Chương XVIII TẠ TỪ CÁCH MẠNG
Theo nhận định của Bộ Chỉ huy, căn cứ đã bị lộ. Địch sẽ còn oanh tạc, bừa đi bừa lại nhiều lần nữa. Sáng ra tất cả đều được lệnh tản cư về căn cứ hai, ở bên kia biên giới Miên thuộc tỉnh Mimot.
Chúng tôi được lệnh trên vào buổi sáng. Tôi lo thu vén đồ đạc, tài liệu chất gom thành đống để chờ lực lượng cảnh vệ đến chuyển đi.
Giữa lúc đó, Hoà, không biết ở đâu lù lù dẫn xác về, tay cầm mấy miếng giấy mỏng đánh máy, đứng ở bờ giao thông hào, gọi tôi:
– Tư Hùng ơi! Anh được lệnh đi công tác xuống I-4 nè!
Tôi chợt thảng thốt. Một sự thảng thốt bất ngờ. Không bao giờ tôi dám ngờ đến.
– Sao? Sao anh? Đi công tác xuống I tư ngay bây giờ? Thiệt sao? Thiệt sao anh?
– Bộ anh tưởng tôi nói gạt anh sao? Thật mà! Đáng lẽ công việc này là công việc của tôi, nhưng, như anh thấy đó! Quần áo, đồ đạc tôi, bom nó ăn hết rồi, làm sao đi được? Cho nên, tôi vừa báo cáo với anh Ba để anh đi thay. Giấy giới thiệu, giấy đi đường tôi vừa lo xong anh đây!
Tôi muốn nhảy dựng lên vì xúc động. Tôi nghe mình nhẹ nhỏm phơi phới tưởng chừng có thể bay bổng được như chim. Chỉ có mình tôi hiểu được nguyên cớ vì sao. Hơn ba năm 6 tháng rồi, còn gì nữa! Tôi đã tính từng ngày, từng năm tháng của thời gian đi.
Lặng người đi một thoáng, tôi cất giọng, run run hỏi
– Tôi có biết công việc gì đâu mà làm?
Hoà nhảy qua giao thông hào, đi về phía tôi:
– Đừng lo! Anh giữ giấy tờ đi rồi tôi báo cáo lại chút xíu là anh rõ liền hà!
– Tôi đi với ai? Và chừng nào đi? Công tác gấp lắm không?
– Dĩ nhiên là gấp! Anh sửa soạn đi ngay bây giờ. Cùng đi với anh, có hai đồng chí cảnh vệ theo bảo vệ cho anh. Hai đồng chí đó là anh Ba Long cho mang chỉ thị công tác từ căn cứ hai vừa về đến cách đây một giờ. Hiện đang chờ anh ở Phòng Thường Trực.
Hoà đưa tôi tất cả giấy tờ trên tay anh ta:
– Có hai công tác. Công tác thứ nhất là liên hệ với đoàn công tác «Nghiên cứu kế hoạch chống xúc tác dân» ở các xã ven quốc lộ I, thuộc quận Trảng Bàng. Đoàn công tác đó gồm có cán bộ Tham mưu của mình phối hợp với Trung Ương Cục, Hội đồng Cung Cấp Trung Ương và Tỉnh ủy Tây Ninh. Anh đến đó đúc kết quả nghiên cứu đợt đầu mang về đây trình lên cho anh Ba Long. Hiện giờ Ban Chỉ huy của Đoàn công tác đang đóng tại xã Gia Lộc. Lộc Hưng hay An Tịnh gì đó. Đến đấy, gặp cấp ủy địa phương họ sẽ đưa anh đến gặp Đoàn công tác.
– Còn công tác thứ hai?
– Việc thứ hai là liên lạc với cơ sở thu mua của Hậu Cần Khu B, Đoàn 82 đấy, mua một số máy móc dụng cụ cho bộ phận B12. Bảng danh sách các món cần mua, anh đang cầm đó.
– Rồi biết cơ sở thu mua của đoàn 82 đâu mà đến?
– Xuống suối Đôi, anh ghé liên lạc với Ban Chỉ huy đoàn 82 trước. Anh Ba Thắng, anh Tám Cường sẽ cho người hướng dẫn anh đến vùng Phước Hiệp ở ven quốc lộ số 1 gặp cơ sở thu mua. Tóm lại, công tác chính của anh là gặp Đoàn công tác «nghiên cứu kế hoạch chống xúc tác dân». Còn công tác liên hệ với cơ sở thu mua là công tác kết hợp. Vì cơ sở thu mua cũng ở gần đó.
– Nhưng…
– Nhưng gì? – Hoà hỏi.
– Nhưng tôi đâu biết đường đi nước bước từ đây xuống căn cứ đoàn 82 cũng như I-4?
– Anh đừng lo. Hai đồng chí cảnh vệ do anh Ba gởi về, có một đồng chí cán bộ B phó. Chư vị đó là thổ công, đi công tác I tư đi đi về về như đi chợ. Đoàn 82, anh ta cũng đã tới hàng chục lần.
Tôi thở phào, nhẹ nhỏm. Tôi vờ như miễn cưỡng nhận công tác, trách Hoà:
– Anh ác quá! Công tác của anh, anh lại đùn cho tôi. B1 bộ hết cán bộ rồi sao, anh đề nghị chi tôi, ác vậy?
Hoà cười:
– Quanh năm suốt tháng anh chẳng đi đâu. Nhân dịp này anh cũng nên đi về I tư một lần cho biết mũi pháo bầy với người ta. Chúc anh thượng lộ bình an. Đừng có đi luôn nghe! Ở lì dưới đó để ở nhà phải làm lễ truy điệu thì buồn lắm đó.
Tôi mỉm miệng cười, cho tất cả giấy tờ vào túi áo bà ba đen, không cần xem lại.
Suốt hơn ba năm nay, cái điều mà tôi ao ước đợi chờ không bao giờ đến. Giờ giữa lúc tôi không ngờ nhất, nó lại đến.
Năm ngoái đây sau chiến dịch Đồng Xoài, trên đường về căn cứ Bộ Chỉ huy R. Ngang lộ 13 tôi đã thực hiện một cuộc đào thoát nhưng không thành. Suýt tí nữa, tôi phải nằm mãi mãi trong lòng đất lạnh giữa rừng sâu Khu A.
Tôi đã nhẫn nhục trong cái vui hồn nhiên giả tạo, đếm thời gian đi qua cho đến hôm nay. Có lẽ chính nhờ sự nhẫn nhục cần thiết đó, đạt được sự bất ngờ hôm nay. Tôi được giao cho một công tác ở vùng ven quốc lộ số 1. Một vùng kém an ninh mà những cán bộ không được tin cậy không bao giờ được phép bén mãng đến.
Tuy ngoài mặt làm ra vẻ miễn cưỡng, vờ thối thoát với Hoà, nhưng trong lòng tôi mừng không sao xiết kể. Bao lâu nay, ý nghĩ giải thoát ra khỏi cái khung trời quỷ quái này, tôi đã gói ghém, giấu giếm nén xuống tận đáy lòng. Sự dồn nén chất chứa gần như nín hơi, nhịn thở chờ đến phút xì ra.
Tôi gần như không sửa soạn gì cả, đi ra giao thông hào lôi chiếc xe đạp lên, ràng chiếc bồng đựng quần áo sau «bọc-ba-ga».
Hoà lửng thửng bước ra với vẻ thèm thuồng:
– Phen này, anh tha hồ mở chiến dịch bồi dưỡng ăn hút rồi nhé! Đấy phải cảm ơn tôi đấy nhé!
Tôi cười:
– Cảm ơn anh! Nếu không gặp tai nạn ở I tư thì sẽ còn cảm ơn anh nhiều hơn nữa. Thế nào cũng có quà cho anh.
Tôi dẫn xe đạp ra đường:
– Chào anh nhé! Vĩnh biệt anh nhé!
– Bậy nè! -Hoà càu nhàu- Ông đừng có nói bậy vậy! Sao lại vĩnh biệt?
– Thì phòng hờ vậy mà!
– Cái ông này kỳ! Ông làm như đi là…đi luôn.
Tôi leo lên xe đạp, đưa tay ra hiệu từ giã Hoà lần nữa rồi phóng đi.
Hai đồng chí cảnh vệ đang chờ tôi ở Phòng Thường Trực. Tôi ra đến, đồng chí B phó trình diện tôi và hỏi ngay:
– Báo cáo anh, mình đi ngay bây giờ?
– Ừ! Tôi nói. Đi ngay! Nhưng tối nay mình nghỉ ở đâu? Ăn uống dọc đường thế nào? Tôi giao cho anh quyết định đó?
– Dạ!
Sau khi «hội ý» chớp nhoáng với anh ta, cho biết những công việc mà tôi sẽ làm, anh ta vẽ phác cho tôi một lịch trình. Theo đó, tối nay chúng tôi sẽ đến Suối Đôi, nghỉ ngơi cơm nước, làm việc với Ban Chỉ huy Đoàn 82. Sáng mai lên đường qua sông Bà Hão, đến Bến Củi vào quãng giữa trưa.
Nghỉ lại đây một ngày rưỡi, bồi dưỡng chè chén cho lại sức, sau đó sẽ đạp xe đi một mạch đến cơ sở thu mua của đoàn 82 ở Phước Hiệp. Tại đây, liên hệ với địa phương để tiếp xúc với đoàn công tác «nghiên cứu kế hoạch chống xúc tác dân».
Thế là chúng tôi lên đường nhiều năm rồi không có dịp đi đâu xa bằng xe đạp lần này leo lên xe tôi cảm thấy khoan khoái dị thường. Tôi cởi dây thắt lưng có bình ton và súng ngắn máng ở ghi đông. Luồn theo bóng râm điểm lỗ chỗ vài đốm nắng nhạt xuống đường mòn, xe tôi vun vút lao ra khỏi căn cứ Bộ Chỉ huy Ba Cục.
Gió mát, không khí thoải mái, cộng với niềm vui vô hạn giữa lòng tôi. Tôi quên khuấy đi mất sau lưng mình còn có hai đồng chí cảnh vệ cót két đạp xe theo. Tôi rướn người lên, đạp mạnh như những tay đua đường trường. Miệng tôi huýt gió theo điệu nhạc «Cầu sông Kwai» mỗi lúc càng lớn với niềm vui vô tả.
Ngủ một đêm ở căn cứ đoàn 82, sáng dậy chúng tôi tiếp tục lên đường. Đường đi đầy những hố bom B52 trải dài.
12 giờ hơn, chúng tôi bắt đầu đạp xe quẹo vào con đường đá đỏ. Vườn cao su Bến Củi đây rồi.
Đường phẳng, rộng thênh thang. Cao su từng hàng, từng hàng chen nhau chạy dài mút mắt. Bốn bên toàn cao su, cây thẳng đứng, vỏ xù xì, xám ngoét, bên trên vòm lá xanh rì mát rượi. Những lộ cao su phẳng phiu, dưới gốc trống hoang không cỏ mọc. Xa xa, mấy phu cạo mủ lác đác dẫn xe đạp băng ra đường.
Qua khỏi khúc quanh, nhìn về cuối đường, chợ Bến Củi hiện ra trên khoảng đất trống dưới ánh nắng chói chang. Chân tôi mỏi rụng, nhưng giờ cảm giác đó không còn nữa.
Bến Củi không khác một thị trấn nhỏ. Cũng những dãy phố gạch, tường sơn trắng, dân cư đông đúc với những tà áo đủ màu xanh đỏ trắng vàng nhởn nhơ như đàn bướm.
Cũng đường đá rộng thênh thang, cũng xe hơi, xe gắn máy, xe lam chạy đi chạy lại. Hai biệt thự lầu kiến trúc thật đẹp với những giàn hoa leo, kín cổng cao tường như thách đố với chiến tranh.
Đặc biệt nhất là nhà máy mủ với những tiếng máy chạy xình xình, khói nhà máy theo ống khỏi sừng sững bốc lên cao. Rồi lầu nước cao vời vợi, rồi sân tráng xi-măng với cả một dãy nhà xe mấy mươi chiếc đậu thành hàng.
Dù ở đây nhân dân quen nhìn «giải phóng quân», nhưng khi thấy tôi và hai đồng chí cảnh vệ kẻ mang súng ngắn, người AK, CKC quẹo xe qua dãy nhà đầu, ai ai cũng lấm lét đưa mắt nhìn, tò mò, sợ sệt. Đồng chí B phó, AK mang trước ngực, cỡi xe vượt lên trước, rẽ vào một đường phố hẹp, bảo tôi:
– Anh theo tôi!
Đến trước căn phố có trồng giàn hoa giấy trước ngõ, một thiếu phụ tuổi ngoài ba mươi đang đứng hái ớt trước sân, anh ta ngừng xe lại gọi ta:
– Chị Hai! Mạnh giỏi chị Hai!
Chị Hai nhìn ra, cười xã giao:
– Dạ, chào cậu! Mấy cậu mới tới?
– Dạ! Tụi tôi đi công tác ngang đây, ghé xin chị cho nghỉ nhờ một bữa nghe chị?
Chị ta ngập ngừng một lúc:
– Mấy cậu hỏi, tụi thiệt hổng biết…phải nói sao…
– Tụi tôi xin nghỉ nhờ một bữa thôi mà! Mai tụi tôi đi sớm. Hổng có gì đâu mà chị sợ! Vậy chớ mấy lần trước tụi tôi đi mua hàng tiếp phẩm, xuống đây chị cho nghỉ nhờ đó thì sao?
– Trước khác, lúc rày khác. Lúc rày găng lắm cậu ơi! Tụi sợ….
– Hổng sao đâu mà! Chị ừ đại cái đi!
Chị ta ừ một cách miễn cưỡng:
– Ừ!..Mà hể có động tĩnh gì mấy cậu phải ra khỏi nhà tui ngay.. Mấy cậu cũng biết đây là làng hai. Từ đây ra làng một có ba bốn cây số. Rồi từ làng một đi qua Dầu Tiếng cũng có ba bốn cây số nữa thôi. Dầu Tiếng kế một bên, rồi còn trực thăng chụp bất tử, biệt kích nữa chớ! Tui là dân chúng mần ăn, ai kêu cũng phải dạ. Mấy cậu ở nhà tui, tội nghiệp tui lắm!
Đồng chí B phó cảnh vệ của tôi hăm hở đẩy xe vào sân:
– Hổng sao! Tôi đảm bảo với chị mà! Thôi, mình vào nhà chị Hai nghỉ, còn ăn cơm nước nữa, anh Tư!
Vậy là chúng tôi đẩy xe vào nhà. Liệng đồ đạc, bồng bị xuống chiếc pan bằng gốc tạp mọt gặm độc nhất ở gian nhà trước, anh B phó cảnh vệ bảo tôi:
– Báo cáo anh, bây giờ anh ở nhà nghỉ, tắm rửa lần đi. Để hai đứa tôi cỡi xe đảo một vòng qua mấy cái quán, kiếm mua đồ ăn về làm cơm.
Khi nãy, trước khi đến đây, tôi để ý thấy có mấy quán phở, cà-phê, hủ tiếu ở đầu ngõ nên tôi nói ngay:
– Không cần đâu! Mấy anh em mình kéo nhau ra quán, ăn phở hay hủ tiếu gì đó cho tiện. Nấu nướng mất công. Coi có cái món gì lạ, mình làm một chầu bia cho nó sướng cái miệng. Gần bốn năm rồi tôi chưa biết mùi bia đó.
Anh ta xum xoe:
– Dạ, báo cáo anh, để buổi chiều hay tối mình hãy đi anh Tư! Bây giờ mới mười hai giờ, còn sớm! Từ giờ đến bốn giờ chiều còn phải đề phòng trực thăng nó chụp bất tử. Lang thang ngoài quán rồi nhậu nhẹt ngủ quên, nguy hiểm lắm anh Tư! Để tụi tui mua đồ về nhà nấu cho chắc.
Hai đồng chí cảnh vệ ra khỏi nhà, tôi men ra hàng hiên làm quen với chị chủ nhà, hỏi thăm tình hình ở đây. Nghe nói Dầu Tiếng ở cách đây không xa…
Tôi lên tiếng:
– Dạ, anh Hai đâu vắng rồi chị Hai?
Ngẫng đầu lên nhìn tôi giây lâu, chị ngập ngừng:
– Ảnh mất rồi, cậu! Mất trong…đợt dân công bên Dầu Tiếng hồi trước Tết năm ngoái.
– Ủa! – Tôi ngạc nhiên- Vậy ra anh Hai đi dân công!
Tôi nhớ đến Hoà kể chuyện bị bom B52 lần đó ở Hố Đá. Tôi hỏi tiếp:
– Chắc anh bị B52 chớ gì? Phải không chị?
– Dà!
– Anh chị bây giờ được tất cả mấy cháu?
– Được 6 đứa, cậu! Đứa lớn nhứt năm nay mới mười lăm. Đứa nhỏ nhứt mới bốn tháng.
– Chà! Như vầy chị vất vả lắm mới nuôi nổi mấy cháu. Tôi nghiệp chị!
Chị cúi đầu xuống, mân mê trái ớt đỏ trong tay:
– Hai đứa lớn tui phải cho nó nghỉ học để phụ đi cạo mủ với tui, nuôi mấy em nó. Nhưng mới tháng rồi, người ta ở đây bắt nó phải vô du kích, vác súng trường bá đỏ đi tối ngày…
Khung trời này nó là thế. Chế độ này nó là thế. Nó trở thành một sự bắt buộc, một quy luật bất di bất dịch. Đâu ai có thể làm khác được. Bằng lòng hay không bằng lòng, muốn hay không muốn cũng phải chấp nhận thể thức mà người ta gán cho. Lớn nhỏ gì cũng phải vào du kích.
Nếu không chỉ còn cách bỏ nhà, bỏ xứ, dắt dìu nhau về một phương trời khác. Không đi được thì chấp nhận. Thế thôi.
Tôi bắt đầu đi sâu vào những vấn đề tôi còn đang thắc mắc:
– Trước giờ ở đây, cũng yên ổn chớ, chị Hai?
– Cũng không yên gì đâu cậu! Trực thăng cũng chụp hoài. Thỉnh thoảng lính bên Dầu Tiếng họ cũng kéo qua, luồn theo mấy lô cao su. Phía này là làng 1 rồi Dầu Tiếng. Đường xe chạy thông thống. Xe rồ máy năm phút tới đây rồi. Còn phía này thì Truông Mít, Bàu Đồn, cách năm, bảy cây số, giỏi lắm là một giờ đi bộ.
– Nhưng du kích có canh gác chớ chị?
– Nhiều lắm cậu! Họ rình đâu ngoài đường, ngoài bụi. Ngoài số du kích, còn có an ninh nữa. Họ giả dạng làm phu cạo mủ, đi bắt cua, bắt ếch để xét hỏi những người lạ mặt ra vô nơi đây.
Chị bước vào hàng hiên tránh nắng, đứng đối diện trước mặt tôi:
– Như hôm kia tôi đi mua cá ở suối ông Hùng, mấy ổng núp trong bụi thình lình nhảy ra chận đường hỏi giấy kiểm tra làm tui hết hồn hết vía. Trước đây có lịnh cấm, mấy cậu đâu có ai được ghé lại Bến Củi này nghỉ ngơi gì đâu. Bây giờ canh gác năm tầng bảy lớp, nên mới bỏ lịnh cấm đó chớ. Nhưng mà hễ nghe bắn súng báo động thì phải cuốn gói dông liền.
– À!…
– Cách đây bốn năm bữa gì đó, có hai cậu tân binh đâu ở trên rừng xuống dưới này, trốn ra Truông Mít bị du kích họ bắn chết, kéo xác về bỏ ở ngã tư đằng kia. Cả ngày không chôn cất gì hết. Trông thảm làm sao!
Trời đang nắng bỗng tối sầm lại trước mắt tôi. Cái ý nghĩ tìm đường về Sài Gòn qua ngõ Dầu Tiếng hay Truông Mít của tôi tắt ngóm. Tôi biết không thể nào đi thoát qua cái lưới kiểm soát, canh gác ở đây được nữa rồi. Huống hồ, tôi là một người lạ, không thuộc đường đi nước bước ở đây.
Đành chỉ còn chờ, còn hy vọng đến vùng ven quốc lộ số 1. Mong rằng may mắn sẽ đến với tôi. Trời không lẽ nỡ bắt tôi phải kéo dài sự câm nín triền miên, vô vọng hay sao?
Tôi ngẩng đầu lên. Bên ngoài, cái nắng oi ả của buổi trưa, nổi sao chập chờn trên đường đá đỏ.