← Quay lại trang sách

Chương XIII (3)

Vậy là kế hoạch đã định xem như không thể thực hiện đúng. Tin tức từ mặt trận báo cáo về dồn dập không ngưng.

Lúc đầu, quyết tâm xuyên thủng hệ thống phòng thủ cứ điểm Đồng Xoài trong vòng 30 phút. Không xong, tăng lên một giờ rồi hai giờ sau vẫn chưa mở được «đột phá khẩu».

Và, khi cửa chính «đột phá khẩu» đã mở, nhắm vào lô-cốt 2, lô-cốt 3, thì đại liên của lô-cốt 1 và lô-cốt 4 tập trung hỏa lực, bắn chéo cánh sẽ tạo thành một lưới lửa dày đặc, làm các «tiểu đội dao nhọn» xông vào «vùng cửa mở» cũng như đại đội yểm trợ C1 và J12 bị «tà» rồi «gãy mũi», thương vong hoàn toàn trước «vùng cửa mở», được dọn đường bằng những «bộc phá rào».

Đợt hai, C2 lên thay cũng chịu chung số phận. Đến giờ phút này, đường dây điện thoại mặt trận từ Chỉ huy sở Trung đoàn Q762 xuống các Tiểu đoàn, từ các Tiểu đoàn xuống các Đại đội bị pháo, cối trong đồn bắn ra đứt tan nát, vô phương nối lại được.

Mấy chiến sĩ thông tin, bảo vệ các đường dây này đều bị thương vong dọc theo đường dây. Trong nhất thời, giữa đêm tối, dưới ánh sáng hỏa châu chập chờn và mưa pháo, mưa cối, rồi đạn thẳng từ những phi cơ trực thăng UH-1B đến tiếp viện, rợp trời trong rừng sâu đầy gai góc, không ai có thể mò ra các chiến sĩ thông tin hiện đang hy sinh hoặc hấp hối ở nơi đâu.

Tất cả mọi mệnh lệnh từ trung đoàn, tiểu đoàn chuyển xuống các đơn vị tại tuyến tiếp cận hoặc ngược lại, không còn đúng lúc và kịp thời nữa. Vì điện thoại không xử dụng được.

Máy bộ đàm lại bị cấm xử dụng. Sử dụng bộ đàm truyền lệnh trong chiến đấu thế nào cũng bị địch mò đúng tần số, nghe được lộ bí mật ngay. Cho nên việc cấm xử dụng máy bộ đàm tại mặt trận là một nguyên tắc bắt buộc. Dầu rằng trong kho quân khí, máy bộ đàm nhiều vô số, nó chỉ được nằm ngủ yên, đóng mốc, đóng bụi như những vật vô dụng, phế thải.

Do đó, phương tiện duy nhất còn lại là … sức người chạy bộ, len lỏi với mưa đạn, đi báo cáo hoặc truyền lệnh bằng miệng. Nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của các chiến sĩ trinh sát. Để bảo đảm báo cáo hoặc mệnh lệnh đi đến nơi về đến chốn không chết theo người mang nó ở dọc đường, người ta phải cho từng tổ 3 người cùng đi.

Chết người này, còn người khác. Hoặc đi từng người, thì cứ vài phút thì có một «chuyến» đi. Kẻ trước có ngã, kẻ sau cũng mò đến được.

Tình huống trên đây làm Ban Chỉ huy Trung Đoàn Q762 nhảy đổng lên, như ngồi trên lửa. Bộ Chỉ huy Mặt Trận được báo cáo càng nóng nảy, cáu kỉnh hơn bao giờ hết.

Hạn định thời gian dành cho Q2 hoàn thành nhiệm vụ trôi qua. Súng đạn vẫn nổ rền trời, khóa kín vòng cửa mở bằng xác của những chiến sĩ CI và C2. Ban chỉ huy Q762 tức tối ra lệnh cho C3 nhào lên thay. Bằng bất cứ giá nào phải «khoá miệng» và san bằng hai lô-cốt 1 và 4 cho kỳ được mới thôi. Các đơn vị pháo phối thuộc DKZ được điều động đến làm nhiệm vụ tập trung hỏa lực yểm trợ, song song với việc kềm chế lô-cốt 2 và 3 ngay «vùng cửa mở» để cho C3 hoàn thành nhiệm vụ thanh toán lô-cốt 1 và 4, tràn lên chiếm cứ làm đầu cầu thọc vào, tạo mũi dùi xiên hông địch.

Hơn 2 giờ sáng, J13 được lệnh lên thay cho J12. Vì toàn bộ Tiểu đoàn này bị thương vong gần hết, bị loại khỏi vòng chiến hoàn toàn. Ban Chỉ huy Tiểu đoàn cũng đã bị hy sinh 1, 2 bị thương.

Tình hình chiến đấu thật gay go, ác liệt. Ác hại nhất, ngoài ý đồ dự liệu, ngỡ rằng trong cứ điểm Đồng Xoài chỉ có 2 thiết giáp, đùng một cái, bây giờ khi lâm chiến, có những 4 xe. Bốn xe là 4 pháo đài di động sau bức tường phòng thủ. Xe thiết giáp di chuyển dưới chiến hào, vừa khai hỏa ở lỗ châu mai này xong, chuyển tới một lỗ châu mai khác để tránh DK 75 và đạn chống tăng.

Bộ Chỉ huy Tiền Phương, không còn kiên nhẫn nữa trước báo cáo của Q2 – vừa báo cáo vừa xin chỉ thị, Năm Thạch giận dữ hét lên qua ống nói:

– Đảng ủy Mặt Trận chỉ thị cho các đồng chí là phải hy sinh cả Trung đoàn để giải quyết xong Đồng Xoài, cũng phải hy sinh. Các đồng chí nhớ, phải chiếm cho kỳ được Đồng Xoài. Nếu không thì yêu cầu, đồng chí đừng về đây nữa. Không chiến thắng không được về. Dù phải đánh đến mai, đến mốt, năm ngày nữa cũng phải đánh. Vì chiến thắng Đồng Xoài sẽ đánh dấu cho một giai đoạn chiến lược mới vô cùng quan trọng. Nó sẽ chấn động thế giới, ảnh hưởng rất lớn về mặt tuyên truyền, đòn phủ đầu cảnh cáo bọn đế quốc xâm lược Mỹ vừa mới đưa quân vào trực tiếp xâm lăng miền Nam. Cho nên, Đảng đã giao nhiệm vụ đầy vinh dự đó cho các đồng chí, các đồng chí bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ. Các đồng chí nhớ cho: Không thắng là không về. Các đồng chí nghe rõ chưa?

Trời hừng sáng. Đợt xung phong cuối cùng của J13 chiếm nốt được lô-cốt 2 và lô-cốt 3. Và cho đến giờ phút đó. J13 cũng vừa vặn «đuối hơi» nhường cho J14 tiểu đoàn cuối cùng của Q2, làm nhiệm vụ thế đội dự bị – nhào lên thay.

Cuộc chiến đấu trong đêm, ở mặt trận chính diện, hai tiểu đoàn bị loại ra khỏi vòng chiến để chỉ mới chiếm được bốn lô-cốt nhỏ vòng tường phòng thủ bên ngoài.

Giờ phút đó, bình minh vừa ló dạng thì trên nền trời Đồng Xoài, các loại phi cơ khu trục F100, B57 cũng vừa kéo đến rợp như bầy én liệng, rền rĩ giữa không trung.

Các cuộc tấn công của J14 ở đường hầm bắt đầu, dưới trận mưa bom long trời lở đất vòng ngoài cứ điểm. Dọc trên «đường cửa mở» số chiến sĩ hy sinh và bị thương nặng chưa di tản kịp, nằm tênh hênh giữa bãi đất trống, giờ, trước hoả lực của phi cơ đành phải bỏ liều cho bom đào bới, hất tung xác lên cao. Một số khác, bị thương còn gắng tự xê dịch được, không thể nào trở lại về phía sau trận địa cho các tuyến cứu cấp của Quân y Tiểu đoàn hay các đội phẫu thuật dã chiến điều trị, tải thương. Không còn cách nào khác hơn là cố gắng lết vào những lô-cốt sụp đổ, xuống giao thông hào nằm chịu trận để tránh trận mưa bom khủng khiếp bên ngoài, cách đó không đầy trăm thước.

Tại Bộ Chỉ huy Tiền Phương, suốt đêm, mọi người đều không ngủ, thức suốt sáng. Cà-phê đen vẫn được pha đều, uống thay nước lã. Nhiều lúc tôi định đi ngủ, võng giăng rồi, nhưng tình hình được báo về dồn dập, rộn rịp khẩn trương nên tôi cũng bị cuốn theo, không tài nào ngủ được. Dù rằng tại đây tôi chỉ là một cái bóng mờ nếu không nói là một người thừa thãi, bởi tôi không có một trách nhiệm, một nhiệm vụ cụ thể nào ngoài nhiệm vụ bình thường của một thứ «thư ký riêng» một thứ «chầu rìa» của đồng chí Tư lệnh Ba Đình, tức thiếu tướng Trần Đình Xu. Trong việc điều khiển chiến trận, đâu phải những thứ cán bộ tép riêu như tôi có quyền xen vào hay hân hạnh được góp chút công nào?

Nào có ai giữa lúc khẩn trương cực độ đó, còn có thể đủ sức nhớ đến sự hiện diện của tôi? Nhưng tôi vẫn không ngủ được. Tôi vẫn ngồi bất động dựa vào gốc cột của căn lều hầm chỉ huy sở, lặng nhìn mọi sự xảy ra.

Suốt đêm, điện thoại vẫn không ngừng réo. Và các liên lạc, trinh sát từ các trung đoàn, các bộ phận chiến dịch không ngớt rầm rập tới lui. Những bức điện khẩn, những báo cáo mật mã, những tin tức tình báo từ bộ phận «cơ yếu điện đài» Bộ tham mưu Tiền Phương liên tiếp chuyển sang.

Ngoài những diễn tiến của mặt trận, phía sau hậu tuyến cũng không biết bao nhiêu vấn đề dồn dập xảy ra.

Một số dân công còn lại của cánh A cũng như tất cả dân công cánh B. Kể từ sáng hôm qua được lệnh tập trung, biến chế thành những đội tải thương để tải thương binh từ mặt trận về, các đội phẫu thuật dã chiến hoặc về các bệnh viện ở tuyến sau như bệnh viện Đội 16 (tức G2 cũ), bệnh viện Đội 17 (mới thành lập để đón thương binh chiến dịch). Một số thương binh được tải ra sau, không hiểu dân công chuyển về đâu vì đã bị lạc đường rừng. Một số khác thì khi bị thương tại mặt trận không đáng kể lắm nhưng khi chuyển về đến các Đội phẫu thuật dã chiến trở thành trầm trọng, bị thêm nhiều vết thương hơn, choáng nặng, hôn mê, vì dọc đường, những đồi, những dốc trời mưa trơn như mỡ, họ liệng thương binh xuống đất không biết bao nhiêu lần. Băng sút, vết thương đầy đất, máu chảy không ngừng v.v…

Tệ hơn, nhiều trường hợp thương binh bị dân công liệng bỏ dọc đường, trốn mất mang theo cả đạn, cả súng AK của thương binh.

Những xe cam nhông của Hậu Cần khu A được trưng dụng để chuyên chở, tiếp tế đạn dược cho mặt trận chuyển đi, tải thương binh chuyển về cũng gặp nhiều khốn đốn. Chiếc thì chạy lạc đường không đi đến đâu hết, chiếc thì ăn vạ nửa đường.

Bởi những đường mòn mới mở giữa rừng sâu, ban đêm sợ phi cơ không dám mở đèn, chạy thầm, nên có lọt xuống suối lật úp, quăng cả súng đạn, ném cả thương binh.

Tiểu đoàn pháo, qua đợt «cấp tập» mười phút, bắn không còn viên nào, đạn tiếp tế không đến được đành lủi thủi kéo pháo trở về, bỏ rơi nhiệm vụ hỗ trợ cho đơn vị chủ công v.v…

Tình trạng bối rối hỗn độn tại Bộ Chỉ huy tôi nghĩ chắc còn sôi nổi hơn ở mặt trận nhiều. Không biết ở Mặt Trận các chiến sĩ nào biết cho sự khó khăn đó của Bộ Chỉ huykhông?

Năm Thạch không ngớt kêu trời, la thét vào điện thoại. Ba Đình cũng đập bàn nhiều lần trước những báo cáo của cán bộ các nơi về xin chỉ thị. Hai Chân đòi kiểm thảo, cảnh cáo cán bộ không ngừng.

Dù sao, sự thể đã xảy ra rồi. Còn biết phải thay đổi ra sao?

5 giờ chiều ngày, 10-6-1965, trong các đường hầm của cứ điểm Đồng Xoài im tiếng súng. Q762 gọi điện thoại về Bộ Chỉ huy báo cáo: hoàn toàn làm chủ tình hình.

Toàn Bộ Chỉ huy thở phào nhẹ nhõm. Năm Thạch phấn khởi tột độ, cười vui như nắc nẻ, nhảy lên khỏi căn hầm run tay la lớn:

– Triệt hạ xong Đồng Xoài rồi các đồng chí ơi!

Tôi mở choàng mắt, thức giấc vì tiếng la lớn của Năm Thạch. Tôi lờ mờ thoáng hiểu vì sao Năm Thạch có cử chỉ đó. Bởi «anh Năm» là tác giả kế hoạch, là cha đẻ chiến dịch Đồng Xoài kia mà!

Giữa lúc đó tôi nghe có tiếng chuông điện thoại reo, rồi Ba Đình gọi vọng ra

– Anh Năm ơi! Q1 đụng trận nữa rồi! Vào đây! Địch vừa đổ quân xuống tiếp viện một tiểu đoàn giữa vòng vây của ta, đúng theo ý đồ dự liệu

Năm Thạch cất tiếng cười vang, nhảy hai bước một nhẹ nhàng như một con chim sẻ vào căn lều hầm. Bỗng tôi lại nghe tiếng Ba Đình kêu lên đột ngột, thảng thốt.

– Trời ơi! Rồi rồi! Còn gì là Q2?

Năm Thạch hoảng hốt:

– Gì vậy anh Ba? Q2 làm sao?

– Khốn nạn thật! Dã man! Bọn «Mỹ ngụy» vừa cho 1 phi đội đến ném bom huỷ diệt toàn bộ cứ điểm Đồng Xoài.

– Hả? Trời ơi!

– Suốt từ sáng đến giờ nguyên số thương binh Q2 bị áp lực phi pháo địch phải chạy ngược vào trong công sự của địch ẩn nấp. Rồi bây giờ đang tràn ngập dưới các hầm ngầm thì tụi nó cho phi cơ hủy diệt cả chúng lẫn mình. Vậy thì… vậy thì… còn gì là Q2?

Tôi bước xuống khỏi võng. Tiếng bom từ Đồng Xoài vọng về liên hồi ầm ầm, rung chuyển cả rừng xanh. Trong căn lều hầm chỉ còn có Ba Đình và Năm Thạch. Hai người đang ngồi đối diện nhau, mắt mở lớn, nhìn nhau ….

***

Ba ngày sau chiến dịch Đồng Xoài, tiếng súng hoàn toàn im hẳn. Yên lặng trở lại trên khắp vùng rừng núi hoang vu. Nếu có tiếng động gì khác hơn, đó là tiếng động cơ khu trục, phản lực xé gió lẫn với tiếng bom nổ rời rạc trong nhịp điệu buồn tẻ thường ngày.

Bộ Chỉ huy Tiền Phương, và các bộ phận trực thuộc kéo về vùng Mã Đà nghỉ ngơi cho lại sức, kiểm thảo, rút kinh nghiệm, tổng kết thành tích v.v… Các đơn vị chiến đấu thì bình bầu chiến sĩ thi đua.

Riêng trung đoàn Q763 ít bị tổn thất, sau đợt bình bầu hai hôm, lại được lệnh hành quân hoả tốc về biên giới Miên Việt mở cuộc tấn công mới vào đồn Bù Đốp.

Theo thông lệ, sau mỗi chiến dịch là thời kỳ dưỡng quân kiểm điểm trận đánh, rút kinh nghiệm ưu khuyết điểm, bình bầu chiến sĩ xuất sắc, công tác chính trị nội bộ, đề bạt cán bộ học tập «chiến lệ» và bổ sung quân số, trang bị lại vũ khí v.v…

Không khí của thời kỳ tiền chiến dịch cũng như trong chiến dịch khẩn trương bao nhiêu, rộn rịp bao nhiêu thì sau chiến dịch càng uể oải bấy nhiêu.

Chỉ có các bệnh viện ở căn cứ là bận túi bụi, hoạt động ngày đêm để cứu chữa thương binh, hoàn thành nhiệm vụ giải quyết chiến thương đợt 2 của hậu tuyến.

Bộ Chỉ huy Tiền Phương lại trở về căn phòng B1 của Hậu Cần khu A «đóng đô» ở đấy. Một sáng, tôi vừa ngủ dậy đã thấy trước sân có ba bốn người ngồi xổm dưới đất, vừa nói chuyện vừa đưa mắt nhìn đồng hồ có vẻ sốt ruột lắm. Tôi bước ra sân. Tưởng ai hoá ra Sáu Khâm và Ban Chỉ Huy Trung đoàn Q762.

Tiếng chân của tôi làm Sáu Khâm và mọi người quay lại, Sáu Khâm đứng dậy vui vẻ chào tôi:

– Chào anh Hùng! khoẻ chứ anh?

Vừa bắt tay, tôi vừa cười, đáp lễ

– Dạ, khoẻ, anh! Mấy anh đi hồi nào mà đến đây sớm dữ vậy?

– Tụi tôi đến bệnh viện 16 thăm lính của Q2 hôm qua rồi xuống đây. Đến Phòng Thường Trực khuya quá nên ngủ ngoài. Tụi tôi đến đây, định gặp Bộ Chỉ huy thỉnh thị mấy việc gấp rồi còn đi nữa. Anh Hai, Anh Ba, Anh Năm có nhà chứ anh?

– Anh Hai với anh Năm đi công tác chưa về. Ở nhà chỉ còn mỗi anh Ba.

– Chắc anh Ba còn ngủ?

Tôi quay nhìn vào. Chiếc mùng lưới nylon của Ba Đình trống lổng. Trên giường chỉ còn có chiếc ba-lô, xắc-cốt và thắt lưng với khẩu súng ngắn K54.

– Anh Ba dậy rồi! Tôi nói. Chắc đang súc miệng ngoài suối. Mấy anh chờ chút! Tôi cũng đi súc miệng rửa mặt đây.

Tôi quay vào nhà cuốn võng, lấy bàn chải, hộp kem lửng thửng xuống suối phía sau nhà. Bên tảng đá tròn, bóng nhẵn một chậu thau nước đầy bốc khói. Mấy đồng chí cần vụ đã mang nước sôi dưới bếp về pha cho anh Ba tắm sáng đấy. Nhưng anh Ba đâu mất. Chiếc khăn lông màu cứt ngựa vất lơ lửng ở bụi mây. Hộp xà-phòng thơm, hộp kem, chiếc bàn chải nằm tênh hênh bên bờ đá.

Còn đang ngơ ngác, không biết «thủ trưởng» của mình đâu, để nước nguội lạnh hết, chợt nhìn dọc theo suối, tôi thấy Ba Đình đang lom khom niễng đầu nhìn chòng chọc lên ngọn cây dầu khô cao chót vọt, đưa tay chỉ trỏ cho đồng chí cần vụ xem.

Thấy tôi, Ba Đình gọi khẽ:

– Hùng! Cậu lại đây

Tôi rón rén bước nhanh lại

– Dạ, chi đó anh Ba?

– Kỳ đà! Con kỳ đà to bằng đầu gối, tôi vừa rượt nó leo lên ngọn dầu này. Kia kìa! Cậu nhìn xem. Phải bắn nó mới được. Kỳ đà mà nấu cháo, tuyệt lắm. Ngon hơn gà nhiều. Anh em vừa lấy ở Đồng Xoài về biếu cho hai chai Martel. Đúng bài bản lắm!

– Dạ..

Ba Đình vỗ vai cậu cần vụ

– Chú vào mang cây K54 ra đây cho tôi. Mau lên.

Cậy cần vụ chạy đi. Tôi nghĩ thầm, con kỳ đà nhỏ lại trèo cao tít trên kia còn bằng ngón tay út thế này, dù là xạ thủ hữu hạn đi nữa cũng khó hạ được bằng súng ngắn, bắn ngang còn có thể, may ra, chứ bắn lên với độ ngưỡng gần 90 độ thế này có mà bắn gió.

Cậu cần vụ có lẽ cũng cùng ý nghĩ như tôi nên thay vì mang ra khẩu K54 cậy ta mang thêm khẩu AK.

Ba Đình cười

– Bộ chú không tin tôi hạ được nó bằng K54 sao?

Cậu cần vụ cúi đầu ngượng ngập cười. Không trả lời! Ba Đình lên đạn dạng chân, nheo mắt, đưa thẳng súng bắn một phát rồi hai phát, ba phát. Đúng là đạn gởi về trời. Đạn còn chẳng trúng thân cây to tổ bố huống gì con kỳ đà. Ba Đình cười dòn một mình:

– Chà, khẩu K54 này chắc phải đưa đi điều chỉnh lại mới được.

Bắn thêm hai phát nữa, lần này đạn chạm vỏ cây. Con kỳ đà hoảng hồn từ trên cao buông chân nhảy đại rơi tòm xuống suối. Nước tung tóe tứ tung. Xuôi theo dòng nước, con kỳ đà lội nhanh, chếch về bờ bên kia khuất sau bụi mây nước um tùm.

Ba Đình đứng ngẩn người ra, giương mắt nhìn, tiếc ngẩn tiếc ngơ. Hụt bữa cháo kỳ đà rồi. Cái số Martel không có duyên với kỳ đà vậy.

Tôi nhắc Ba Đình

– Thưa anh Ba, nước nguội hết rồi anh Ba!

– Ờ…

– Dạ, báo cáo anh Ba, có anh Sáu Khâm và các đồng chí Ban Chỉ huy Q2 vừa đến xin gặp anh Ba!

– Ờ… Thôi đem súng vào cất đi nha chú. Ba Đình bảo cậu cần vụ.

Ngoái cổ nhìn bụi mây nước lần nữa, Ba Đình lửng thửng trở lại bên thau nước, rửa mặt.

Tôi súc miệng, chải đầu xong, vào nhà có hơn mười phút sau, Ba Đình mới vào đến, gọi to lên:

– Sáu Khâm hả? Các đồng chí vào đây!

Sáu Khâm dẫn đầu bước vào nhà, khép nép

– Dạ, chào anh Ba!

– Sao, có gì lạ không, các đồng chí?

– Dạ, báo cáo anh Ba, tụi tôi đến xin chỉ thị anh Ba…

– Chuyện gì vậy? Á! Các đồng chí đã thăm qua mấy anh em thương binh chưa? Có gì lạ không?

– Dạ, báo cáo anh tụi tôi đến bệnh viện đội 16 hôm qua. Hôm nay định ghé xin chỉ thị anh Ba rồi tạt sang thăm mấy anh em chiến sĩ Q2 đang nằm điều trị ở bệnh viện đội 17.

Ba Đình ngồi vào bàn:

– Ờ! Ngồi! Các đồng chí ngồi. Này, anh Hùng…

Đang lo thu xếp cột lại chiếc bồng, nghe Ba Đình gọi, tôi dạ, lên một tiếng, lật đật bước tới

– Dạ, chi anh Ba?

– Anh bảo đồng chí cần vụ pha ngay mấy cốc cà-phê sữa đãi chiến sĩ tiền phương nhé!

– Dạ!

Tôi không cần phải bảo, hai cậu cần vụ đứng sau hàng hiên cũng đã nghe rồi. Kể ra «anh Ba» cũng kỳ thật, hai cậu cần vụ đứng đấy, việc chi không ra lệnh thẳng lại phải gọi đến tôi?

Sáu Khâm khoanh hai tay để lên bàn

– Dạ, báo cáo anh Ba! Hôm rồi anh Ba có hứa trong vòng một tuần sẽ có ngay tân binh, bổ quân số cho Q2. Thưa anh Ba, nhưng đến hôm nay tụi tôi chưa nhận được người nào. Về tâm lý, quân số đang đông, sau chiến dịch thương vong nhiều, dù muốn dù không số còn sót lại, nếu không kịp bổ sung, sinh hoạt đều đặn như cũ khó tránh được bi thương, tinh thần dao động đó, anh Ba! Tụi tôi lo quá.

Ba Đình đốt một điếu thuốc lá:

– Ừ! Tôi biết! Đồng chí không nói Đảng cũng thừa biết chuyện đó. Nhưng các đồng chí cũng rõ, từ trạm B40 bên Tây Bắc về đây đâu phải một đôi ngày là đến được. Các đồng chí chịu khó chờ vài hôm nữa, đoàn tân binh sẽ đến. Việc điều động ba trăm tân binh bổ sung cho Q2 đâu phải là con số nhỏ, anh Khâm?

– Dạ báo cáo anh Ba, tụi tôi sẽ cho người đón nhận tại đâu, anh Ba?

– Phòng Thường Trực của Đảng ủy Hậu Cần khu A.

Sáu Khâm xoa đầu.

– Dạ, báo cáo anh Ba, thêm vấn đề nữa là ngoài việc ủy lạo cho thương binh ở bệnh viện, chúng tôi xin phép anh Ba chấp nhận cho chi thêm một khoản chi tiêu nữa. Ngoài tiêu chuẩn bồi dưỡng đã định, để ủy lạo cho các chiến sĩ còn lại của đơn vị, làm công tác động viên chính trị, biểu lộ sự lo lắng, chăm sóc, chiếu cố của Đảng..

Ba Đình nhịp nhịp tay xuống bàn

– Đã có tiêu chuẩn bồi dưỡng rồi, chưa đủ sao?

– Dạ, báo cáo anh Ba, tiêu chuẩn bồi dưỡng 10 đồng 1 đầu người, chẳng ăn thua vào đâu hết. Chỉ bằng tiền khẩu phần một ngày…

– Chà, khó đây! Để tôi hỏi lại anh Hai Chân và ý kiến tài vụ xem sao!

Đột nhiên, Sáu Khâm lần tay mở xắc-cốt lấy ra một chiếc hộp nhỏ để lên bàn ngập ngừng:

– Dạ, thưa anh Ba, trong số chiến lợi phẩm ít ỏi kỳ này đã nộp lên trên của chiến sĩ Q2, tụi tôi có giữ lại cái đồng hồ Longines, vỏ vàng 18 carats. Thấy nó quý giá tụi tôi chưa nộp lên Hội đồng kiểm nhân chiến lợi phẩm

Ba Đình cười, ngắt lời

– Các đồng chí định xin giữ lại đồ dùng hả? Được tôi đồng ý lắm

– Dạ, báo cáo anh Ba, dạ không! Dạ tụi này giữ lại để biếu anh Ba. Cái đồng hồ Omega mà anh Ba đeo, chiến lợi phẩm lần trước, nó vừa cũ, vừa xấu, không bằng cái Longines này đâu

Ba Đình nheo mắt cười

– Úi chà! Xấu với tốt gì. Cái Omega của tôi đang đeo đây cũng tốt chán. Cần gì phải đổi cái khác mất công. Đâu cái Longines ra làm sao đâu mà các đồng chí đề nghị tôi thay?

Sáu Khâm hí hửng mở hộp đứng dậy, đưa tận tay Ba Đình:

– Dạ đây anh Ba.

Đứng ở góc bàn, tôi tò mò nhìn vào mặt kính chiếc Longines xem nó ra sao. Nhưng khoảng cách và góc nhìn không cho phép tôi được thoả mãn. Và phép lịch sự cũng như sự tự trọng giữ chặt chân tôi trong tư thế đứng yên. Tôi chỉ thấy chiếc vỏ vàng và sợi dây đeo cũng một màu vàng, óng ánh, đẹp mắt

Ba Đình chép miệng

– Ừ! Đẹp thật! Không nhớ trước đây tôi có nghe ai nói hay đọc ở đâu, thấy nói đến nhãn hiệu này. Nhãn hiệu này có nhiều hạng, hạng nhứt giá đâu đến hơn một trăm ngàn tiền miền Nam. Phải không đồng chí Khâm?

– Dạ đúng đấy anh Ba!

– Kỹ nghệ đồng hồ Thuỵ Sĩ dẫn đầu thế giới. Nhưng phe xã hội chủ nghĩa của chúng ta đâu có kém gì. Đồng hồ của Liên Xô, của Đông Đức cũng có nhiều loại nổi tiếng thua gì của Thuỵ Sĩ. Lúc còn ở Hà Nội đồng chí có lần nào ghé qua cửa hàng Mậu Dịch Quốc Doanh Thống Nhất không?

– Dạ, có anh Ba!

– Đấy, đồng chí thấy ở đấy. Ở đó trưng bày nhiều cái để giá đến những hơn ba trăm nghìn đồng, tiền ta. Lương tôi phải hai năm mới mua nổi. Bởi vậy cửa hàng Thống Nhất chỉ có khách ngoại quốc vào mua sắm, nhân dân mình thì nghệt mặt ra nhìn.

Như mấy loại đồng hồ đó, tuy về mặt hình thức xem nó thô kệch hơn Thuỵ Sĩ nhưng máy móc bên trong bền chắc vô song. Nếu tôi không lầm, Bác cũng có một chiếc đồng hồ Liên Xô xài mấy mươi năm nay chưa hư hỏng, trục trặc lần nào.

– Dạ, đúng vậy anh Ba! Chuyện đó, tôi cũng có lần nghe anh Ba Tô Ký kể.

– Xã hội chủ nghĩa mình như vậy đó. Quan điểm, lập trường đối nhau chan chát với đế quốc tư bản. Mình chú trọng nội dung, còn chúng chú trọng hình thức. Mình tuy thô kệch, to, dày nhưng bảo đảm sự chắc chắn bền bỉ biểu hiện tính ăn chắc mặc dày của giai cấp công nông. Còn chiếc Longines này, đẹp có đẹp thật nhưng mỏng manh quá, khó có thể bảo vệ an toàn, chắc chắn cho máy móc bên trong mỗi khi bị đánh rơi hay bị đụng chạm mạnh. À! Các đồng chí lấy nó được ở đâu mà cả hộp đựng trang hoàng thế này?

– Dạ, hình như trong ba-lô của một thằng cố vấn Mỹ đó anh Ba. Nghe các đồng chí bên dưới báo cáo, dường như có cả hóa đơn. Nhưng như anh Ba biết đó, những loại giấy má của binh lính tịch thu được, mình có giữ chỉ giữ những loại như chứng minh thư, căn cước, hình ảnh thư từ, tài liệu chứ ba thứ quỷ quái đó, liệng đi chứ giữ làm gì.

– Còn mới quá! Không chừng thằng Mỹ này nó mới mua chưa dùng nữa là khác!

Sáu Khâm cười

– Thằng này có ý thức phục vụ cách mạng đó anh Ba!

Tiếng Sáu Khâm càng lớn hơn như để tán thưởng câu nói dí dỏm của mình.

Tôi sực nhớ đến trước đây, những ngày còn ở chung với Cường trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 1 Dân Công, Cường kể cho tôi nghe về việc quản lý và xử dụng chiến lợi phẩm.

Chiến lợi phẩm không phải có vũ khí súng đạn, quân nhu, quân dụng. Đảng cho biết, tất cả những gì lấy được đều là chiến phẩm. Từ sợi thắt lưng, cái ca, cái muỗng đến radio, bút máy, đồng hồ, tiền bạc, đồ cắt móng tay lấy được trong người binh sĩ địch, nhất nhất từ cái nhỏ đến cái lớn, cái gì cũng là chiến lợi phẩm. Mà đã là chiến lợi phẩm thì đều là của Đảng, do Đảng quản lý, xử dụng. Không một cá nhân cán bộ, chiến sĩ nào có quyền giữ làm của riêng.

Nó trở thành nguyên tắc, thành kỷ luật, điều lệ bắt buộc. Sau mỗi trận đánh, các chiến sĩ về căn cứ phải báo cáo với chính trị viên trung đội mình, mình lấy được những gì và nộp tất cả cho chính trị viên trung đội. Trung đội mang nộp cho Đại dội. Đại đội nộp cho Tiểu đoàn, rồi Trung đoàn. Trung đoàn phải nộp cho hội đồng kiểm nhận chiến lợi phẩm của Khu ủy hay Quân ủy Miền.

Tại đây, có một bộ phận chuyên môn phân loại, nghiên cứu cách xử dụng, chuyển đi đến các nơi liên hệ. Nếu là căn cước, thư từ, giấy má cá nhân, tài liệu v.v… chuyển qua Cục Chính Trị hoặc Phòng Chính Trị Quân khu, Sư đoàn v.v… Nếu là tiền nong, thuốc men, thực phẩm chuyển qua Cục Hậu Cần. Vũ khí đạn dược, quân dụng thì trao cho Cục Tham mưu.

Còn những loại bất thường như radio, đồng hồ, cà rá, bút máy, tư trang, vòng vàng v.v… cho đến kính đeo mắt, đồ chơi… hoặc sẽ chuyển sang Cục Chính Trị làm quà, làm giải thưởng, tặng vật cho những cán bộ, chiến sĩ có công v.v…hoặc đưa sang Cục Hậu Cần để Cục này giao cho những cơ sở kinh tài, thu mua vùng «địch hậu» mang ra bán lại cho các tiệm đồng hồ, tiệm vàng, chệt ve chai ở Đô Thành v.v… gây quỹ cho Đảng.

Sự kiểm soát của Đảng đối với các chiến sĩ về vấn đề này rất chặt chẽ, gắt gao. Đoàn viên Thanh niên, đảng viên có nhiệm vụ để ý quan sát hàng ngày trong tiểu đội mình, phát hiện được một chiến sĩ nào hơi khác thường là báo cáo lên trên. Sống chung với nhau ngày này qua ngày khác, đồng đội mình có bao nhiêu tiền, có được món gì, sinh hoạt ra sao là biết ngay. Có tiền tất phải xài, có của tất phải dùng dù có giấu dút đi nữa cũng lòi ra.

Bởi cuộc sống lưu động, gia sản chỉ có vài bộ quần áo với cái bồng mang trên lưng, thiên hạ bao nhiêu mắt nhìn vào chẳng những vậy chuyện lục bồng nhau là chuyện thường thì có thánh cũng không giấu được nỗi 1 cây kim.

Tuy nhiên, «tinh thần cách mạng» dù có cao đến đâu, «giác ngộ giai cấp» có cao đến mấy, không ai không thích hưởng thụ, và chẳng ai thấy vàng bạc, của cải đến tay mà không động lòng «trần tục»

Cho nên, mỗi người mỗi cách, mỗi người áp dụng mỗi mánh khoé riêng của mình, dựa vào phương tiện và tình huống «hợp lý» nào đó để biến «của gian» thành của hợp pháp. Cán bộ tính theo cán bộ. Chiến sĩ tính theo chiến sĩ!

Phương thức thông thường nhất là «đồ cũ» đổi đồ mới. Có bình ton (bidon) cũ, thắt lưng cũ, chộp được cái mới, nếu ''giác ngộ'' một chút thì mang đi nộp cái cũ, giữ lại cái mới để dùng. Thông thường, thì vất cái cũ vào rừng cho rảnh nợ, khỏi mất công. Đôi lúc, có chư vị còn cả gan thay những món lớn hơn như đồng hồ cũ đổi đồng hồ mới, cây viết Pilot đổi viết Parker v.v… Những trường hợp như vậy dĩ nhiên bị kiểm thảo, phê bình sát ván, áp dụng kỷ luật, ghi lý lịch những món đồ cũ «lỡ» nộp lên trên rồi, chuyển đi mất rồi, khó thể đổi lại nên đơn vị đành phải để cho «đồng chí ta» xài. Bị kiểm thảo, kỷ luật nhưng đổi được của quý cũng chả thiệt đi đâu.

Kế đến là cái «mốt» xin nghỉ phép đi «móc» gia đình. Nghĩa là xin phép đến một địa phương ở vùng xôi đậu hoặc gần những trục giao thông, mướn người đi liên lạc với gia đình, rước cha mẹ anh em hay vợ con đến thăm vài ngày. Dĩ nhiên «móc» được gia đình đến thăm, làm sao gia đình không cho món này, vật nọ hay tiền nong?

Sau một trận đánh nào đó, lấy được món đồ đáng giá nào đó, hoặc năm ba ngàn, một vài chục ngàn, đồng chí ta giấu biệt dưới đáy bồng hay trong quần áo, đáy vỏ bình ton, hoặc trong những bao đựng đạn. Khi về căn cứ nghỉ quân hoặc đi ngang địa phương nhà, «đồng chí ta» đâm đơn xin thăm nhà hoặc «móc» gia đình. Nếu đơn vị cho thì tốt, không cho cũng giỡ trò «nhớ gia đình quá» lén đơn vị đi ngang (nhận khuyết điểm sau mà!)

Như vậy, chiến lợi phẩm kể trên, hoặc chuyển về cho gia đình gọi là chút quà kỷ niệm hoặc nó trở thành hợp pháp hoá, tự do xài. Dù Đảng nghi ngờ, không tin cũng không có bằng cớ gì để tước đoạt lại hay thi hành kỷ luật. Lý do: «món này của gia đình cho».

Thế là xong.

Những sự kiện trên đây thường xảy ra ở hàng ngũ cán bộ cấp dưới và lính «đơ dèm cùi bắp». Còn cán bộ bên trên có nhiều lý do chứng minh hơn. Ngoài gia đình cho, còn có của bạn bè tặng, hoặc cấp ủy Đảng «đồng ý». Bởi, là cán bộ chỉ huy, tất nhiên đều thuộc hàng ngũ cán bộ lãnh đạo Đảng, có chân trong cấp ủy. Hể cấp ủy đồng ý cho đồng chí bí thư lần này, lần sau sẽ đến lượt phó bí thư rồi ủy viên cấp ủy. Công bằng mà! Rốt cục, Đảng rất «sáng suốt», đồng chí cán bộ lãnh đạo nào cũng được Đảng chiếu cố, «cán bộ là vốn quí của Đảng» thì Đảng phải có chính sách chiếu cố chứ sao! Đó là nguyên tắc.

Huống hồ trường hợp chiếc đồng hồ Longines hôm nay của Sáu Khâm. Ban Chỉ huy Trung đoàn Q762 dâng Ba Đình, Tư Lệnh Bộ Chỉ huy Tiền Phương một thiếu tướng, cán bộ cao cấp của Đảng lãnh đạo quân đội là một bổn phận, một nhiệm vụ chăm sóc của cấp dưới đối với cấp cao. Là một cán bộ cao cấp, khi cần, muốn những gì khó khăn hơn, quý giá hơn, «Đảng» còn phải tìm đủ mọi cách thỏa đáng, sá gì một chiếc đồng hồ, một vật dụng nhỏ nhoi.

Nhớ đến lời Cường nói, xuyên qua những diễn biến trước mắt tôi trước đây cũng như hôm nay, tôi nghĩ được làm một cán bộ cao cấp của Đảng sướng thực.

Nhất định không có một chế độ nào trên thế giới ngày nay có thể sánh được.

Bởi không chế độ nào tôn ti trật tự, có những đặc quyền hơn chế độ vô sản chuyên chính. Hễ là cấp dưới phải có bổn phận phục vụ cấp trên, bất kỳ đi đến địa phương nào, ngành nào, dân sự hay quân sự v.v… chỉ có mỗi tôn ti duy nhất là cấp bậc Đảng mà thôi.

Ngay chế độ cần vụ, chắc chắn trên thế giới không một nước nào có, ngoài những nước phe «Xã hội chủ nghĩa». Từ cấp Tỉnh ủy trở lên, về quân sự thì từ cấp trung tá và Đảng ủy Trung Đoàn trở lên, Đảng quy định được hưởng chế độ có cần vụ phục dịch, do Đảng cấp cho. Đó là nguyên tắc.

Đồng chí cần vụ của một cán bộ vừa làm nhiệm vụ vệ sĩ, vừa là một người ở giúp việc nhà, vừa là một thứ tôi tớ làm đủ mọi việc mỗi khi cán bộ muốn, kể cả sự chết để cán bộ sống.

Từ việc săn sóc giấc ngủ… miếng ăn, giặt quần áo chạy đầu này, đi chỗ nọ v.v.. trăm ngàn việc, lúc nào cần vụ cũng phải chu toàn, kề cận bên cán bộ bất kể ngày đêm. Ngay như con lo cho cha cũng không sao bằng được một phần trăm.

Điều hệ trong đáng nói, đáng quan tâm bậc nhất là cần vụ không có quyền buồn, lúc nào cũng phải tỏ ra sung sướng, vui vẻ, tinh thần phục vụ cao, vinh hạnh được đảng chỉ định làm cần vụ. Bởi Đảng có tín nhiệm, tin cậy mới giao cho công tác đó. Đảng dạy rằng công tác phục vụ cán bộ cũng «vinh quang» ngang với công tác lãnh đạo của cán bộ. Đồng chí giữ ngựa của Võ đại tướng nếu chăm sóc ngựa cũng «vinh quang» ngang hàng với công tác lãnh đạo toàn quân của Võ đại tướng. Nhiệm vụ của Đảng giao cho khác nhau, cấp bậc chức vụ khác nhau nhưng nếu đồng chí giữ ngựa làm tròn công tác mình đối với Đảng có khác gì công tác của Võ đại tướng đối với Đảng. Giữ ngựa cho Võ đại tướng, phục vụ cho Võ đại tướng không phải là phục vụ cho cá nhân Võ đại tướng mà chính là giữ ngựa cho Đảng, phục vụ cho Đảng.

Nếu nghĩ khác đi, nếu bất mãn là sai lầm, là xuyên tạc, là chưa giác ngộ, thì tinh thần phục vụ Đảng còn kém, còn khuyết điểm phải sửa chữa ngay. Có thấu triệt như vậy, có quan niệm đúng như vậy mới là… chiến sĩ cách mạng.

Trời đất ơi! Những điều trên đây trong thời gian 9 năm kháng chiến chống Pháp tôi đã được nghe Hà Huy Giáp, một Ủy viên Trung Ương Đảng thuyết trình trong một buổi đại hội về công tác Tuyên văn toàn Nam Bộ. Và mấy tháng trước, lúc còn ở trạm giao liên Suối Đá, trong một buổi uống trà nói chuyện tào lao với mấy «cán bộ mùa thu» từ Hà Nội về tôi lại được nghe thêm… Mấy «cán bộ mùa Thu» đó vừa lập luận vừa cười ha hả, nhướng mày với tôi, phê một câu:

– Lý luận hết sức đúng nhưng… là là… thà nhận khuyết điểm với Đảng chớ bảo tôi vinh quang hơn cả Võ đại tướng tôi cũng xin thôi giữ ngựa. Đồng ý chớ, anh Hùng?

Tôi đang nghĩ lan man, nhìn ra sân, câu nói của Ba Đình lôi tôi về thực tại:

– Cảm ơn các đồng chí nhé! Kìa! Cà-phê sữa xong rồi đấy, mời các đồng chí! Đồng chí Hùng!

– Dạ! Tôi giật mình quay vào. Và ngồi ghé xuống ở góc băng.