← Quay lại trang sách

Chương XVI BỘ CHỈ HUY BA CỤC

Khi gần đến Phòng Thường Trực, tôi nghe danh từ «BỘ CHỈ HUY BA CỤC» trên cửa miệng của anh cán bộ trung đội nói ra.

Danh từ này thật mới lạ, tôi chưa nghe lần nào trong suốt 2 năm qua ở khu A. Anh ta giải thích cho tôi biết Bộ Chỉ huy Ba Cục hay Bộ Chỉ huy R đều là «Bộ Chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang và bán vũ trang» Miền Nam.

Ở các vùng xa, các nơi, các tỉnh gọi đây là Rờ (R) hay Bộ Chỉ huy R. Họ không biết danh từ Bộ Chỉ huy Ba Cục. Nhưng khi về đến Tây Bắc, đến đây, các đơn vị trực thuộc của R thì lại gọi là Bộ Chỉ huy Ba Cục. Nó có tính cách xử dụng trong phạm vi nội bộ.

BA CỤC, bởi R chỉ mới thành lập có ba Cục: Cục Tham Mưu, Cục Chính Trị, Cục Hậu Cần. Và Ba Cục đều đóng chung nhau trong một căn cứ, chiếm một vùng rừng rộng nằm giữa lộ Bổ Túc-Kàtum và biên giới Miền, giáp ranh với tỉnh Mimot, chiếm hàng chục cây số vuông dọc theo suối Nước Trong.

Để bảo vệ R, E70 tức trung đoàn 70 chia nhau đóng chung quanh căn cứ, cảnh giới thường xuyên và ba cổng gác trước khi đến Phòng Thường Trực.

Đến cổng gác thứ nhất, cả đoàn dừng lại nghỉ mười phút. Tôi vừa lột bồng ngồi xuống ven đường thì từ trước cậu chiến sĩ cần vụ của Ba Đình chạy lại gọi tôi:

– Báo cáo anh, anh Ba cho gọi anh!

– Có chuyện gì đó cậu? – Tôi hỏi.

– Dạ…em không biết!

Tôi lại đứng dậy, xách bồng bước thất thểu về trước. Ba Đình đang ngồi trên một gốc cây mục, nhịp nhịp gậy nhìn tôi đi tới. Tôi lên tiếng:

– Dạ…thưa anh Ba cho gọi tôi?

– Ừ! Đồng chí ngồi đây.

Tôi ngồi xuống. Ba Đình nói khẽ vừa đủ cho tôi nghe

– Gọi đồng chí lên đây để chốc nữa đồng chí theo tôi với tiểu đội vệ binh đi vào Phòng Thường Trực. Còn đại đội theo bảo vệ mình từ khu A, các đồng chí ấy dừng quân ở lại đây. Họ không được vào.

Nhìn tôi ngơ ngác. Ba Đình giải thích:

– Cái đó thuộc về vấn đề nguyên tắc tổ chức.

Sự giải thích của Ba Đình càng làm cho tôi ngơ ngác thêm, tôi mù thêm. Nguyên tắc tổ chức là thế nào? Nhưng yêu cầu Ba Đình giải thích thêm, điều đó không thể được. Tôi đâu dám yêu cầu!

Mười phút sau, tiểu đội vệ binh. Ba Đình và tôi bắt đầu theo đường mòn tiến vào cổng gác thứ hai. Một tổ tam tam ngồi tán hươu tán vượn với nhau thấy Ba Đình đến, vội đứng dậy chào. Thì ra, có lẽ lính ở đây, hầu hết đều biết mặt Ba Đình. Cho nên, vừa thấy mặt, cậu nào cũng đâm ra khép nép.

Qua hết lần cổng gác thứ 3 và hàng rào chiến đấu, mấy gian nhà tranh án ngữ ngang đường hiện ra Trong nhà đầu tiên, ba bốn người đang quay quần uống trà quanh một chiếc bàn con cười khề khà với nhau. Chợt một người nhìn ra:

– Kìa, anh Ba về tới kìa!

Mọi người lật đật đứng dậy, bước ra khỏi bàn. Tôi nhận ra Cường. Và Cường bước vội tới:

– Dạ, chào anh Ba! Anh Ba mới về tới, anh Ba mạnh giỏi anh Ba?

Ba Đình lật nón, cười thành tiếng:

– Vậy chứ không mạnh làm sao về tới đây, đồng chí Cường. Đang mỏi chân và thèm trà đây.

– Dạ, báo cáo anh Ba, cái gì chớ trà thì sẵn lắm.

– Tốt!

Cường nhìn tôi:

– Có anh Hùng nữa nè! Mạnh giỏi chớ anh?

Tôi cũng cười vui vẻ:

– Còn anh? Không ngờ mình lại gặp nhau ở đây. Trong anh có vẻ phát tướng lắm rồi đó.

Chúng tôi bắt tay nhau, đi song song theo Ba Đình vào nhà. Ba Đình liệng nón lên bàn, cởi phăng cúc áo phanh ngực.

– Đâu! Trà đâu! Mấy cậu làm một nồi thực ngon coi.

Anh cán bộ vừa bắt tay anh Ba Đình xong, đứng ở sau lưng nháy mắt với người đứng cạnh. Anh kia gãi tai, thập thò bước ra trước mặt Ba Đình

– Dạ, báo cáo với anh ba có trà Lý tông Ích…

Mắt Ba Đình sáng lên, chăm chú nhìn:

– Hả? Lý tông Ích hả? Chà, đâu vậy?

– Dạ, báo cáo anh Ba, vừa mới có một hộp nửa cân, do anh Cường mang tới nhưng….

Quay nhanh sang Cường, Ba Đình gật gật nhẹ đầu:

– Cường! Đâu vậy Cường? Mấy cậu chơi sang hơn Bộ Chỉ huy rồi.

Cường đáp nhanh:

– Dạ đâu có anh Ba! Dạ, của Bộ Chỉ huy đó!

– Ủa, của Bộ Chỉ huy sao ở đây?

– Dạ, theo lệnh của anh Chín Phó Chính Uỷ, anh Năm Hoà bảo tôi đi Tà Băng kiếm về để đãi khách. Tôi mới đem đến cho các đồng chí ở Phòng Thường Trực một hộp.

– Khách nào?

– Dạ, đoàn Điện Ảnh Tân Hoa!

– À!…

Cường xum xoe:

– Dạ, để tôi lấy hộp trà anh Ba xem. Cũng may là cánh hợp tác xã mậu dịch của anh Trường Sơn còn được một hộp nếu không chắc còn phải chờ cho người đi Nam Vang mua về.

– Gian nan ha!

Cường đi lại với tay lên kệ để quần áo sát mái nhà, đem xuống một hộp thiếc tròn, dài, sơn đỏ, in chữ bạc trông rất đẹp mắt và cũng rất «Tàu» đưa cho Ba Đình:

– Dạ, đây anh Ba!

Ba Đình cầm lấy, thảy nhẹ trên tay. Cường tiếp:

– Dạ, lệnh của anh Chín bảo lấy để tại đây một hộp phòng hờ mỗi khi có phái đoàn ghé lại bất ngờ thì pha khách uống. Dạ, nghe mấy anh bảo đây là loại trà Tàu ngon nhất của Đài Loan. Ngon gấp mấy lần chè Phú Thọ loại một của ta ở miền Bắc.

– Ừ thứ này trứ danh lắm. Nhưng loại này cũng có nhiều hạng, nhiều thứ hoa ướp khác nhau. Hộp này ít ra cũng hai ngàn rưỡi bạc!

Cường cười theo kiểu «cầu tài»:

– Hì…hì! Dạ khui ra nghe anh Ba? Khui ra lấy một nồi, pha phục vụ anh Ba. Dạ, anh Ba đang mệt uống một nồi này, khoẻ liền.

Ba Đình đổi giọng, yếu hẳn đi «

– Chà! Của khách mà! Cậu đừng có xúi bậy tôi chứ cậu!

– Dạ, cả nửa…cân trà, cả hộp, một nồi có là bao anh Ba. Tiên chủ hậu khách mà. Mấy đồng chí Trung Quốc biết uống, mình cũng biết uống vậy chớ anh Ba.

– Cậu ăn nói bậy quá cậu!

– Dạ, may gặp anh Ba…pha cho anh Ba một nồi. Sẵn dịp anh Ba cho tụi này nếm thử coi nó ra sao mà quý quá vậy. Hì…hì. Dạ có thử qua một lần, sau này có hy sinh ngoài mặt trận cũng không ân hận là chưa biết cái mùi Lý tông Ích nó ra sao…

Cường lém thật. Mọi người không ai nhịn được cười, nhưng trước mặt Ba Đình cũng không ai dám cười ra tiếng. Cứ sùng sục, hích hích, lấy chỏ thúc vào nhau.

Ba Đình liếc nhìn mọi người, bật cười thành tiếng, vui vẻ, cởi mở, thân mật làm sao:

– Cậu quá lắm nghe Cường. Thôi! Được, khui ra đi. Lấy một nồi, cho mỗi cậu nếm qua một chút cho biết với người ta.

– Dạ, cảm ơn anh Ba!

Cường hí hửng, nhanh nhẩu rút dao găm, đón lấy hộp khui lớp chì hàn. Một cán bộ khác lấy bình trà trên bàn đi ra sân đổ xác cũ. Lại thêm một người rinh bộ chung trà và cái phích đựng nước sôi đi sang bên phía nhà bếp lấy nước chùi rửa lại. Bỗng nhiên cái hộp trà làm không khí rộn rịp vui vẻ thêm ra.

Cái tên trà Lý tông Ích này tôi mới nghe đến lần đầu. Không hiểu nó ngon đến mức nào, nó thơm tho ra sao mà xem bộ ai cũng «ngưỡng mộ» quá cỡ như vậy. Những tên ù lì, dốt nát về trà như tôi, dĩ nhiên không tài nào hiểu nổi, cũng không đủ «tư cách» nói chuyện về trà.

Kể ra, theo lời Ba Đình vừa nói, chỉ nửa cân trà mà ít lắm hai ngàn rưỡi bạc. Đắt thật. Nó đắt về cái khoản nào nhỉ? Không biết nó có được mấy «chú Ba» dựng lên một huyền thoại nào theo kiểu như «hầu trà» «trảm mã trà» cho nó không? Tôi nghĩ sau này có dịp nào gặp mấy chú Ba Chợ lớn, thế nào tôi cũng hỏi thử xem cái thứ trà Lý tông Ích nó ra sao? Cái gì chứ Cholon thì thừa «tư cách» lắm.

Ở khía cạnh khác, nếu xét về «tư cách» uống trà, ở chiến khu này có lẽ chỉ có Bộ Chỉ huy là đủ «tư cách» thôi. Kỳ dư cán bộ lớn bé nào cũng không dám mơ ước đến nó. Bởi nó đắt quá, không ai làm sao có đủ điều kiện để mua. Dù cho có đủ đi nữa cũng không có gan dùng. Dùng để bị kiểm thảo nhận xét là hoang phí, có tư tưởng hưởng thụ hưởng lạc, thiếu ý thức gian khổ và nêu gương xấu cho cách mạng, bố ai dám dùng!

Bây giờ, Bộ Chỉ huy ra lệnh mua trà Lý tông Ích để phục vụ cho đoàn điện ảnh Tân Hoa. Tân Hoa là đoàn điện ảnh của ai đây? Trung Quốc chăng? Có thể lắm! Cái tên đặc sệt mùi Trung Quốc rồi. Nhưng đoàn điện ảnh mà được chú ý phục vụ thế này…Thợ chụp hình, thợ quay phim của Trung Quốc, sướng thật, «tư cách» thật! «Tư cách» như những Tướng lãnh cao cấp Việt Nam!

Hộp trà khui xong thì phích nước sôi cũng được mang đến. Bộ bình trà «chuẩn bị» đã xong. Cường đưa hộp trà lên mũi ngửi, hít hít mấy cái:

– Thơm quá anh Ba! Thơm thiệt! Nhưng không biết so với chè hoa nhài Phú Thọ loại một của ta nó ra sao, anh Ba?

Ba Đình ung dung theo dõi Cường nãy giờ, nhướng mắt:

– Hơn chứ cậu! Hơn xa!

Cường trịnh trọng đổ nước sôi tráng bình, tráng chén, xong, nhóm lấy từng dúm trà nhỏ bỏ vào bình. Cử chỉ thận trọng kiểu cách của Cường, tôi thấy sốt ruột ghê. Mấy thằng cha uống trà…«ngứa mắt» làm sao ấy!

Ba Đình cũng sốt ruột:

– Thôi cậu, nhanh lên! Trông cậu làm sốt ruột quá. Uống được ngụm trà của cậu pha, đế quốc Mỹ nó về nước từ đời tám hoánh nào.

Cường cười hì hì:

– Dạ, báo cáo anh Ba! Làm vầy mới đúng sách anh Ba!

– Thôi, cậu! Mai mốt cậu có pha trà cho các đồng chí Trung quốc, nhớ đừng có kiểu cọ thế này. Đâm phiền ra.

À! Tôi nghĩ thế mà đúng. Đoàn điện ảnh Tân Hoa là đoàn điện ảnh từ Trung quốc sang. Cái thế giới này, được làm dân Tàu là đệ nhất thiên hạ rồi.

Cường nghiêng bình, chắt hết nước trà pha lần thứ nhất ra. Một cái ca lớn, đoạn chế nước vào lần thứ hai. Ba Đình với tay lấy ca sang qua mấy chèn chung nhỏ.

Cường đưa tay ra giữ:

– Dạ báo cáo anh Ba, nước này là nước rửa trà. Không ngon lành gì đâu, anh Ba. Xin anh Ba chờ một chút, uống nước hai…

Ba Đình có vẻ cáu:

– Dẹp cậu đi! Không có nước một, nước hai gì hết. Khát nước cháy cổ mà cậu cứ ở đó kiểu cọ…Chướng quá!

Cường rụt tay về, nụ cười tắt mất, tỏ vẻ hơi khớp. Ba Đình chẳng nói chẳng rằng, tiếp tục sang ra chung nhỏ, vừa thổi vừa uống không ngừng. Mọi người chung quanh im phăng phắc, chẳng ai dám thở mạnh.

Do đó, sau khi uống đến trà trắng nhách, không biết nước thứ mấy nữa, chẳng có ai mở miệng bình phẩm lấy một câu. Tướng đã nổi nóng thì cấp dưới đừng có dại ba hoa xích thố, thêm khổ.

Còn tôi, không thuộc loại sành trà, thích trà nên từ lúc đầu đứng dựa gốc cột ở hàng hiên, tôi lôi bình ton nước chín ra «ực» đã đợi, no bụng. Chẳng màng đến cái thứ Lý tông Ích Đài Loan, tôi không «tham gia» thành ra không hiểu hương vị nó ngọt bùi ra sao.

Tôi nhìn mặt Cường như cái bánh bao bán ế chảy dài, trông buồn cười hết sức. Cái anh chàng này vốn vui tính, hay nói, hay đùa, anh ta mà không được nói, không được đìa, thực không gì khổ cho anh ta hơn. Giá không bị Ba Đình mắng, thế nào khi bưng chung trà lên uống anh ta cũng «làm» một câu tương tự:

– Xin phép các đồng chí Trung quốc vĩ đại, mỗ vô phép làm trước một chung! Tiên chủ hậu khách mà!

Chợt Ba Đình quay sang anh cán bộ ngồi kế bên Cường:

– Anh Ba Long có ở nhà chứ, đồng chí?

Anh ta khép nép thưa:

– Dạ, báo cáo anh Ba, em không rõ ạ. Nhưng chắc anh Ba Long không đi đâu đâu. Nếu có, khi đi ngang Phòng Thường Trực này em biết ngay.

Ba Đình với tay lên bàn, giở ống điện thoại để ở góc, quay rè rè:

– Alo! Alo!…Dạ anh Ba hả anh Ba?… Dạ, báo cáo anh Ba, Đình đây!… Tôi mới về tới Phòng Thường Trực. Ở nhà vẫn khỏe chứ anh Ba…Dạ, có gì lạ không anh Ba?…Dạ, chút nữa tôi về tới. Dạ cũng có ít quà Tiền Phương mang về biếu anh Ba và mấy anh…Dạ, thêm vấn đề nữa là trường hợp đồng chí Vũ Hùng.. Đồng chí ấy cũng hiện có mặt ở đây. Dạ mình tạm thời để đồng chí ấy Phòng Thường Trực rồi giải quyết sau hay cùng đi với tôi về trong ấy?…Dạ….

Ba Long là ai vậy cà? Qua giọng nói và lời lẽ của Ba Đình, hẳn Ba Long phải là một nhân vật quan trọng cấp trên của Ba Đình nữa. Và, không biết người ta đã định đoạt số phận tôi ra sao? Tôi hết sức băn khoăn chờ đợi.

Uống thêm một chung nước. Ba Đình ra lệnh cho anh cán bộ Phòng Thường Trực:

– Đồng chí mang đến đây cho tôi bốn chiếc xe đạp.

– Dạ! Ngay bây giờ hả anh Ba?

– Ừ! Tôi với anh Hùng và hai đồng chí cần vụ của tôi về ngay MỘT BẢY BA CHÍN (1739).

Anh cán bộ đứng dậy, nài nỉ

– Dạ, bây giờ cũng chiều rồi. Hơn 5 giờ rồi, chắc anh Ba cũng đói. Dạ, nếu không gấp, xin mời anh Ba ở lại dùng cơm rồi hãy đi về trong ấy. Gần mà anh Ba.

Ba Đình cười nụ

– Sao? Các đồng chí có tiết mục gì lạ lắm sao?

– Dạ, báo cáo anh Ba, tụi này vừa bắn được một con công, chắc cũng hơn mười cân. Hiện đang làm dưới bếp.

– Chà! Nhưng sợ tối…

– Dạ, đây về đó chừng mười lăm phút. Xe có đèn, tốt mà anh ba…! Hổng mấy thuở tụi này mời anh Ba.

Ba Đình liếm môi lưỡng lự. Anh ta tiếp thêm:

– Vậy là anh Ba đồng ý rồi. Dạ, để em làm mấy món này, anh Ba ăn sẽ nhớ hoài…

– Món gì mà cậu quảng cáo dữ vậy cậu?

– Dạ cái món gỏi lá bứa với nem nướng, nhậu thú lắm anh Ba.

Anh cán bộ chạy đi.

Ba Đình ra lệnh cho tôi và hai đồng chí cần vụ:

– Thôi, các đồng chí nghỉ! Ăn cơm xong cái đã!

Một cậu cần vụ loay hoay tháo bồng, lấy võng giăng cho Ba Đình nằm nghỉ. Tôi hấp háy mắt, hất hàm ra hiệu cho Cường theo tôi ra góc sân. Tôi vừa tháo võng mắc vào hai cành cây ngành ngạnh vừa hỏi Cường:

– Võng anh để đâu? Xách võng ra đây giăng, tụi mình nói chuyện chơi cho vui!

– Ừ! Bỏ trong nhà. Chờ chút!

Cường vào nhà xách võng ra, giăng kế bên tôi. Vài câu chuyện theo kiểu trời mưa, trời nắng, tôi hỏi Cường:

– Bộ anh mới đi mua trà Lý tông Ích ở đâu về đó hả?

– Ừ! Về tới đây trước anh chừng nửa giờ. Mua ở hợp tác xã mậu dịch biên giới ở Tà Băng?

– Đoàn điện ảnh Tân Hoa của Trung quốc chắc mới từ bên Nam Vang vượt biên giới qua đây chứ gì, phải không anh?

Cường đang nằm, nhỏm đầu dậy, ngoài ra khỏi võng về phía tôi. Anh ta thì thầm ra vẻ quan trọng:

– Không phải đâu, từ Hà Nội, theo đường giây Xã Hội Chủ Nghĩa vào đó. Nói là đoàn điện ảnh chứ toàn là tướng tá không đó, ông! Đoàn điện ảnh Tân Hoa chỉ là một cái tên ngụy trang

– Ủa, nói vậy…

– Ừ! Phái đoàn cố vấn quân sự của quân giải phóng Trung quốc đến nghiên cứu chiến trường miền Nam mình, rút kinh nghiệm về chiến thuật chiến lược đó. Trưởng phái đoàn là đồng chí Trần Hoa. Theo lời anh Chín Vinh phó Chính ủy giới thiệu trong buổi tiếp tân hạn chế, chào mừng phái đoàn tại Hội trường Cục Chính Trị thì đồng chí Trần Hoa là thiếu tướng. Còn theo lời tiết lộ của anh Hùng thông dịch viên của phái đoàn theo phục vụ từ miền Bắc vào đây thì bảo cấp bậc đồng chí Trần Hoa là Trung tướng.

– Phái đoàn chắc đâu chừng hai ba ngươi chứ gì?

– Không! Tất cả là chín người. Ngộ một cái là tất cả chín người đều họ Trần.

Tôi cười:

– Trần ở đâu mà lắm thế? Chắc lại ngụy trang nữa thôi?

– Chắc vậy! Nào là Trần Hoa, Trần Quang, Trần Quý, Trần Hòa, Trần Quảng….cả đống Trần. Trong đoàn có một đồng chí trẻ nhất, đẹp trai, cốt-xì-tô là mang cấp bậc thấp nhất: đại úy. Đồng chí đó vừa là cận vệ riêng vừa là bí thư của đồng chí Trần Hoa.

– Nhưng dưới tên Đoàn điện ảnh Tân Hoa, họ có mang theo máy quay phim, máy chụp ảnh gì không? Chẳng lẽ ngụy trang là đoàn điện ảnh mà không có máy móc gì, nó lộ bí mật cha đi rồi.

Cường lõ mắt:

– Bậy nè! Có chớ! Chẳng những mang theo bốn năm cái camera, rồi mỗi người thêm một máy chụp ảnh còn cả một trung đội đi theo mang đủ thứ máy móc dụng cụ vật liệu. Thùng lớn, thùng nhỏ đủ hết. Ấy là chưa kể cái chuyện quay phim thật sự suốt trên quãng đường từ Khu 5 vào đây. Đâu có thua gì điện ảnh nhà nghề.

Tôi lấy làm lạ về hình thức ngụy trang. Hết cách ngụy trang rồi sao? Chọn chi cái hình thức chuyên môn rắc rối đó thêm cực ra. Tôi hỏi Cường thì Cường giải thích, theo lời tiết lộ của anh thông dịch viên tên Hùng cho biết việc này đã được Đảng Cộng sản và quân đội Trung quốc tính toán kỹ lưỡng với những yếu tố như sau:

Việc quay phim, ngụy trang là mục phụ. Mục chính yếu là Trung quốc có được những phim tài liệu trung thực về du kích chiến, về những trận đánh tại chiến trường, về đời sống, sinh hoạt của các cơ cấu tổ chức điều hành, tinh thần vật chất của giải phóng quân miền Nam.

Mặt khác, phái đoàn Trung quốc còn chụp ảnh được toàn bộ hình thái chiến tranh xảy ra tại đây, những phương tiện chiến tranh hiện đại, kỹ thuật tác chiến chính qui của «đế quốc Mỹ» cũng như những tài liệu, dụng cụ v.v…

Nhờ đó, công tác điều nghiên chiến lược, chiến thuật sao cho phù hợp với tư tưởng, lý thuyết «chiến tranh nhân dân» của đồng chí «Mao Trạch Đông vĩ đại», nâng cao đường lối «chiến tranh nhân dân» lên mức tuyệt đỉnh, chỉ có thắng và đại thắng. Đồng chí Mao bảo thế, quả quyết như thế.

Vì vậy, phương tiện phim ảnh là phương tiện nghiên cứu chính xác, cần thiết. Nó còn giúp cho «giải phóng quân Trung quốc», cho những chiến lược gia ở Bắc Kinh và cả đồng chí chủ tịch Mao Trạch Đông nữa. Phim sẽ được gửi về Trung quốc nghiên cứu thêm.

Ấy là chưa kể những cuốn phim quay được sẽ in ra nhiều bản, gửi đi khắp thế giới làm tài liệu tuyên truyền vô cùng hữu hiệu, lợi ích vô song. «Bọn đế quốc» sẽ thua chúng ta, thua xã hội chủ nghĩa, phần lớn nhờ vào công tác tuyên truyền.

Cho nên, để đạt được «nhất cử tam tứ lợi» phái đoàn cố vấn quân sự Trung quốc trước khi được cử đi sang nghiên cứu chiến trường Nam Việt Nam, mọi người trong phái đoàn đều trải qua một lớp huấn luyện đặc biệt về kỹ thuật điện ảnh, đạt đến trình độ chuyên viên.

Phái đoàn cố vấn quân sự Trung quốc lên đường sang Hà Nội từ sau lễ Quốc Khánh tháng mười năm 1963, mang theo sứ mạng của Đảng cộng sản Trung quốc và đồng chí «Mao chủ tịch vĩ đại»

Tại Hà Nội, phái đoàn được Hồ chủ tịch tiếp kiến, Uỷ ban Thường vụ Trung Ương Đảng Lao Động thảo luận công tác và sau cùng là Tổng Quân ủy toàn quân miền Bắc bố trí thực hiện chuyến đi Nam chịu trách nhiệm bảo vệ sức khỏe, an ninh và mọi nhu cầu cần thiết khác.

Theo chân phái đoàn có ba thông dịch viên do Trung ương Đảng chỉ định, hai bác sĩ, ba y tá, một đại úy An ninh và một Trung đội Bảo vệ thiện chiến. Chưa kể trên đường đi, mỗi khi sắp đến địa phương nào ở đó được báo trước, chuẩn bị tiếp rước, đưa đón và tập trung lực lượng quân sự để bảo vệ, đãi đằng, ăn uống chu đáo v.v…

Vì là một cuộc nghiên cứu, quan sát, cố vấn kỹ thuật cho toàn chiến trường miền Nam, nên phái đoàn không đi theo hệ thống đường dây Xã Hội Chủ Nghĩa, cũng không có lịch trình nhất định. Sau khi vượt Bến Hải phái đoàn dừng lại ở Quảng Trị. Hết Quảng Trị đến Thừa Thiên v.v… Tỉnh nào cũng được phái đoàn chiếu cố đến nghiên cứu tỉ mỉ, quay phim, quay phiết đàng hoàng, tà tà vào cho đến sông Đồng Nai.

Do đó, phải đến gần mười tám tháng sau, đoàn «Điện ảnh Tân Hoa» mới đặt chân đến Bộ Chỉ huy Ba Cục. Nghỉ ngơi, bồi dưỡng, hội họp tại Bộ Chỉ huy Ba Cục hơn mười ngày sau, bất thần, phái đoàn lại khăn gói lên đường lộn ngược trở về khu A đi «nghiên cứu» đường 20 và các khu vực trọng yếu thuộc tỉnh Biên Hoà.

Trong buổi tiếp cận hạn chế tại hội trường Cục Chính Trị dưới sự chủ toạ của đồng chí Sáu Vi, tức đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trưởng phái đoàn Trần Hoa đã tuyên bố:

…Nhân danh hai Đảng, chúng tôi xin gởi đến các đồng chí lời thăm hỏi nồng nàn nhất…

Ở phần khác, Trần Hoa xác định:

…Nhận nhiệm vụ của hai Đảng giao cho chúng tôi đến đây với các đồng chí, ước mong được đóng góp với các đồng chí và cuộc cách mạng thần thánh của nhân dân miền Nam một phần nhỏ kinh nghiệm chiến tranh nhân dân của «T Chung cùa tơ Jền mĩng chie-phang chuýn túi» (giải phóng quân nhân dân Trung quốc)…

Lời tuyên bố, xác định nhiệm vụ của Trần Hoa nảy lửa «xanh dờn». Hai đảng tức là Đảng Cộng sản Trung quốc và Đảng Lao Động Việt Nam. Hết sức rõ ràng…

Sau khi tiết lộ cho tôi biết những chi tiết tối mật trên, Cường kết luận:

– Bây giờ phái đoàn còn công tác đâu ở bên khu A. Vậy mà ở đây, anh Chín Vinh đã chỉ thị cho anh Năm Hoà bắt tôi đi Tà Băng mua sẵn trà Lý tông Ích để ở Phòng Thường Trực này phòng hờ thì anh đủ biết tính cách quan trọng nó ra sao?

Cường ngã đầu xuống võng cười khúc khích

– Kể ra cũng khoái! Công mình đi cực khổ, về đến đây nhờ có anh Ba Đình nên được hưởng trước một nồi, kể cùng cha thiên hạ thiệt. Nhưng anh Ba ảnh làm mình tối tăm mặt mũi, mất hết tinh thần có còn thưởng thức được mẹ gì cái hương vị Lý tông Ích đâu.

– Vậy anh uống để làm chi mà anh hổng biết?

– Bởi vậy mới nói? Anh nghĩ, vừa uống, vừa tức, vừa run thì biết gì?

Tôi cười phá lên làm Cường cũng cười theo.

Nghe Cường nói đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh tôi càng ngạc nhiên, tò mò thêm, nôn nao thêm. Suốt bao nhiêu năm trời qua, riêng tôi, tôi chưa hề nghe nói đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh lần nào. Tôi chỉ được biết ở miền Bắc có mỗi mình đại tướng Võ Nguyên Giáp, suốt từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Bây giờ sao lại có một đại tướng nữa? đại tướng Nguyễn Chí Thanh là nhân vật như thế nào? Cái tên lạ hoắc, không quen.

Trong những ngày về công tác ở Bộ Chỉ huy Tiền Phương từ tháng ba 1965 vừa qua, tôi đã được nghe Cường và những anh em khách kể chuyện R, chuyện Bộ Chỉ huy, chuyện những anh lớn. Nào anh Tư Chi, anh Ba Trần, anh Sáu Vi, anh Chín Vinh, anh Ba Long, chị Ba Định v.v…nhiều lắm. Nhưng trong số những người ấy tôi chỉ nghe quen và biết mỗi một mình chị Ba Định từ hồi kháng chiến chống Pháp.

Ngoài ra, trong số những «anh lớn» kể tên, tôi chưa hề biết một ai. Những cái tên nghe lạ. Hẳn nhiên những tên này chỉ là những tên ngụy trang. Còn tên thật, tôi không tiện hỏi. Hỏi thì sợ người ta cho là tò mò. Mà không hỏi thì chẳng ai bao giờ tiết lộ những gì mình biết, trái với nguyên tắc phòng gian bảo mật.

Bây giờ, đã về đến Bộ Chỉ huy R rồi, tôi không thể không hỏi Cường để biết những «anh lớn» và nề nếp sinh hoạt ở đây.

Tôi mở đầu bằng chuyện «nguyên tắc», «điều lệnh» ra vào Bộ Chỉ huy:

– Anh Cường, lúc nãy anh Ba nói về nguyên tắc ra vào khu vực Bộ Chỉ huy, tôi nghe sao khó khăn quá vậy anh?

– Chuyện đó là chuyện tự nhiên, có gì đâu mà khó!

– Không khó nhưng không phải ai muốn vào cũng được.

– Đúng! Bộ Chỉ huy quy định rằng, chỉ có cán bộ D trở lên, tức từ cấp thượng uý trở lên mới được qua khỏi ngưỡng cửa Phòng Thường Trực vào các Cục để giải quyết công việc.

– Còn những cán bộ thấp hơn họ không được vào, dù họ đến một Phòng, một Ban nào đó của một Cục để giải quyết công việc cũng vậy?

– Chớ sao! Quy chế quân đội là vậy. Ngay những năm tôi còn ở Hà Nội, Bộ Tổng áp dụng triệt để quy chế đó Bộ Tổng giải thích rằng, những cán bộ sơ cấp, không có việc gì phải cần vào để giải quyết hết. Bởi cán bộ sơ cấp không bao giờ đảm nhận những trách vụ quan trọng đến nỗi phải liên hệ đến những bộ phận chuyên môn của Bộ Tổng Tư Lệnh. Ở cấp thấp, phải theo hệ thống quân giai chớ!

– Bây giờ ở đây cũng áp dụng quy chế đó?

– Đây cũng là Bộ Tổng của miền Nam! Cũng chính quy như miền Bắc. Phải noi theo truyền thống chớ anh!

Tôi vẫn thắc mắc:

– Như vậy, giả dụ như có một đại đội trưởng nào đó, thuộc đơn vị trực thuộc của Cục Tham Mưu chẳng hạn, đóng ở nơi khác trở về Cục để báo cáo một công tác quan trọng đồng chí ấy cũng bị giữ lại ở Phòng Thường Trực, không cho vào?

– Tùy! Nguyên tắc thì không được. Thông thường, Cục Tham Mưu sẽ cử người ra Phòng Thường Trực tiếp xúc, làm việc tại đây. Khi nào vấn đề vô cùng quan trọng, cán bộ Cục không giải quyết được mới báo cáo vô trong, ở trong cho phép mới được vào.

– Găng ha! Tôi cười.

Cường cũng cười. Tôi nhớ đến «anh Ba» mà Ba Đình vừa điện thoại, liên lạc ban nãy. Ba Đình thuộc cán bộ cao cấp một tướng lãnh của Cục Tham Mưu, chắc «anh Ba» kia là người lãnh đạo, điều khiển Cục Tham Mưu.

Tôi hỏi Cường:

– Còn anh Ba Long là ai vậy anh?

Cường nhìn tôi trân trân

– Anh không biết thiệt sao?

– Mấy năm nay ở bên khu A có ai nói gì đâu mà biết!

– Chủ nhiệm Cục Tham Mưu R đó! Anh Ba Long tức là Trung tướng Lê Trọng Tấn. Trước năm 1954 là sư trưởng Sư đoàn 312. Sau này là Hiệu trưởng trường Lục quân Trung Cao.

– Còn anh Chín Vinh phó Chính ủy?

– Là Trung tướng Trần Độ, cựu Chính ủy Sư đoàn 312 và Chính ủy quân khu Hữu Ngạn. Vào đây lấy tên mới là Trần Quốc Vinh. Ảnh thứ 9 nên anh em đều gọi là anh chín Vinh.

– Nhưng sao còn gọi là anh Phó Chính ủy?

– Ừ, thì anh Chín Vinh là Phó Chính ủy Quân ủy Miền, kiêm chủ nhiệm Cục Chính Trị R.

Tôi làm ra vẻ hiểu biết, nói về một nhân vật khác:

– Vậy ra Trung tướng Trần văn Trà tức là ủy viên quân sự của Mặt Trận dưới cái tên ngụy trang Trần Nam Trung vừa làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy R vừa kiêm nhiệm luôn Chính ủy Quân ủy Miền.

Cường nhếch mép cười nụ, giọng ỡm ờ:

– Ai nói với anh như vậy

– Thì anh em người ta nói!

– Bậy rồi ông ơi! Trật hết. Ông nên nhớ, Trần Nam Trung và Trung tướng Trần văn Trà là hai nhân vật khác nhau. Trần Nam Trung tức Trung tướng Trần Lương, ở một bảy ba chín (1739) đều gọi là anh Ba Trần.

Còn Trung tướng Trần văn Trà, tên mới bây giờ là anh Tư Chi. Và Trung tướng Trà cũng không phải Chính ủy Quân ủy đâu.

Tôi đâm ra ngỡ ngàng, chưng hửng. Tôi đã hiểu sai. Càng nghe thêm, tôi thấy cái hiểu biết của tôi chẳng có gì cả! Tôi gần như không biết gì hết.

Tôi chợt khám phá ra rằng như vậy, cuộc chiến tranh tại miền Nam hôm nay, gần như Trung ương Đảng đã động viên hầu hết các tướng lãnh nổi danh miền Bắc đưa vào điều khiển, chỉ huy về quân sự.

Chân ướt, chân ráo tôi mới về đây, nghe sơ sơ đã ngần ấy tướng lãnh rồi, còn ở chiến trường Khu 5, Khu 6, chiến trường miền Tây, miền Trung Nam bộ nửa chi. Có lẽ ít ra cũng có đến mười lăm tướng lãnh là ít.

Tôi nghe đến tên đại tướng Nguyễn Chí Thanh, tôi không hiểu ngày nay miền Bắc có còn đại tướng nào ngoài đại tướng Võ Nguyên Giáp nữa hay không? Tôi lại tò mò:

– Anh Cường nè! ở miền Bắc mình ngày nay chắc mới có 2 đại tướng. Một là đại tướng…

Cường ngắt lời tôi ;

– Chắc với không chắc gì nữa. Ông thiệt không biết gì hết. Ai ai cũng đều biết rằng quân đội miền Bắc ta chỉ có hai đại tướng thôi, đại tướng Nguyễn Chí Thanh ngày nay còn lớn hơn đại tướng Võ Nguyên Giáp nữa.

Tôi ngơ ngác

– Ủa! Tôi có biết gì đâu. Hồi 9 năm kháng chiến, chỉ có mỗi một mình đại tướng Võ Nguyên Giáp. Uy danh đại tướng Võ nổi như cồn. Còn Nguyễn Chí Thanh tôi có nghe đến bao giờ đâu.

– Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới thụ phong đại tướng trong đợt phong quân hàm toàn quân năm 1958 thôi. Nhưng đại tướng Nguyễn Chí Thanh mới thực sự là người lãnh đạo quân đội, bởi vì đại tướng Nguyễn Chí Thanh là đại tướng chính trị Chính ủy toàn quân, bí thư Tổng Quân ủy. Về cấp bậc Đảng, vừa là Bí thư trong Ban Bí Thư Trung ương Đảng đặc trách về thanh niên và nông dân, vừa là ủy viên Bộ Chính trị. Sau cuộc cải cách ruộng đất, chính sách cũng như vấn đề lãnh đạo của Trường Chinh bị sai lầm, bị kiểm thảo, rồi Trường Chinh bị mất chức vụ Tổng Bí Thư, nhường cho anh Ba Duẫn. Nhưng trong khi đó, đại tướng Nguyễn Chí Thanh lãnh đạo quân đội thực hiện chính sách cải cách ruộng đất lại rất đúng đường lối. Nơi nào có quân đội tham gia thì nơi đó hết sức toàn hảo, thành công vượt bực. Do đó mà sau phong trào phóng tay cải cách ruộng đất, uy tín của đại tướng Nguyễn Chí Thanh đột nhiên tăng lên vùn vụt. Trung ương Đảng đánh giá Nguyễn Chí Thanh còn vượt hơn cả Trường Chinh thì anh đủ biết. Nếu kể về ngôi thứ thì trên hết là Hồ chủ tịch, Lê Duẩn đứng hàng thứ hai. Thứ ba phải là Nguyễn Chí Thanh, thứ tư mới đến Trường Chinh, thứ năm thủ tướng Phạm văn Đồng, đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng hàng thứ sáu. Đấy, tuy chế độ ta không có chuyện sắp hạng nhưng nếu có thì mọi người, ai ai cũng phải đồng ý sự sắp hạng như trên.

Ngưng một chút, Cường tiếp:

– Cho nên người nắm vững quân đội, đề ra chánh sách đường lối lãnh đạo Đảng trong quân đội, người đó phải là đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Anh hiểu ra rồi chứ?

– Bây giờ đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã vào đây để lãnh đạo cuộc kháng chiến miền Nam?

– Ừ! Nhưng cái tên Nguyễn Chí Thanh thì không còn nữa. Bây giờ là anh Sáu Vi. Viết báo thì dùng bí danh Trường Sơn hay hạ sĩ Trường Sơn. Về đây, anh mà láng cháng kêu bằng đại tướng, lôi thôi to đó. Nghe chưa ông!

– Vậy anh, Sáu Vi vào đây giữ nhiệm vụ gì, nhiệm vụ chính thức, danh chính ngôn thuận như thế nào anh?

– Trời đất ơi! Sao mà ông ngây thơ quá vậy ông?

– Thiệt mà, tôi không biết thiệt mà, nên mới hỏi…

– Thì còn nhiệm vụ gì nữa bây giờ? Đại diện Trung ương Đảng, thay mặt Bộ Chính trị lãnh đạo tại chỗ, quyết định mọi đường lối chính sách của Đảng, của Mặt Trận. Anh Sáu Vi vừa là Chính ủy Quân ủy Miền, vừa là Bí thư Trung ương Cục Miền Nam. Bây nhiêu đó cũng đã quá đủ rồi.

Chợt Cường nhổm đầu lên:

– Có điều này tôi cần nhắn ông để ông đừng quên là cái tập quán sinh hoạt ở khu B, hoàn toàn khác hẳn với khu A. Cái nếp sống du kích, lưộm thưộm của khu A không còn thích hợp nữa. Ở đây thì nề nếp, nguyên tắc chính quy được áp dụng triệt để như miền Bắc. Nhất là tại khu căn cứ Bộ Chỉ huy Ba Cục. Nguyên tắc triệt để.

– Nhưng nguyên tắc chính quy như thế nào?

– Trong nhất thời, khó thể trình bày cho anh hình dung được sự việc cụ thể nó tròn, nó méo ra sao. Khi vào trong đó rồi, sống chung với mọi người, các đồng chí khác sẽ nói cho anh biết. Bây giờ tôi chỉ muốn nhắc nhở anh, để anh chuẩn bị tinh thần, không bị bỡ ngỡ trong những ngày đầu.

Mà thực, Cường có nói gì đi nữa, tôi làm sao có thể hình dung được khung cảnh và nếp sống nguyên tắc triệt để ở đây? Cái hiểu biết về thế giới vô sản chuyên chính của miền Bắc như thế nào, tôi làm sao biết được. Chưa chi trong ngày ở khu A, khung trời đã cách biệt quá xa, khác hẳn với những ngày kháng chiến chống Pháp trước 1954. Vậy mà tôi còn thấy ngộp ở đây còn «triệt để» hơn ở khu A nhiều, tôi phải «chuẩn bị tinh thần»…tôi sẽ còn bị ngộp thở đến đâu?