào chân. Phía trong, bữa ăn của Anh Hai, Anh Ba, Anh Tư, Anh Năm đã bắt đầu. Đúng là bữa ăn «ưu điểm», «bồi dưỡng cán bộ» trước giờ chiến dịch. Ly bia lạnh sùi bọt được chuyền tay nhau.
Tôi lửng thửng đi về phía bếp. Chờ chừng nào Bộ Chỉ huy ăn xong tôi sẽ trở lại. Mưa vẫn lất phất bay. Tôi nghĩ giờ này các anh em chiến sĩ Trung đoàn Q762 chắc đã tiếp cận bên đồn.
Hơn một giờ sau, tôi trở lại lều. Trời tối om, ngửa tay không nhìn thấy. Xác lá và cây mục tạo nên những đốm sáng lân tỉnh, lấp loáng khắp rừng. Căn lều chỉ huy sở sáng lên qua bóng đèn điện câu pin hộp, thứ pin dành riêng cho quân đội. Bữa ăn xong từ lâu..
Bàn được dọn sạch. Bên trên, trước mặt mỗi người là một cốc cà phê sữa đậm. Hộp thuốc «Craven» mở ngỏ. Khói thuốc bay tản mạn cả căn nhà hầm. Hai máy điện thoại đen và trắng lạnh lùng, thờ ơ nằm ở góc bàn.
Ngồi cạnh hai máy điện thoại là Ba Đình. Kế đó là Hải Chân. Đối diện với Ba Đình là Năm Thạch và Tư Thắng. Cả bốn người đều yên lặng, không ai nói với ai một câu nào.
Riêng tôi, tôi tự pha cho mình một ca đầy cà phê đen sánh, ngồi lên bục cây kê ở sát cửa, bậc đất làm thang lên xuống căn hầm. Tôi vừa nhấm nháp những giọt cà phê đắng, vừa nhìn ra ngoài trời đêm dày đặc, lắc rắc những tiếng mưa rơi nhẹ hạt trên cành lá.
Chung quanh, nhiều căn lều nằm trên đất, đèn chai đỏ ngầu đốt giăng giăng. Tôi vẳng nghe tiếng nói chuyện rì rào, thỉnh thoảng điểm qua những tiếng cười lẫn trong tiếng «tít tít ta ta ta…» của căn phòng cơ yếu ở lều bên. Giữa những gian lều, bóng đèn pin thoáng qua thoáng lại của những người vội vã tới lui.
Phía bếp ánh lửa bập bùng. Tổ anh nuôi đang lo nấu cháo phục vụ bữa ăn đêm.
Chợt từ phía bên căn lều của bộ phận «cơ yếu», ba bốn cây đèn pin loé lên rọi về phía tôi. Ba bốn người vừa đi tới vừa thì thầm nói chuyện.
Đi đầu là anh Tám Paul tham mưu phó Bộ Chỉ huy Tiền Phương. Theo lời anh em nói cho tôi biết lúc còn ở miền Bắc, Tám Paul mang quân hàm Trung Tá. Năm 1946, Paul là một trong những người điều đình với Pháp tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng. Trước đây, trong chiến dịch Bình Giã, Paul là trung đoàn trưởng một trung đoàn. Sau chiến dịch khi rút quân về đây thì được đưa về Bộ Chỉ huy Tiền Phương làm Tham mưu phó. Paul trắng trẻo, cao ráo, mũi cao trông như Tây lai. Không hiểu sao, cho đến ngày nay anh ta còn giữ cái tên Tây ấy làm gì? Và đảng cũng chấp nhận cái tên đó kể cũng lạ rằng anh ta Việt hoá từ Paul sang Nguyễn thế Bôn
Đi kế Tám Paul, là Tám Lành. Tám Lành tức bác sĩ Tân Hoa, Nguyễn văn Hoa. Trong những ngày kháng chiến chống Pháp tại miền nam (1945-1954) bác sĩ Hoa là quân y viện phó khu 7 rồi Phân liên khu miền Đông. Năm 1948 Hoa bị Pháp bắt, sang 1949 được trao đổi tù binh với một lố cán bộ khác trong số đó có cả bác sĩ Nguyễn Thiện Thành. Tập kết ra Bắc, Hoa được đưa sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh tu nghiệp tại Viện Y học quân sự Mát-sco-va (Moscow) và được phong quân hàm trung tá quân y.
Từ một bác sĩ nội khoa, Hoa được chuyển sang ngành quân y chiến lược, chuyên nghiên cứu, ước lượng, đánh giá thiệt hại, mức độ thương vong cho những trận đánh, mở chiến dịch, cho tỷ lệ, thống kê v.v… Quả là lần đầu tiên trong đời tôi mới được nghe nói đến một nghành mới mẻ về y học quân sự này. Hoa được đưa về Nam hơn một năm nay, là một trong bốn Phó Phòng Quân Y của R với cấp bằng Phó Tiến sĩ Y học do Liên Xô cấp cho.
Lạ thực, cái cấp bằng Phó tiến sĩ này cũng lần đầu tiên tôi được nghe nói đến. Tại sao không là Tiến sĩ như các nước khác trên thế giới, lại có cấp Phó Tiến sĩ? Tôi tò mò hỏi một bác sĩ khác thì được biết tại Liên Xô, cấp bằng Phó Tiến sĩ Y học là một cấp bằng đặc biệt để cho những người không mang quốc tịch Liên Xô, dành cho các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa. Còn nếu là dân Liên Xô, cũng học chung một trường, chung lớp, tài nghệ kém hơn đi nữa, cấp bằng vẫn là tiến sĩ. Không có phó. Thành ra phó tiến sĩ của ta là tiến sĩ của Liên Xô.
Lối giải thích trên đây dĩ nhiên không làm tôi hài lòng chút nào. Tôi thắc mắc hỏi thêm thì đồng chí bác sĩ đó nhún vai cười, bảo chỉ có trời và đồng chí Khơ rút sốp (Khrushchev) biết! Tôi cũng cười. Kiểu này là kiểu chơi cha đây. Cũng là đồng chí với nhau, cùng là anh em «thân thiết ruột thịt» trong phe xã hội chủ nghĩa với nhau lại giở trò kỳ thị «chơi cha», coi sao được.
Anh em chung quanh, ngay cả Bộ Chỉ huy của tôi, khen Tám Lành tức Tám Hoa không tiếc lời. Nào ước lượng giá chính xác, so với thực tế sau khi tổng kết chỉ sai kém 1% đến 2%, nào đặt kế hoạch điều trị, chuẩn bị thuốc men, điều động, sắp xếp cán bộ quân y đâu vào đó, khít khao v.v…
Vì vậy, ở chiến dịch Bình Giã, giờ đây là chiến dịch Đồng Xoài, Tám Lành được Bộ Chỉ huy R chỉ định thay mặt cho Phòng Quân Y R (cơ quan quân y cao cấp nhất Miền Nam, trực thuộc Cục Hậu Cần) tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương, tham gia quyết định kế hoạch chung, điều khiển chiến dịch.
Sau Tám Lành là Tám Thành, một cán bộ chính trị từ bên Cục chính trị R và Quân ủy Miền gửi sáng làm trợ lý cho Hai Châu. Đi sau rốt là Năm Nguyên, một cán bộ của Cục Hậu Cần.
Tôi đứng dậy tránh sang lên, nhường lối cho bốn người bước xuống. Chưa kịp bước xuống Tám Paul hấp tấp báo cáo:
– Báo cáo anh Ba với anh Năm, các đơn vị mình đã tiếp cận xong xuôi theo kế hoạch hết rồi ạ! Tình hình yên tĩnh, thuận lợi. Không có sơ hở hay trở ngại nào xảy ra.
Ba Đình nhếch miệng:
– Tốt! Mấy ông xuống đây!
Hai Chân đứng dậy gọi vọng ra:
– Chú Hậu đâu! Pha thêm ít cà phê, chú Hậu!
Có tiếng «dạ, có!» vang lên ở phía trái căn lều. Rồi tôi nghe có tiếng cây rung, rơi nước lộp độp và tiếng xào xạc. Ánh đèn chớp lên. Thì ra Hậu và mấy chú vệ sĩ, cần vụ Bộ Chỉ huy căng nilon nóc, găng võng ở đó hồi nào tôi không hay. Nãy giờ, mấy chú nằm im thin thít. Vậy, chốc nữa tôi phải vác bồng đến «hạ trại» chung với mấy chú vệ sĩ cho vui. Đêm nay chắc là Bộ Chỉ huy đua nhau thức suốt sáng để theo dõi trận đánh, chứ tôi thức để làm cái thống chế gì?
Năm Thạch rút trong xắc cốt tấm bản đồ lớn vẽ sa bàn trận đánh, mở ra trải lên bàn.
– Các đồng chí đã liên lạc với các đồng chí pháo chưa? Sẵn sàng hết cả rồi chứ?
– Dạ, sẵn sàng hết rồi, anh Năm!
Ngồi xuống băng tạm bằng cây rừng chôn xuống đất, Tám Paul tiếp:
– Anh Sáu Khâm mới điện về cho biết, chốc nữa khi đường dây mắc xong, Ban Chỉ huy Q2 sẽ gọi điện thoại thẳng về báo cáo trực tiếp với anh.
Không đầy năm phút sau điện thoại trên bàn reo vang. Ba Đình cười nụ, mặt rạng rỡ, vừa nắm lấy ống nói, vừa chép miệng:
– Chà! Dữ ác! Mình trông muốn hụt hơi!
Mọi người im lặng nhìn chầm chập vào mặt Ba Đình. Ba Đình thong thả áp ống nói vào miệng:
– Alo! Sáu Khâm hả! Ba Đình đây! Q2 có gì lạ không anh?… Ờ! Tốt! Cứ thế mà làm. Có gì cứ gọi về cho biết… Ờ, thôi nhé! Alo! Tám Vân!… Anh nghe rõ chứ? Anh nghe tôi nói chuyện với Sáu Khâm chứ?… Thế nào? Q1 có gì lạ không?… Alo. Ờ… Alo! Út Thới có đó không? Đình đây!… Sao? Khu vực sân bay thế nào?… Ờ! Anh em chiến sĩ Q3 vậy là giỏi đấy! Lính đồng bằng mới lên rừng núi đánh vài trận mà đã thích hợp chiến trường nhanh như vậy, tiến bộ quá rồi! Thôi nhé! Nói một lần mà cả ba nơi cùng nghe tiện biết bao nhiêu. Nếu cần thảo luận, thế lại hay, đỡ mất thì giờ.
Gác ống nói xuống giá, Ba Đình cười, đưa tay vỗ nhè nhẹ vào bụng:
– Xong rồi! Tốt! Hì hì! Giờ mình chỉ việc thức chờ kết quả khắp nơi báo cáo về. Hy vọng trong vòng vài giờ là mình tém gọn cứ điểm Đồng Xoài. So với Bình Giã, hỏa lực mình kỳ này hùng hậu hơn nhiều. Ở Bình Giã đâu có sơn pháo trợ lực? Cũng chưa xử dụng đến pháo dù và súng phun lửa. Mà lửa của mình xử dụng được đến 6 giây. Mấy đồng chí Trung Quốc vĩ đại thực. Phun lửa của Mỹ chỉ có một bình chứa còn của Trung Quốc đến hai bình. Khả năng gấp đôi.
Tám Paul cũng cười hì hì:
– Phen này tụi nó kêu trời cho anh Ba xem. Hạ xong Đồng Xoài là vang dội thế giới đó, anh Ba!
Gió rừng đêm mưa nghe lạnh. Tôi lấy chiếc khăn rằn quấn quanh cổ. Tôi vấn hết điếu thuốc rê này sang điếu thuốc rê khác, đốt liên miên.
Chợt tôi nghe về hướng Tây có tiếng đại bác nổ rền. Một tiếng hai tiếng rồi hàng loạt. Sau đó là tiếng đại liên dòn dã liên miên như mưa theo cơn gió Tây Nam vọng lại. Tôi giật mình vội quay nhìn vào trong.
Tất cả mọi người cũng xoe trong mắt nhìn nhau. Gân trán nổi vồng. Im phăng phắc. Không khí như ngộp thở, căng thẳng tột độ.
Ba Đình đứng nhỏm dậy, la lên:
– Gì vậy? Pháo địch hay pháo mình? Trời ơi! Q2 làm gì vậy cà?
Năm Thạch, đôi mày nhíu lại, tay chộp vội ống nói nhấc bổng lên, quay lia lịa:
– Alo! Alo! Sáu Khâm! Út Thới! Alo! Alo! Sáu Khâm Út Thới nghe không? Bộ Chỉ huy đây! Tình hình mặt trận thế nào báo cáo ngay! Lộ rồi phải không?… Hả? Nói to lên, nghe không rõ.. Hả?… Tại sao? Bị lộ phải không? Cho điều tra gấp. Năm phút sau báo cáo kết quả. Alo! Alo! Còn Út Thới, thế nào? Cánh sân bay yên tĩnh?… Ừ! Ừ!… Được… Tốt… Ừ! Ủa! Gì vậy Út Thới? Alo Alo! Út Thới! Út Thới! Alo, Alo…
Trán Năm Thạch mồ hôi rịn đều. Năm Thạch đứng dậy như chiếc lò xo bật lên:
– Alo, Alo… Út Thới!… Rồi rồi!
Năm Thạch dằn mạnh ống nói xuống giá:
– Rồi rồi!
Mọi người chăm chú nhìn Năm Thạch nãy giờ, hỏi dồn
– Gì vậy anh Năm? Gì vậy anh Năm?
Môi Năm Thạch run run
– Cánh phía Đông của Q2 đột nhiên bị địch ở trong bắn ra như mưa. Chưa biết nguyên do, Sáu Khâm đang cho điều tra hỏa tốc. Còn Q3, yên tĩnh. Cánh phía Tây sân bay yên tĩnh. Nhưng Út Thới đang nói chuyện với tôi không hiểu tại sao bị cúp ngang, không còn nghe gì hết. Đường dây điện thoại đứt? Máy hỏng? Vô lý! Hay việc gì đã xảy ra?
Hai Chân nắm tay đập xuống mặt bàn:
– Chắc là lộ rồi!
– Lạ! – Ba Đình lẩm bẩm- Không lẽ chiến dịch bị lộ!
– Đoàn xung kích tiền sát Q2 dám làm lộ lắm!
Năm Thạch nói:
– Không lý! Cũng có thể là cuộc thực tập phòng thủ bất thường. Bởi suốt trong thời gian qua, theo dõi điều nghiên tôi thấy cứ vào quảng 10 bữa, nửa tháng tụi nó trong đồn thực tập phòng thủ, ào ào bắn ra một lần y như bị ta tấn công thật. Mà cũng có thể… biết đâu trong số dân công có người vượt qua được sông Bé báo tin cho địch biết! Hay gián điệp…
– Cũng không chắc! Tốt nhất là bình tĩnh chờ xem Sáu Khâm báo cáo ra sao! Nếu lộ, tất có phi cơ Dakota đến thả trái sáng, rồi khu trục, trực thăng đến yểm trợ chứ! Đàng này, chưa có gì hết.
Ba Đình, Năm Thạch, Hai Chân đối thoại nhau không ngừng. Tư Thắng ngồi há miệng, vểnh tai chăm chú theo dõi cuộc đối thoại, không phát biểu lần nào. Tám Paul, Tám Lành, Tám Thanh và Năm Nguyên cũng im thin thít.
Năm Thạch nóng nảy với tay lên bờ đất kéo máy bộ đàm bỏ nằm tênh hênh từ chập tối đến giờ xuống. Trong khi đó Ba Đình gọi tôi.
– Đồng chí Vũ Hùng! Nhờ đồng chí mở xắc-cốt của tôi, để bên gốc cột đó! Đồng chí đưa xấp bản đồ cuốn tròn đó, cho tôi.
Tôi dạ một tiếng rồi nhoài người ra, rút cuộn bản đồ cuốn tròn luồn ngang miệng xắc-cốt của Ba Đình, đưa xuống:
– Dạ, đây anh Ba!
Năm Nguyên đỡ lấy chuyền cho Ba Đình, Năm Thạch đã mở máy bộ đàm, tiếng rè rè vọng ra, Thạch bấm nút, kê miệng sát vào thổi phù phù mấy cái.
Năm Thạch chưa kịp nói, chuông điện thoại trên bàn bỗng reo lên giục giã. Ba Đình vội vã rướn người tới chụp lấy!
– Alo! Alo! Đình đây!… Sáu Khâm hả?… Ừ! Ừ!… Sao? Lòi lưng hả? Chết rồi! Pháo cối tụi nó nện đúng vào tất cả các vị trí tiếp cận của ta?… Rồi sao nữa?… Ừ… Út Thới hả? Cũng bị hả?… Đường dây đứt hả…
Tôi nghe tiếng Ba Đình chép miệng, thở dài sườn sượt, lẫn với tiếng Năm Thạch bối rối nói vào máy bộ đàm:
-… Được rồi! Năm Bê cứ ngủ yên. Chờ anh Năm đánh thức. Cứ ngủ yên…
Và tiếng Ba Đình ra lệnh:
– Nhớ triệt để bảo vệ đường dây điện thoại. Q2, Q3 nghe đây, cứ năm phút một, liên lạc về Bộ Chỉ huy một lần, cho đến khi có lệnh mới. Tuyệt nhiên không được nổ súng. Bất cứ dưới hình thức nào cũng không được nổ súng. Kiên nhẫn chịu đựng. Trái lệnh phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tiếng súng lớn nhỏ từ mặt trận Đồng Xoài vẫn vang lên dồn dập, kéo dài hơn mười phút qua. Không hề suy giảm. Tiếng chuông điện thoại vẫn reo réo liên hồi. Và mọi người có mặt tại Bộ Chỉ huy, ai ai cũng nóng nảy nhấp nhỏm, trong trạng thái thần kinh căng thẳng cực độ.
Tôi cũng bị lôi cuốn theo. Tình hình tại mặt trận đang bước vào những phút hồi hộp, gay go ác liệt. Qua điện thoại, Sáu Khâm trung đoàn trưởng trung đoàn Q762 báo cáo về, gần như liên tục từng phút một chứ không là năm phút một nữa.
Những lời báo cáo cho mọi người biết, sau khi tiếp cận, vây quanh cứ điểm Đồng Xoài chừng ba mươi phút, chiến sĩ Q762 chưa đào xong công sự chiến đấu, kẻ mới đào được vài tấc sâu, người mới đào xong một khoảng đất nhỏ «chó ngồi ló đuôi», người còn ngồi xổm xúc đất thì bất thình lình, bao nhiêu súng lớn, súng nhỏ từ các công sự phòng thủ bên trong bắn ra như mưa. Hơn chục cây cối 60, 81 rồi dàn pháo 74, 105 thi nhau bắn rót đạn ra ngoài không ngừng nghỉ. Đại liên, trung liên, tiểu liên, súng cá nhân cũng nhất loạt từ các lô-cốt, các lỗ châu mai xối xả khạc đạn.
Ác một nỗi, bao nhiêu đạn pháo, cối, đại liên, trung liên lớn nhỏ đều nhắm đúng vào tuyến tiếp cận của Q762. Lúc đầu tưởng chỉ có mỗi Q762 «bị nạn» nhưng mấy phút sau Q763 ở cánh Tây sân bay cũng được «chia lửa». Đường dây điện thoại bị đứt bất ngờ, cắt đứt câu nói của Út Thới và Năm Thạch trước đây.
Dĩ nhiên sự thiệt hại không thể nào tránh được, dù cho công sự chiến đấu có đào xong rồi cũng vậy. Huống hồ, chiến sĩ đang «lòi lưng», nằm khơi trên mặt đất giữa trận mưa pháo, chụp xuống tung lên và làn đạn thẳng, xuyên phá cày mặt đất.
Theo thời gian, con số thương vong của Q762 tăng lên.
Trong vòng 15 phút, 2 chết 8 bị thương.. rồi 9 chết 23 bị thương… Tăng lên, tăng lên mãi.
Cuối cùng, dường như không thể kiên nhẫn được nữa, Sáu Khâm xin phép nổ súng tấn công. Bởi bây giờ hoả lực địch tập trung bắn đúng vào tuyến tiếp cận ở chính điện. Đại đội chủ công phụ trách «mở đột phá khẩu» đã bị thương vong nặng nề. Nếu không được phép nổ súng thì toàn đại đội sẽ bị đi đứt vì cảnh làm bia cho địch tác xạ, pháo, cối địch «giã gạo» xuống lưng như mưa.
Về bảo mật thì chiến sĩ Q762 đã bảo mật rất tốt. Tuyệt nhiên không gây tiếng động, không để lộ một sơ hở nhỏ, khả dĩ địch có thể phát hiện được.
Bây giờ là 9g30 giờ Đông Dương, tức 10g30 giờ Sài Gòn, giờ G quy định, còn đến những 2g30 phút nữa.
Năm Thạch đổ mồ hôi có giọt, Ba Đình, Hai Chân, Tư Thắng và mọi người nín thở, hồi hộp nhìn nhau trao đổi quyết định trong một thoáng. Đoạn Hai Chân gật đầu, lấy vội ống điện thoại.
– Alo, Alo! Q2, Q3 nghe đây! Nhân danh Đảng, tôi yêu cầu các đồng chí bình tĩnh. Đảng Uỷ Mặt Trận bắt đầu họp cấp tốc trong vòng vài phút để cho các đồng chí biết quyết định tối hậu. Sẽ có chỉ thị cho các đồng chí trong vòng vài phút nữa.
Vậy là Đảng Uỷ Mặt Trận bắt đầu họp. Cũng từng ấy nhân vật: Hai Chân, Ba Đình, Tư Thắng, Năm Thạch nhưng giờ đây tiếng nói của Đảng là tiếng nói quyết định. Vai trò Bộ Chỉ huy quân sự lùi ra sau, nhường cho vai trò Đảng ủy viên Mặt Trận mà, ở đây, Chính ủy Hai Chân là bí thư.
Paul, Lành, Thanh, Nguyên đứng dậy, «tự động rút lui» bước lên mặt đất, đi ra ngoài. Họ hiểu «hợp Đảng ủy Mặt Trận» là một cuộc họp quan trọng dành cho đảng ủy viên, những tướng lãnh. Họ không có quyền, không có lý do gì bén mảng lại gần. Rút lui là phải, dù không ai nhắc khéo, đuổi ra. Và cũng không ai thèm quan tâm đến họ.
Thấy vậy, tôi cũng nối đuôi theo họ, định sang căn lều bên kia để «tránh chỗ cho người ta làm việc». Nhưng, chợt có tiếng Năm Thạch gọi to.
– Đồng chí Bôn, đồng chí Lành, đồng chí ở đây. Có các đồng chí dự thính cũng không sao mà! Tụi tôi đang cần đến các đồng chí…
Bôn dạ lên một tiếng rồi quay trở lại. Lành, Thanh, Nguyên cũng rón rén bước theo. Còn tôi, thực dở khóc dở cười. Đi không biết đi đâu, mà ở thì… nó làm sao ấy. Đảng ủy người ta họp, tôi chỉ là một thứ quần chúng hạng bét, người ta sẽ nghĩ sao về tôi, dù cho tôi chỉ ngồi ngoài hàng hiên?
Thôi thì… tôi lại đành ngồi dựa cột, chứ chẳng lẽ ngồi ngoài rừng hứng những giọt mưa sa? Bên trong «đồng chí Năm Thạch» phát biểu ý kiến trước tiên, nêu lên nhận xét là từ trước đến giờ, cứ điểm Đồng Xoài vẫn cứ thực tập phòng thủ thụ động luôn. Y như đánh giặc thật. Ở trong cứ việc bắn ra, nhắm vào những mục tiêu chọn sẵn, xác định đó là địa thế tốt, nếu có tấn công, «Việt Cộng» sẽ chiếm đó làm công sự. Có thể đêm nay địch ở Đồng Xoài tình cờ thực tập phản công đúng vào đêm ta chọn đánh.
Tai hại là tai hại ở «lộng giả thành chân». Do đó, Q762 phải ráng chịu đựng, kiên nhẫn chịu đựng. Dù có bị thương thế nào chăng nữa, cũng phải gắng chịu đựng cho qua loạt đạn thực tập này. Sau đó địch sẽ thôi, đi ngủ, rời công sự. Chừng ấy «ta sẽ trút căm thù lên đầu giặc», sẽ «bắt giặc đền nợ máu» «ta sẽ chiến thắng vẻ vang đúng theo kế hoạch đã dự định».
Năm Thạch nhấn mạnh thêm:
– Yếu tố quyết định thắng lợi là yếu tố bất ngờ. Có bất ngờ, địch mới hoang mang, không kịp chuẩn bị, phản ứng. Địch mất tinh thần trong khi ta tỉnh táo, hăng say chiến đấu. Đạt được yếu tố bất ngờ, với lực lượng, hoả lực của ta hùng hậu như vậy, kế hoạch lại đúng, chính xác thì kết quả chắc chắn là chín thắng một hoà. Ngược lại, thiếu yếu tố bất ngờ thì năm thắng năm thua. Theo ý kiến tôi, cách tiết kiệm xương máu hiệu quả nhất trong đêm nay là kiên nhẫn, chịu đựng. Giữ đúng giờ G. Bởi địch chỉ thực tập trong một thời gian ngắn. Huống hồ, nổ súng bây giờ tức là ta bị động, bị đánh phủ đầu. Địch đang trong tư thế chuẩn bị đầy đủ tại công sự…
Có lẽ vì tình hình gấp rút, mà Năm Thạch phân tích dai quá. Hai Chân ngắt ngang «kê tủ đứng» vào miệng Thạch:
– Nếu địch hiện giờ đang tấn công ta thực sự, không phải là thực tập thì sao?
Năm Thạch khựng lại ngay
– Cái đó… cái đó… cũng có thể, nhưng tôi không tin như vậy. Dựa vào kết quả nghiên cứu, dựa vào những quy luật của địch mà tôi nắm vững, các đồng chí hiểu cho không phải tôi chủ quan, khinh địch đâu.
– Tôi thì tôi ngại địch đã phát hiện được. Chả lẽ chúng ta cứ bắt các chiến sĩ của ta làm bia cho địch bắn, đổ máu, chết chóc một cách phi lý? Con số thương vong của Q2 đã lên cao rồi. Tinh thần chiến sĩ ta nhất định hoang mang dao động cùng cực rồi. Chờ thì chờ đến bao giờ?
Tiếng chuông điện thoại trên bàn lại reo vang. Năm Thạch chụp vội lấy:
– Alo! Alo!… Sao?… Ngay bây giờ trong vòng vài phút nữa thôi. Trong khi chờ lệnh, tuyệt đối không được bắn trả. Trái lệnh các đồng chí phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Đảng.
Năm Thạch dằn ống nói xuống giá, gọn lỏn
– Sáu Khâm hỏi!
Mọi người lại nhìn nhau, Ba Đình đưa tay bưng lấy đầu. Ý kiến của Thạch và Chân trái ngược nhau, Ba Đình ở giữa, ngã về phe nào, phe đó thắng. Riêng Tư Thắng thì không đáng kể lắm bởi Thắng từ lúc đầu đã có ý muốn để cho «bộ ba» Đình, Chân, Thạch quyết định rồi. Ý kiến của Đình có giá trị của một ngón tay giơ lên biểu quyết. Ý kiến đó đã trở thành một mệnh lệnh, chỉ thị khẩn cấp của Đảng Uỷ Mặt Trận. Và Đảng Uỷ Mặt Trận hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Quân ủy, trước Trung Ương Cục nếu quyết định đó có sai lầm đáng tiếc nào xảy ra.
Bao nhiêu cặp mắt nhìn về Đình, sáng quắc. Dường như bao nhiêu tiếng tim đều ngưng đập. Đình chớp chớp mắt, mấp máy môi trước không khi vô cùng khẩn trương, gay go đó. Nhưng Đình chưa nói ra thành câu thì tiếng chuông điện thoại trên bàn lại reo vang.
Năm Thạch lại xách ống nghe lên. Chợt, tay Thạch run lên. Mặt Thạch tái lại. Mắt Thạch long lên buột miệng:
– Trời ơi!
Thế là mọi người đã hiểu. Ba Đình thở dài một tiếng rõ to. Nhẹ nhõm. Hai Chân thì với tay rút lấy một điếu thuốc chậm rãi bật lửa đốt lên.
Năm Thạch xúc động cực độ, đưa ống nghe ra khỏi tai la lớn:
– Rồi! Rồi! Anh Ba! DK75 lực yểm trợ chính diện đã khai hoả. Sáu Khâm vừa báo tin xin cho lệnh pháo phối thuộc «cấp tập» mở đường.
Trận chiến sôi động lên rồi. Mở màn rồi. Giờ này không phải là lúc tìm hiểu nguyên cớ, quy trách về ai mà phải hành động thật gấp.. Hành động nhanh, Ba Đình quơ lấy máy bộ đàm, không còn phải giữ bí mật gì nữa, cũng không còn đủ sức để nhờ những cách xử dụng thông thường. Như xử dụng điện thoại, Ba Đình bấm nút hét lên:
– Các đồng chí pháo! Cấp tập! Cấp tập! Ra lệnh cho các đồng chí cấp tập! Các đồng chí nghe rõ chưa! Các đồng chí nghe rõ chưa! Các đồng chí pháo, cấp tập! Cấp tập!
Từ đó, không khí trong căn hầm đột nhiên sôi nổi, ồn ào khẩn trương hẳn lên vì tiếng máy bộ đàm tiếng chuông điện thoại, tiếng hét ra lệnh, tiếng nói trả lời không ngớt.
Hai Chân chép miệng đứng dậy.
– Hậu đâu! Chú pha thêm thật nhiều cà phê đen. Càng đặc càng tốt. Nhanh lên.