Chương XV TRÊN NẺO VỀ TÂY BẮC
Buổi tối. Bấy giờ là những ngày đầu trung tuần tháng 7 năm 1965. Tôi giăng võng nằm một mình ở góc sân trước nhà. Lòng tôi nao nao với một cảm giác dị thường, không sao diễn tả được. Vừa băn khoăn, vừa bồn chồn, vừa muốn làm một cái gì đó, vừa muốn làm một cái gì đó, vừa nằm yên không cử động.
Lúc chiều sau khi ăn cơm xong, Ba Đình cho tôi biết mai này Ba Đình về Tây Bắc. Tôi cũng được đi theo về ở luôn bên đó, nhận công tác mới. Tôi phải sửa soạn, chuẩn bị để mai lên đường, Ba Đình chỉ phổ biến cho tôi biết vắn tắt như vậy.
Tôi chạy đi gặp Ba Vinh và những anh em cán bộ khác vừa để báo tin, từ giã, vừa để tìm hiểu thêm đã có những gì xảy ra, biến chuyển mà tôi chưa biết. Cũng như Tây Bắc là nơi nào, có những gì đang chờ tôi ở đó?
Tôi được anh em cho biết là Bộ Chỉ huy R tức Bộ Chỉ huy tối cao các lực lượng Giải phóng Miền Nam đã điện sang ra lệnh giải tán Bộ Chỉ huy Tiền Phương. Về phương diện tổ chức, từ nay biến chế lại phát triển mạnh lực lượng, chính quy hoá để phù hợp với giai đoạn mới của chiến trường. Tình hình trong nước biến chuyển hoàn toàn, khẩn trương, quan trọng vô tưởng.
Vì Mỹ đã trực tiếp đưa quân đến tham gia vào chiến tranh miền Nam. Đưa quân ồ ạt. Một số quân của các quốc gia trong khối phòng thủ Đông Nam Á cũng được đưa đến Sài Gòn tiếp theo. Mực độ chiến tranh sẽ vô cùng khốc liệt. Chiến tranh đặc biệt đã chấm dứt. Bây giờ là chiến tranh cục bộ, quy mô như chiến tranh Triều Tiên 1950-1952.
Ở Sài Gòn, chính phủ Ngô đình Diệm bị đảo chánh, lật đổ Chính phủ mới lên thay, Trung tướng Dương Văn Minh cũng bị Nguyễn Khánh lật đổ. Bây giờ, mấy ngày qua Nguyễn Khánh cũng bị lật đổ theo, nhường cho một chính phủ quân nhân, chính phủ chiến tranh lên thay v.v…
Hình thái chiến tranh trong những ngày tới đây hoàn toàn không còn giống như trước. Sẽ gay go nhiều hơn gian khổ nhiều hơn hy sinh nhiều hơn. Chiến lược chiến thuật cũng thay đổi hoàn toàn.
Bộ Chỉ huy R quyết định giải tán Bộ Chỉ huy Tiền Phương, thành lập những đơn vị lớn, tập trung từng sư đoàn một. Ba Đình về Tây Bắc là dự những cuộc họp khẩn. Trước đây, Năm Thạch, Hai Chân, Tư Thắng đã về Tây Bắc rồi. Vì vậy trong những ngày qua họ không có mặt ở đây.
Giờ đến lượt Ba Đình bị gọi về. Còn Tây Bắc tức là khu B, chiến khu biên giới Tây Ninh, Bình Long, Bộ Chỉ huy R ở đó. Các cơ quan đầu não lãnh đạo miền Nam đang ở đó.
Tôi được anh em giải thích tóm tắt như vậy. Tôi ngã ngửa ra.
Ừ, như vậy là khẩn trương thật sự rồi. Chiến tranh VN trở thành quốc tế hoá rồi.
Thế mà mấy hôm nay tôi chả biết gì hết. Như trong một cái hũ nút kín, tù mù. Tôi còn không biết thì những anh em chiến sĩ làm sao biết được? Đảng giấu kỹ quá. Bộ Chỉ huy giấu kỹ quá, hay là sợ chiến sĩ biết rồi đâm hoang mang dao động chăng?
May nhờ Ba Vinh có radio, lại là ủy viên Đảng Uỷ khu A được phổ biến hạn chế và Ba Vinh tưởng tôi ở chung với Ba Đình chắc tôi ít nhiều cũng được nghe nên vô tình xì ra cho tôi nghe. Nếu không, chắc gì tôi được biết?
Tuy mang tiếng ở chung với Ba Đình, nhưng lâu nay tôi ở bệnh viện đội 17. Về đây mấy hôm nay, thấy rảnh, tối ngày tôi cứ theo anh em cảnh vệ đi săn. Tôi không muốn mình cứ phải khép nép như một kẻ thừa, bận mắt cho người khác lại mất tự do, không thoải mái chút nào nên tôi cứ lãng đi, có ở nhà với Ba Đình đâu? Ngoại trừ lúc ngủ, tôi mới bò về. Vậy thì những gì đã xảy ra tôi có nghe gì đâu.
Chuẩn bị lên đường về R, về Tây Bắc, tôi chỉ có cái bồng, có gì đâu mà chuẩn bị? Nếu có, chỉ là lấy gạo đổ vào ruột tượng. Còn lương khô đi đường đi chung với Ba Đình, đã có cảnh vệ, cận vụ lo. Nhàn hạ quá mà!
Nằm trên võng, trạng thái tôi bây giờ, là trạng thái nao nao, tư tưởng diễn biến quay nhanh như con vụ. Vừa dao động, vừa hoang mang, nghĩ hết vấn đề này đến vấn đề khác chưa ngừng lại được ở một vấn đề nào.
Nhưng, thôi. Có thế nào đi nữa cũng là chuyện của những người khác, những ai có trách nhiệm trong cuộc chiến tranh. Còn tôi, mai này tôi lên đường về Tây Bắc, sẽ đi ngang quốc lộ 13 như trước đây Hiền của tôi phải đi qua. Bây giờ….
Bây giờ Hiền đang sống ở Sài Gòn bên gia đình êm ấm, không chừng nàng đã trở lại đời nữ sinh áo trắng của ngày xưa. Tuy chưa được gia đình đôi bên biết mặt, tác thành nhưng chúng tôi đã là vợ chồng, cùng chia sớt mọi nỗi vui buồn cay đắng trong những ngày chua xót cơ cực ở B195. Giờ này Hiền đang mỏi mắt chờ tôi. Thầm mong cơ hội giải thoát, may mắn đến với chồng mình để tiếp nối lại những ngày vui mới, trong ân tình và hạnh phúc dâng cao.
Tôi nghĩ đến những kế hoạch trốn thoát trên đường mà tôi và Hiền hai đứa đã bàn với nhau trước lúc Hiền ra đi. Dĩ nhiên hoàn cảnh của tôi hôm nay không giống tình huống của Hiền lúc trước. Và tôi cũng không có những lợi khí trời cho như Hiền.
Nếu đoàn Văn công của Hiền chỉ có một vài cảnh vệ đi theo bảo vệ thì đoàn tôi sắp đi đây không phải một vài cảnh vệ mà là cả trung đội, đại đội, hay hơn nữa. Vấn đề canh gác, kiểm soát nằm đường, cảnh giới để bảo vệ cho mấy cán bộ cao cấp của Bộ Chỉ huy tối cao của Lực lượng Giải phóng quân Miền đâu phải là chuyện giản dị. Để dò tình hình, lúc chiều tôi hỏi Ba Đình:
– Thưa anh Ba, mình đi chừng một tuần chắc về đến Tây Bắc phải không, anh Ba?
– Thông thường chừng bảy hôm đến mười hôm. Suông sẻ thì thế, gặp động có thể lâu hơn.
– Mình đi đông chắc nhanh hơn là đi ít người chứ anh Ba?
– Không đâu! Kinh nghiệm hành quân, điều động đơn vị lớn lao bao giờ cũng chậm hơn là một đơn vị nhỏ. Mình đi chuyến này, cả một Đại đội bảo vệ đi theo, rồi còn một Tiểu đoàn cảnh giới đoàn 13 nữa. Việc đi đường do các đồng chí ấy họ thu xếp, quyết định nhất nhất phải tuân theo ý kiến họ chứ đâu phải do mình.
Như vậy là rõ ràng. Qua trục lộ giao thông quốc lộ 13 qua mấy vùng nguy hiểm tức là những vùng mà tôi có thể trốn thoát về Sài Gòn đều có sự canh giữ, kiểm soát chu đáo. Họ canh giữ kiểm soát để bảo vệ cho Ba Đình và đoàn đi nhưng có khác gì họ kiểm soát tôi? Cơ hội giúp tôi có thể trốn thoát về Sài Gòn thực mong manh.
Dù sao, tôi cũng phải cố gắng. Tùy theo tình huống trên đường đi xảy ra như thế nào mới có thể biết quyết định ra sao? Nếu cần liều cũng phải liều, chứ sống trong cảnh giả câm, giả điếc, giấu giếm ý nghĩ mình, giữ gìn từng li từng tí thực không gì khổ hơn.
Sự câm nín trong những nụ cười gượng ép, trông sáng, trông chiều, đếm từng phút thời gian đi qua trong khoắc khoải, triền miên không là một khổ dịch điêu đứng hay sao?
Đêm dần về khuya. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, trằn trọc.
Sáng dậy, sau khi ăn sáng, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Bồng đựng quần áo trên lưng. Quần cột ống để chống vắt bò lên cao. Dép râu được rút quai lại cho vừa. Nylon choàng, nylon nóc, bình ton đầy nước sôi lổn ngổn vắt quanh thắt lưng.
Một trung đội đi trước dọn đường. Một trung đội đi sau đoạn hâu. Và một trung đội hộ tống. Ba Đình đội chiếc nón vải lên đầu, xắc-cốt quàng xéo ngang hông tay chống gậy nhịp nhịp trên đất.
– Thôi! Đi thôi!
Thế là chúng tôi lên đường, ra khỏi văn phòng B1 đi về phía bàu Chân Ra.
Núi rừng Chiến khu D, Đông Bắc đây ư? Khu A với bóng cả cây già đây ư?
Giã từ người, khu A nhé! Hơn hai năm rồi ta sống trong lòng người với không biết bao nhiêu kỷ niệm, vui buồn, cay đắng ta tưởng chừng như dài hàng thế kỷ. Ta tưởng rằng ra bị vùi mãi trong một màu xanh ngàn trùng, màu xanh mỏi mắt của lá rừng cao, ta sẽ chết ở đây, tầm thường, lạc lõng như những chiếc lá rơi vèo trong gió, không làm khích động đến bất cứ người nào của thế giới loài người, âm thầm như con dế trong đêm.
Giờ, ta đi đây. Giã từ ngươi – núi rừng Đông Bắc! Tôi vừa đi vừa nhìn lên ngọn cây rừng, nhìn quang cảnh chung quanh với cảm giác lâng lâng, hồn nhẹ nhõm.
Tôi cố ý dần dà để được đi chung với trung đội đoạn hậu sau cùng. Không đi chung với Ba Đình ở đoạn giữa. Tôi đã quyết định rồi. Tôi đang sửa soạn đây, đang chuẩn bị sẵn sàng chờ đợi một thời cơ.
Bỗng dưng tôi nhớ đến bài ca «NẮM VỮNG THỜI CƠ» âm giai Ré đoản của Lưu Hữu Phước sáng tác trong kỳ kháng chiến 9 năm chống Pháp. Tôi hát khe khẽ. Tôi hát cho tôi.
– «Chúng ta bước lên đường khi thời cơ đã đến. mặc trời mưa, mặc đường trơn, mặc đèo dốc đá, mặc hành quân mang nặng. Ta cứ đi, ta vẫn vui….»
Anh cần bộ trung đội đi kế bên tôi cũng huýt sáo miệng hoà theo. Chợt anh ta nói.
– Tôi tới lui khu A như đi chợ. Vậy mà lần nào rời khu A về khu B, cũng nhớ tới cái tay «cán bộ mùa thu» hồi năm 62.
Tôi ngừng tiếng hát
– Sao anh?
– Anh ta bây giờ đâu mất biệt, không nghe nói đến.
– Anh ta sao?
– Hồi năm sáu mươi hai, tôi theo đường dây đi công tác về bên Tây Bắc. Cùng đi trong đoàn hôm đó, có một tay cán bộ mùa thu từ Bắc về, công tác tại B1 khu A, được lệnh thuyên chuyển về khu B nhận công tác mới. Lúc đoàn qua sông Mã Đà cầu dây, ngồi nghỉ ở bờ sông, anh ta lột nón lom khom xá sông Mã Đà. Miệng anh ta vừa cười vừa nói: «Mã Đà Sơn cước anh hùng tận là mày đây hả, Mã Đà? Chuyến này tao về khu B, tao xá mày mấy cái, mày đừng có lưu luyến kéo tao trở lại “chết sướng hơn” là gặp mày». Tụi này cười bò lăn ra.
Tôi hỏi:
– Làm gì anh ta sợ Mã Đà dữ vậy?
– Sốt rét với cực. Anh ta được thuyên chuyển về R nên ngang Mã Đà, anh ta giỡn chơi cho vui. Anh tưởng phen này là ngàn năm không thèm trở lại khu A. Ai dè….
– Dè gì?
– Ai dè…Anh ta giỡn chơi vậy mà, khi về tới trạm Suối Đôi, dưới bàu Châu Ra này chừng vài cây số nè, giao liên báo cáo, phản ảnh sao không biết. Đảng ủy khu A nghe được. Hồi đó, ông Hai Cà còn ở đây. Ổng tức tốc ra lệnh cho cảnh vệ đuổi theo giao liên tới trạm Suối Bé bắt anh ta trở lại thi hành kỷ luật.
Tôi ngạc nhiên:
– Ơ, anh ta tội gì mà thi hành kỷ luật?
– Thì, đó! Tội xá sông Mã Đà chớ tội gì! Nó biểu hiện thiếu tinh thần chịu đựng gian khổ. Thái độ đó làm cho ông Hai Cà, ổng nổi sùng, ổng hỏi: «Tinh thần cách mạng, tinh thần chịu đựng gian khổ của đồng chí để đâu? Đồng chí là cán bộ mùa thu, là đảng viên mà đồng chí có thái độ như vậy hả? Được, đồng chí sợ khu A, từ nay đồng chí ở luôn lại khu A cho tới chết»
Tôi cười. Anh ta tiếp
– Anh ta khóc ròng. Xá chơi mấy cái mà hại quá mạng. Anh ta chẳng những bị giữ lại khu A, còn bị kiểm thảo, cảnh cáo ghi lý lịch, ngưng sinh hoạt Đảng sáu tháng, nêu điễn hình cho các đơn vị học tập. Cho nên từ đó về sau, ai mà được thuyên chuyển ra khỏi khu A nín thinh không dám hó hé gì hết. Muốn nói gì, phải đợi ra khỏi khu A mới dám nói.
– Bây giờ anh ta ở đâu?
– Tôi không rõ nữa. Hình như sau đó, ông Hai Cà ổng cho anh ta ra Khu 6, để cho giỏi có còn sợ gian khổ, xá khu A nữa hay thôi.
Thôi hay không thôi thì cũng đã rồi. Còn biết làm sao được!
Trưa hôm đó chúng tôi dừng lại ăn cơm, nấu trà uống ngất ngưởng với nhau ở cầu dây sông Rạc – một con sông chảy ngang tỉnh lỵ Phước Thành. 1 giờ, chúng tôi lại lên đường, hướng về lộ Phước Bình, Phước Thành. Dọc theo đường mòn đầy dẫy những cây sim.
Những cây sim, lá tròn tròn đầy lông nhám và những hoa màu tím nhạt. Thỉnh thoảng vài trái chín nứt vỏ, cơm phía trong bày ra màu tím đen, sần sùi như những hột cát nổi mặt. Tôi thò tay ra bứt lấy.
Tôi nhớ tới những bài thơ, những mẫu văn nho nhỏ của dân thành thị, của những kẻ ở Sài Gòn và những cô nữ sinh quanh năm suốt tháng chưa ra khỏi những con đường nhựa. Lúc nào cũng lải nhải tán vung, tán vít về «màu tím hoa sim» về «trái sim chín mọng», «ngọt ngào». Ôi là thơ, là tưởng tượng! Nó trở thành một cái mốt ngớ ngẩn, buồn cười. Tuổi thơ vốn thế mà.
Nếu bẻ được một cành sim bứng được nguyên cả cây sim đem về trồng ở công trường Quách thị Trang (Bùng binh chợ Sài Gòn) cho mọi người nhìn ngắm, chắc thiên hạ sẽ ngã ngửa ra, không có ai gan làm thơ hoa sim, tốn giấy tốn mực về sim nữa.
Đường mòn chui ra quãng trống. Hai bên đường toàn sim. Cả một rừng sim thấp, nắng chói chang. Cũng có thể ở một phút nào đó người ta thấy màu hoa sim đẹp, trái sim ngọt ngào nhưng dưới cái nắng chói chang, trên đường hành quân mồ hôi nhễ nhại, mệt đờ người như tôi hôm nay, đi giữa rừng sim chỉ có chán và buồn. Quanh tôi, sống giữa rừng khu A biết bao nhiêu là con trai, con gái, đủ mọi tầng lớp, thành phần, chưa bao giờ tôi nghe ai mở miệng ca tụng về sim.
Trong thời kháng chiến chống Pháp, rồi những năm sau 1954 tôi trở lại Sài Gòn, tôi đã được đọc nhiều lần bài thơ «MÀU TÍM HOA SIM». Bài thơ của Hữu Loan. Bài thơ thật hay. Nó đã nâng Hữu Loan lên địa vị của một nhà thơ nổi tiếng, chói sáng trong hàng ngũ thi ca tự do hiện đại, hầu như trong giới văn học, học trò ở Sài Gòn, không ai không ít ra là một lần được đọc qua báo chí sách vở. Có lẽ nhiều người đã thuộc lòng như tôi. Màu tím hoa sim với Hữu Loan nó có giá trị thực tế về màu sắc và cảm xúc, rung động chân thành của nhà thơ. Còn thành phố Sài Gòn, đất ruộng cò bay thẳng cánh của miền Tây, Sim đâu? Nào ai đã thấy sim mà ca tụng hoa sim?
Kể cũng buồn cười, hay tại thơ «MÀU TÍM HOA SIM» của Hữu Loan đã gợi cảm, lôi cuốn nhiều người vào thế giới hoa sim?
Tôi đưa trái sim lên miệng. Nước vỡ tràn vào lưỡi một vị ngọt ngàn nhạt, đăng đắng, ngây ngây. Chợt đoàn người phía trước dừng lại nói truyền về phía sau:
– Nghỉ mười phút sửa soạn qua lộ Phước Bình Phước Thành.
Theo qui luật hành quân, khi nghỉ dừng chân, ở đâu tấp vào đây, không được dồn cục, túm lại nói chuyện xì xào. Tôi lủi vào đụt nắng dưới một cây sim. Cây sim nhỏ, lá thưa, ánh nắng lỗ chỗ từng mảnh đổ trên người tôi. Tôi mở bình ton ra uống nước, đẩy đi cái dư vị chan chát ngây ngây của trái sim còn vương lại trong cổ.
Nhìn qua những ngọn sim im lìm trong nắng, tôi lẩm nhẩm đọc lại bài thơ «MÀU TÍM HOA SIM» của Hữu Loan:
Nàng có ba người anh đi bộ đội,
Những em nàng
Có em chưa biết nói.
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi người vệ quốc quân
Xa gia đình,
Yêu nàng như tình yêu em gái.
Ngày hợp hôn không đòi may áo cưới
Tôi mặc đồ quân nhân.
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại.
Lấy chồng đời chiến binh
Mấy người đi, trở lại?
Nhỡ khi mình không về,
Thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê.
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng.
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương lạnh vây quanh
Khi tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi.
Anh đi giây phút cuối,
không được nghe em nói,
không được nhìn nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Khi gió sớm thu về gờn gợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
tôi hát trong mầu hoa:
«Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu».
Ôi buồn làm sao! Hữu Loan qua những đồi sim nhớ về người yêu đã mất. Không hiểu sao, bài thơ đó làm tôi xao xuyến rưng rưng. Trước mặt tôi đây là những đồi sim mà là sừng sim im lìm trong nắng.
Tôi cũng có người yêu, người vợ chưa cưới nhưng đã trọn nghĩa vợ chồng. Hiền đó. Nếu vạn nhất Hiền của tôi chết thì thế nào nhỉ? Trời ơi! Không được! Nàng không thể chết được! Tôi không biết làm thơ để khóc nàng.
Lại tiếp tục lên đường. Con đường tráng nhựa Phước Thành Phước Bình nằm im trong hoang vu, cỏ mọc đầy. Từ lâu rồi, con đường này xe cộ không chạy qua.
Người trước, người sau nối tiếp nhau. Băng ngang qua lộ là một khoảng ruộng sâu bỏ hoang nước ngập quá gối. Nước văng tung toé. Một dọc người, ai ai cũng hối hả vượt nhanh lên bìa rừng. Lúc này mà có máy bay đến thì thực là tai hoạ. Vô phương chạy thoát. Chỉ có nước trầm mình, đội cỏ phủ lên đầu may ra….
6 giờ rưỡi tối, chúng tôi đến trạm Phước Sang.
Theo dự định của Ba Đình, đoàn sẽ dừng lại nghỉ ở đây một ngày để lấy sức. Vì qua một ngày đường, mệt mỏi đừ người, sức nào đi tiếp cho nổi. Chiến sĩ, họ quen đi bao lâu chả được còn Ba Đình thì lâu lâu mới có một lần, sao kham nổi?
Nhưng khi nhìn thấy một dãy hố bom còn mới toanh chung quanh trạm, Ba Đình đâm ra ngại. Không dám nghỉ lại trạm. Ba Đình ra lệnh ngay cho bộ phận «tiền tiêu» chuẩn bị xuồng ghe, cảnh giới đoạn đường qua sông Bé đi trạm 132 ở suối Lung.
Ngủ tại trạm Phước Sang một đêm, sáng dậy, cả đoàn lại cơm ăn, cơm giở mang theo, lên đường thật sớm.
Non một giờ sau đến bờ sông Bé. Nước sông chảy xiết như đổ từ dốc cao. Hai bên bờ, tre, lồ ô xanh um, lã ngọn đong đưa trên dòng nước. Gió thổi rì rào.
Buổi sáng trời thanh và cao. Mây trắng từng cụm như những dãi bông tơ, trắng nõn nà, trôi nhè nhẹ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần tầm mắt tôi không bị vướng cành lá cây rừng, được nhìn thấy khoảng trời cao, thấy chân trời xuống thấp với những chòm mây, là y như lòng tôi chợt xao xuyến, bâng khuâng, rung động sẻ sàng như cánh bướm non.
Đoàn đi, ngồi dọc theo đường mòn, chờ đến lượt sang sông. Hai chiếc ghe cũ, mỗi chiếc có thể chở được bảy người, vừa bơi vừa tát nước xành xạch không ngừng, thay phiên nhau qua lại một cách chậm chạp, nặng nề vì nước đổ. Phải hơn một giờ, đoàn đi mới sang sông hết. Lại lên đường. Bên này sông từ đây, toàn rừng le. Bóng cả cây già cao chót vót không còn nữa. Le là một loại trúc rừng, mọc ngang dọc, chằng chịt, ngã dài như đan lấy nhau. Đường mòn được dọn sẵn, mòn lẵn, đi luồn dưới cái «giàn le xanh» đan kín bên trên.
Tôi nghĩ, nếu vì một lý do nào đó, bất chợt từ trên trời xuống rừng như rừng già bên kia sông Bé người ta có thể đi đứng tới lui dễ dàng như không khó khăn gì lắm. Nhưng nếu lọt giữa rừng le ở đây, nếu không có đường mòn mở sẵn có lẽ đành chịu chết, không tài nào thoát nổi, khó thể tới lui.
Rừng le mọc lâu năm, bừa bãi, lớp này chồng lên lớp khác, cây tua tủa không còn chỗ trống chắc thú rừng cũng không có nổi lấy một con. Người mà lọt vào đây, chắc gì một giờ đồng hồ có thể xê dịch nổi hai mươi thước?
Đường đi tuy trống dễ dàng nhưng tốc độ hôm nay sút đi nhiều. Không còn hăng hái, bước nhanh như hôm qua nữa.
Mãi đến 5 giờ chiều mới đến trạm 132 ở suối Lung. Tại đây, Ba Đình ra lệnh cho đoàn dừng lại nghỉ ngơi hai ngày cho thật khoẻ «chuẩn bị tinh thần vượt» quốc lộ 13.
Như vậy là chặng đường quyết định số phận của tôi đã đến rồi. Chỉ còn hai ngày nữa, Hiền của tôi đã thoát đi ở đây mấy tháng trước, Hiền đi được thì tôi, bằng mọi cách, dù khó dù nguy hiểm đến mấy cũng phải liệu.
Tôi la cà với các anh em chiến sĩ hỏi chuyện về con đường này. Thăm dò việc canh gác ra sao, cách bố trí, cảnh giới v.v… để đánh giá cơ hội, chuẩn bị tinh thần trước. Hồi hộp, lúng tùng, thần kinh căng thẳng không yên.
Ba giờ sáng. Tôi đang ngủ thì có người lay tôi dậy khẽ gọi:
– Anh Hùng! Anh Tư Hùng dậy sửa soạn lên đường!
Tôi giật mình, bật dậy như cái lò xo. Anh cán bộ đại đội đứng bên võng tôi, nai nịt gọn gàng, khẽ tiếp:
– Đã đến giờ lên đường. Xin anh đánh thức báo cáo dùm với anh Ba!
– Các đồng chí xong hết rồi hả?
– Dạ báo cáo anh, xong!
Tôi tuột xuống võng, lặng lẽ cuốn mùng, cuốn võng bỏ vào bồng. Kể từ hôm rời khu A, tuy đi đường tôi không đi cùng đoàn giữa với Ba Đình mà cố ý đi với Trung đội Bảo vệ đoạn hậu sau chót, nhưng đến trạm tôi vẫn phải ngủ chung nhà. Ngoài công việc, trên tinh thần và nguyên tắc tổ chức, tôi còn có bổn phận bảo vệ thủ trưởng của tôi như mọi người khác.
Chợt có tiếng bật lửa xoèn xoẹt. Ánh sáng bùng lên. Thì ra Ba Đình cũng đã thức dậy, đốt chiếc đèn dầu trên bàn. Tôi nói một câu có vẻ thừa:
– Dạ, báo cáo anh Ba, đến giờ lên đường.
Anh cán bộ đại đội bảo vệ cũng bước vào, tiếp theo:
– Dạ báo cáo anh Ba, theo kế hoạch đã định ba giờ rưỡi khuya nay mình lên đường để kịp qua lộ 13 vào lúc bừng sáng.
Ba Định ngắt ngang, giọng nói ráo hoảnh:
– Thế nào? Tiểu đoàn cảnh giới đã có liên lạc cho biết tình hình chưa?
– Dạ, báo cáo anh Ba, cách đây chừng mười lăm phút các đồng chí ấy cho có một tổ trinh sát đến liên hệ với mình. Dạ, tình hình yên, không có chi. Đáng ngại nhất là khu vực bên kia lộ Chơn Thành-Xa Cát vùng đó tụi biệt kích thường hoạt động, vùng chung quanh lộ Chơn Thành, Xa Cát đó, có hai trung đội phối hợp với đơn vị cơ động Bình Dương được đưa đến từ chiều hôm qua, đang cảnh giới chặt chẽ. Dạ, nói chung tình hình yên tĩnh ạ!
– Tốt! Từ đây ra đến lộ 13 mất bao nhiêu giờ đồng chí?
– Dạ! Báo cáo anh Ba, đi nhanh hai tiếng. Chậm hai tiếng rưỡi! Dạ…bây giờ có cần chi…xin chỉ thị anh Ba?
Anh cán bộ đại đội, đứng nghiêm chờ đợi. Ba Đình ngồi trên võng xích nhè nhẹ, nghiêng đầu suy nghĩ một lúc. Đoạn trả lời
– Thôi, không có gì! Có gì tôi chỉ thị sau. Bây giờ…cà-phê cho tỉnh người đã! Bốn giờ lên đường!
– Dạ, báo cáo anh Ba…dạ…
– Gì đồng chí? – Ba Đình quay mặt lại gắt.
– Dạ…dạ…sợ trễ…anh Ba
Ba Đình khó chịu:
– Tôi đã bảo pha cà-phê! Trễ cái gì? Xong chừng nào đi chừng đó!
– Dạ!
Anh cán bộ đại đội đưa tay lên ngang mày chào thật nhanh đoạn lui ra.
Trong nhà, tôi nghe tiếng tập họp, điểm số, và «sinh hoạt phổ biến tình hình» từ phía ngoài vọng vào. Cà-phê đã pha xong. Anh cần vụ mang để lên bàn. Ba Đình rời võng bước đến. Và anh cần vụ tiến lại, nhanh nhẹn lo tháo gỡ mùng, cuốn võng cho vào bồng của anh ta.