Chương XVIII (2)
Sau một đêm trằn trọc, lo âu không ngủ, sáng tôi dậy thật sớm. gọi hai đồng chí cảnh vệ cùng dậy ra quán ăn điểm tâm và lên đường đi nốt chặng đường còn lại. Theo đồng chí B phó cảnh vệ cho biết thì nếu không có gì trở ngại, trễ lắm là 7 giờ tối hôm nay, chúng tôi sẽ đến cơ sở thu mua của đoàn 82, đóng ở Phước Hiệp.
Trời vừa rựng sáng. Chúng tôi dựng xe trước quán. Trong quán hủ tiếu hẹp, qua hai chiếc đèn dầu hôi leo lét, quanh mấy cái bàn gỗ long chân, ọp ẹp cũng có hai cụ già mặc áo thun lá, phơi những cánh tay trần xương xẫu, đen sạm ngồi khề khà với ly rượu đế trước mặt.
Và năm sáu cán bộ, chiến sĩ mặc quân phục vải ta đen, súng AK, Carbine, thắt lưng bỏ lổn ngổn trên bàn, sì sụp húp vội mấy tô hủ tiếu bốc khói. Mùi hành mùi tiêu thơm phưng phức bay ra. Tôi đứng tần ngần chưa muốn vào.
Anh B phó thì thầm vào tai tôi:
– Mấy chư vị này chắc ở công trường 9. Nếu không, cũng đám tiếp phẩm của mấy đơn vị của mình trên R xuống mua hàng mua thực phẩm tải về.
– Trong quán chật ních rồi, còn chỗ đâu mình ngồi? – Tôi nói.
– Kệ…anh Tư! Chen chúc ngồi đại. Ăn lẹ, còn đi sớm anh. Giờ này là giờ nguy hiểm lắm đó! Mình mà còn chàng ràng ở đây, có gì thì dễ «qua phần» như chơi!
– Gì ghê vậy ông?
– Thiệt mà, anh! Sáng sớm là lúc tui biệt kích ở Dầu Tiếng hay Truông Mít, Bàu Đồn hay đột kích bất tử lắm. Trực thăng nó cũng hay chụp vào lúc này. Vô anh!
Tôi không nói gì, bước vào quán.
Sau khi mỗi người tống vào bụng hai tô hủ tiếu, một cốc cà-phê sữa, tôi đứng dậy trả tiền và mua thêm một chục bánh bao, giao cho cậu cảnh vệ mang theo, phòng hờ bữa trưa.
Anh B phó phóng xe lên trước dẫn đường. Chúng tôi rời khỏi Bến Củi lúc 6 giờ sáng. Băng qua mấy lô cao su, bắt đầu rẽ vào rừng, theo đường mòn đạp về hướng đông. Hai bên đường toàn tre gai và những cây tạp, với những lỗ bom, hố đạn đại bác loang lỗ.
Nước mưa dậy sình, ngập lối. Chúng tôi cứ cắm cúi đạp xe với nỗi lo sợ vu vơ, không biết pháo ở Dầu Tiếng «hỏi thăm» giờ phút nào suốt trên quãng đường tôi đang đi đây.
Cặp theo sông Sài Gòn, chúng tôi lần lượt qua khỏi xóm Bà Nhã, Sóc Lào, rừng Bời Lời, rồi Cầu Xe, cho đến 6 giờ chiều thì đến địa phận xã An Tịnh – một xã nằm dọc theo hai bên quốc lộ số 1. Tai tôi nghe tiếng động cơ xe rù rù chạy trên đường. Và ba bên bốn phía tiếng pháo 105 nổ đì đùng.
Ngồi bên bờ ruộng nghỉ chân mười phút, tôi hỏi anh B phó cảnh vệ của tôi:
– Bộ đây gần đường số 1 lắm sao anh?
Anh ta nói một cách thản nhiên:
– Dạ, đâu có xa xôi gì anh! Hai cây số đường chim bay là cùng.
– Vậy đồn bót của địch đâu có xa?
Anh ta cười, đưa tay chỉ một vòng:
– Nè, con đường này nè, chạy thẳng ra bót Mới, cách chợ Trảng Bàng chừng một cây số. Xế xuống phía dưới này chừng bảy trăm thước là Trảng Dầu. Dưới nữa là Suối Sâu. Cầu Chùa đường số 6, Suối Cụt. Đường số 6 nó chạy tọt về phía này nè, đồn Trung Hoà ở đó. Nói tóm lại chỗ mình đang ngồi đây, chúng quanh toàn là đồn bót. Theo địa hình, mình đang ở giữa bụng một chữ U. Anh ngán chưa?
Tôi cười. Tôi đã ao ước, chờ đợi, mong muốn được đến nơi này, thì giờ đây tôi mừng chứ sao tôi lại ngán? Nếu có buồn chăng là nỗi lo âu trước giờ phút sắp sửa «tháo củi sổ lồng» lại bị tai nạn vậy thôi.
Thà rằng có chết thì chết quách ở trên rừng cho xong chứ đã về đến đây, sắp sửa đến Sài Gòn mà bị pháo, bị bom thì quả buồn không sao kể xiết. Nếu không bảo đó là ấm ức không nguôi.
Tôi không trả lời anh ta hỏi thêm:
– Từ đây đến Phước Hiệp, chỗ cơ sở thu mua đoàn 82 gần xa anh?
– Gần rồi, chừng nửa giờ đạp xe thôi.
– Anh bảo địa hình, vị trí mình đang ngồi ở giữa bụng chữ U, thế mình đến Phước Hiệp, nó là chữ gì?
– Chữ O. Đường số 6 và quốc lộ số 1 tạo thành một hình tam giác, mà mình thì ở sát góc tam giác. Cách đường số 1 nhiều lắm chừng năm trăm thước. Xe cộ chạy ngoài đường, nghe rõ lồng lộng.
– Nguy hiểm quá vậy! Nửa đêm biệt kích đột nhập thì chạy ngõ nào?
– Chun xuống hầm bí mật!
– Nếu mình đang ngủ không hay kịp thì sao?
– Thì mình ngủ luôn.
Tôi chép miệng, lấy gói thuốc Ruby vừa mua ban sáng, đưa cho mỗi người một điếu. Anh ta đốt thuốc hít một hơi khói thật dài. Vẻ hả hê, thống khoái hiện trên đôi mắt lim dim. Anh ta nói như trong mơ:
– Như đường đi từ chiều đến giờ đó, anh thấy vùng này toàn là ruộng trống. Vườn chia thành từng cụm, từng khoảng giống như những cù lao. Địa thế ở đây đều như vậy hết. Từ đây đến Phước Hiệp mình còn phải băng qua hai khoảng đồng trống nữa. Mùa này lại nhằm mùa nước, không biết đường đắp có cỡi xe được không đây!
– Găng ha!
– Găng hay không găng gì, khi đã đến đây, mình chỉ có mỗi một cách giải quyết là đi tới, chấp nhận…
Mặt trời lẩn vào trong mây ở cuối chân trời, bên kia đường quốc lộ số 1. Ven cây xa, khói trắng, phủ mờ. Mấy ngôi nhà nóc trắng, nóc đỏ như ẩn như hiện qua làn sương chiều nhạt, xa xa.
Tiếng «đề pa» của đại bác ở đồn Trung Hoà nghe rõ mồn một, bắn vào hướng Lộc Thuận, Hố Bò, dọc theo sông Sài Gòn. Ở men đường quốc lộ, tiếng súng đại liên cũng nổ nhát gừng, từng loạt ngắn.
Nơi tôi ngồi đây là đường đắp, hun hút chạy dài xuống hướng đông, lạc lõng giữa ruộng nước, lúa non vừa được cấy. Tiếng nhái bầu kêu «nhắc nhen, nhắc nhen» nghe sao buồn lạ.
Tôi nhớ những ngày còn bé trên quê hương tôi. Những buổi chiều mưa tạnh, sau khi ở trường về, tôi ăn cơm thực nhanh để chạy theo Hinh – người chăn trâu cho nhà tôi – ra bờ ruộng cắm câu, lội dài trong lúa mới trổ đòng đòng.
Tiếng cá lóc mắc câu, quẩy lổn xổn, tiếng nhái bầu kêu giữa lúc trời nhá nhem tối, là một âm thanh vui thú. Tôi chẳng nghe buồn. Tôi lội, ào ào trong lúc với sự khoái trá cùng cực. Khoái nhất những lúc cá quẩy, kéo ngọn cần câu ghịt sát mặt nước. Và tôi nhổ câu lên. Con cá lóc to bóng nhảy dãy dụa trong bàn tay tôi.
Tôi vừa la om, nhảy cỡn nhưng cũng vừa chợt nghĩ kiếm cách trả lời dối với má tôi, để người không biết tôi đã dám cãi lời theo Hinh ra ruộng cắm câu, chân cẳng đầy sình, quần áo ướt mem. Giờ thời thơ ấu cũ đã qua rồi. Nó chỉ còn là dư hưởng của một giấc mơ xa qua nhiều năm tháng.
Tôi đốt thêm điếu thuốc nữa. Khói tản mạn bay theo làn gió nhẹ. Giờ phút này, ở Vĩnh Kim xa xăm kia bên bờ Cửu Long giang sóng vỗ, ba má tôi chắc ngồi thơ thẩn trên băng đá trước sân, ngước mắt trông trời, thương nhớ đến tôi, mấy năm trời biền biệt, không thư từ, tin tức, không biết đường đời trôi nổi sống chết ra sao?
Và hai em tôi… Cúc đã tốt nghiệp chưa nhỉ? Đã đi dạy học ở nơi nào? Đã có chồng chưa? Hơn ba năm trời nay, biết bao nhiêu là thay đổi? Không chừng nay đã tay bế tay bồng là đằng khác. Còn Dũng học hành đến đâu…
Hiền tôi đó. Giờ này em đang làm gì hở Hiền? Em có mỏi mắt chờ anh? Vết thương của em, ừ, vết thương…lưu niệm! Cách mạng giải phóng miền Nam đền công lao cho em đó. Em có biết rằng chỉ vài hôm nữa là anh về với em không?
Anh đang ngồi đây, anh đang nhớ đến em. Nhớ nhiều lắm lắm. Điều này không ai ngờ, không ai biết, nhưng anh biết, chúng mình biết, phải không em? Nếu vài ngày nữa mà anh không về thì…em ơi! Em mất anh vĩnh viễn rồi! Anh đã phải vùi xác bên men đường quốc lộ…
Lại một tràng đại liên nổ dòn, lôi tôi trở về thực tại. Tôi nghe nóng bờ mi. Điếu thuốc trên tay cháy gần tàn.
Tôi đứng dậy:
– Thôi, mình đi thôi. Tối đến nơi rồi!
Anh B phó cảnh vệ cũng đứng dậy:
– Nửa giờ nữa, mình tới nơi nghỉ rồi, anh Tư. Anh nghe đói chưa?
– Chưa!
– Dạ, có…điều này, quên báo cáo anh rõ là…
Cùng lúc đó, vội chợt nghe thứ tiếng như tiếng trống đổ hồi văng vẳng xa tít về hướng đông vọng lại. Rồi tiếng xé gió rợn người, cùng với đám lửa bừng lên trước mắt, thảng thốt, chói chang. Oành! Oành! Oành! Một loạt tiếng nổ long trời, hất tôi nhào lộn xuống bờ ruộng. Tất cả sự kiện ấy xảy ra trong một giây đồng hồ, điếng hồn, thất thanh, tôi không kịp hiểu những gì đã xảy ra.
Trời ơi!…Pháo! Mặt mũi tôi tối sầm. Người tôi bất động tê dại không còn phân biệt được gì nữa.
Khói mịt mù. Mùi thuốc súng khét lẹt. Mãi hơn một phút sau tôi mới hoàn hồn trở lại. Từng loạt, từng loạt đạn đại bác rút lên vút qua đầu tôi nổ liên thanh, rung chuyển cả đất trời, càng lúc càng sâu vào trong xóm, phía sau lưng.
Tôi sờ soạng khắp người, không biết đã có vết thương nào trên cơ thể? Sự thể xảy ra nhanh trong nháy mắt. Tôi chưa kịp hiểu. Tôi chưa kịp phản ứng đã bị lật nhào xuống bờ ruộng. Giờ mới hoàn hồn, và cái chết đã đi qua.
May sao, tôi không bị thương tích gì cả. Đợt đại bác bắn bất thần im tiếng. Tôi ngóc đầu lên vừa hỏi vừa run:
– Hai đồng chí có ai làm sao không?
Hai đồng chí cảnh vệ của tôi nằm dưới bờ ruộng cách tôi vài thước. Đồng chí B phó cảnh vệ lên tiếng:
– Dạ… không, anh! May thiệt!
Quả là may vô song. Số mạng chúng tôi còn dài. Anh ta tiếp:
– Nhờ trái pháo nổ phía bên kia bờ đắp, lại cách xa mình có hơn bảy thước nên bờ đắp che miểng cho mình. Nếu không thì mình theo ông bà rồi.
Anh ta lồm cồm đứng dậy. Mình mẩy ướt mem như chuột. Nước chảy ròng ròng. Tôi đứng lên theo. Hai chân nghe run run dường như không đứng vững.
Anh ta giải thích:
– Pháo bầy ở đây nó bắn như vậy đó, anh ạ. Pháo cực nhanh của tụi Mỹ ở Củ Chi, ác thiệt. Sư đoàn 25 của tụi nó, có mấy giàn pháo, mỗi giàn sáu nòng, nó tập trung bắn một lượt như bão táp mưa sa. Bị nó rồi, vô phương chạy. Bởi vậy, mới kêu là pháo bầy. Năm bảy chục trái, cùng nổ một lúc.
– Củ Chi xa đây lắm mà!
– Xa thì có xa đó anh. Nhưng thứ pháo này nó bắn xa mười bốn, mười lăm cây số là chuyện thường. Mấy anh ở trên bảo nó là pháo cực nhanh 203 ly 2. Trái nào trái nấy như trái bom.
Không biết anh ta nói đúng không, nhưng trước đây tôi có đọc qua mấy tài liệu về pháo, tôi thấy nói đến nào pháo Howitzer, loại 174 ly, 203 ly 2 v.v… Hôm nay nếm mùi nó lần đầu, mới thực biết đá biết vàng.
Mấy chiếc xe đạp nắm lỏng chỏng ngổn ngang trên mặt đất. Bùn sình dính đầy. Anh B phó cảnh vệ vừa dựng xe lên vừa bảo tôi:
– Bây giờ…bây giờ mình phải cố gắng đẩy xe chạy thoát ra cho xa chỗ này mới có thể tránh được mấy loạt kế tiếp đó, anh Tư. Nó chưa thôi bắn đâu. Mình không hầm, không công sự, phơi lưng thì khó sống lắm, anh ơi!
Thế là chúng tôi hối hả chạy về phía trước. Trời bắt đầu tối. Cảnh vật mờ dần, chập choạng chung quanh, phía đồn Trung Hoà hoả châu sáng rực, lơ lửng trên ngọn cây cao.
8 giờ 10. Chúng tôi vào đến bìa xóm. Một nhánh chà tre lấp ngang đường. Tôi dừng xe định bảo cậu chiến sĩ bảo vệ kéo chà tre sang bên lấy lối đi thì anh B phó đã lên tiếng trước:
– Coi chừng lựu đạn nổ, đó anh Tư!
Tôi giật mình. Trời tối đen như mực. Tôi móc đèn pin ra soi thay cho đèn xe đạp:
– Chà! Nhè đường đi của người ta đem gài lựu đạn thế này bậy quá.
– Du kích họ rào phòng vệ, đề phòng biệt kích đột nhập vào xóm…
– Bây giờ làm sao?
– Dạ, lội ruộng, anh! Phía trước kia có cái gò mả, mình băng vô đó.
– Rồi xe đạp?
– Mình vác lên vai.
Không còn cách nào khác. Cả ba chúng tôi vác xe đạp lên vai lội ruộng. Anh B phó cảnh vệ đi trước dẫn đường. Tôi loạng choạng bước theo sau.
Vừa đói, vừa mệt, thêm nỗi bực dọc làm tôi như muốn rũ ra. Nếu trên đường đi chỉ mỗi mình tôi, có lẽ tôi đã vất chiếc xe đạp cho rảnh nợ.
Nhưng rồi chúng tôi lại mò đến đường mòn, tiếp tục đạp xe đi sâu vào trong xóm. Chừng năm phút, chúng tôi lọt vào trước sân một gian nhà nhỏ, tối om ẩn sát vào bụi tre gai.
Anh B phó dừng xe, bảo nhỏ cho tôi biết:
– Dạ, tới rồi anh Tư! Mấy cha nội thu mua của Đoàn 82 đóng đô ở đây nè!
Anh ta dựng xe sát vách, đập vào cái cửa chắn bằng lá dừa nước cặp lại:
– Anh Bảy ơi! Anh Bảy!
Không một tiếng trả lời. Anh ta nói bâng quơ:
– Chà! Mấy cha nội tối đến là tản cư trốn hết rồi chắc?
Tôi chợt nghe tiếng lên cò súng, khô khan, gãy gọn. Tiếp theo là tiếng hỏi, ngập ngừng:
– Ai!…Ai…đó?
– Bồ nhà mà! Tụi tôi trên rừng xuống đây!
– Trên rừng nào?
– Thôi mà! Trên đoàn 82 xuống. Lạ lùng gì mấy cha! Có anh Bảy ở nhà chớ?
– Chờ chút! Đốt đèn lên cái đã!
Đèn được đốt sáng và cánh cửa lá nhắc sang bên, để lộ cái hầm đất đắp nổi bờ thật dày. Một cậu thanh niên chừng 18 tuổi ở trần, mặc quần cụt, súng cạc-bin xuống tay, đăm đăm nhìn ra.
– Mấy đồng chí ở đoàn 82 sao tui hổng biết?
Anh B Phó, lửng thửng bước vào nhà, cười:
– Tụi tôi ở trên đoàn 82 xuống đây chớ đâu phải quân số của đoàn 82 mà đồng chí biết mặt. Tụi tôi có công tác với anh Bảy. Anh Bảy đâu, đồng chí?
Anh thanh niên dụi mắt:
– Mấy đồng chí biết anh Bảy?
– Biết! Biết nhiều! Tụi tôi từ trên Cục Tham Mưu xuống đoàn 82 hôm qua, gặp đồng chí Bảy Hùng, Ban Chỉ huy đoàn 82 rồi mới xuống đây.
Anh thanh niên cố kéo dài chuyện không đâu:
– Mấy đồng chí xuống đoàn 82 ngày hôm qua hả? Rồi bữa nay…
Anh B phó của tôi có vẻ bực, ngắt lời:
– Tôi muốn gặp anh Bảy. Anh Bảy đâu đồng chí?
– Anh…ảnh đi công tác…
– Đi đâu?
Anh thanh niên gãi đầu sồn sột:
– Ảnh…đi lại đằng xóm giải quyết một vụ rắc rối với địa phương.
– Với chi bộ xã hả? Nếu vậy chút nữa ảnh về đây chớ gì?
– Dà!
– Mấy đồng chí ở đây có gì mà rắc rối với chi bộ xã?
– Hổng phải? Rắc rối với đồng bào. Giải quyết ba bữa rồi chưa xong.
Anh B phó quay ra sau, bảo tôi:
– Dạ, báo cáo anh Tư, mình đẩy xe vô nhà rồi tắm rửa lo cơm nước anh Tư. Chút xíu nữa, anh Bảy về.
Chúng tôi vào nhà. Sau khi tắm rửa thay đồ xong, trong khi lo cơm nước thì anh thanh niên xì ra cho tôi biết vụ rắc rối trên trở thành quan trọng. Anh ta kể lể:
– Chả là cái vuông đất này có đường xe bò đi ra ruộng. Hồi trước tới giờ, tụi này bỏ trống. Kệ họ! Đồng bào họ muốn đi chừng nào thì đi. Nhưng thời gian gần đây, tình hình động nên tụi này cho rào kín bốn bên. Đường xe bò cứ 6 giờ tối bít lại, có thông báo cho đồng bào trong xóm biết là có gài lựu đạn, quá giờ đó đừng có ai lui tới hoặc giở rào, chết thì rán chịu…
Tôi hỏi:
– Vì vậy đồng bào họ phản đối chớ gì, đồng chí?
– Dạ hổng phải! Đành là họ có phản đối, không bằng lòng cho tụi tui rào bít đường xe bò ban đêm nhưng cha con chú Bảy đằng kia, ổng còn kéo giỡ rào lấy đường cho xe chạy.
– Rồi các đồng chí cản lại nên xô xát?
– Dạ cũng hổng phải. Tụi tui có gài lựu đạn ở đó…
– À! Vậy là rắc rối thiệt rồi. Có ai chết không?
– May là không có ai chết, chỉ có thằng con chú Bảy bị gãy giò trái. Ông nọ thấy vậy, nổi nóng vác rựa xông vô đây chém tụi tui trả thù.
– Mấy đồng chí làm sao?
– Dạ…biết làm sao bây giờ? Chạy thôi! Nhưng rủi ro lại chạm cò súng làm ổng bị thương ở tay. Tụi tui đâu phải cố ý. Rủi ro mà!
Tôi cười nụ. Không cố ý mà hai tai nạn xảy ra. Rủi ro kiểu này thiệt con nít cũng không tin nổi.
Tôi hỏi tiếp:
– Ban Chỉ huy Đoàn 82 biết vụ này chưa?
– Dạ…hình như anh Bảy có báo cáo rồi.
– Ý kiến Ban Chỉ huy thế nào?
– Dạ…tui hổng nghe anh Bảy nói.
– Còn Chi ủy xã, họ có phản ứng gì không?
– Nhờ chú Bảy đó là con của bí thư Chi bộ xã, nên chút xíu nữa tụi tui nẽ đầu mấy thằng du kích lò dò tới đây «cà chớn» rồi. Bây giờ anh Bảy ảnh đang đi họp với huyện ủy Trảng Bàng xuống kiểm thảo, giải quyết. Không biết giải quyết ra làm sao…ảnh chưa về.
Ngồi bên bếp, nhóm lửa kho trứng vịt, anh B phó cảnh vệ ngứa miệng thêm vào
– Vầy thì còn giải quyết nỗi gì nữa! Mấy đồng chí chỉ còn cách là cuốn gói trốn khỏi chỗ này gấp thì hoạ may. Chớ ở đây thế nào có ngày cũng chết. Không chết bắn, chết lựu đạn thì cũng chết chém.
Cơm nước xong gần mười một giờ đêm, Bảy vẫn chưa về. Tôi nghe tay chân mỏi rụng. Và mí mắt nặng như treo đá. Cậu thanh niên bảo tôi:
– Dạ, anh Bảy chắc đến một hai giờ sáng mới về. Bây giờ mấy đồng chí chun vô hầm ngủ với tôi. Nhưng…
Cậu ta ngập ngừng. Anh B phó cảnh vệ nhìn cái hầm đất, lắc đầu:
– Bốn mạng mà nhét vô cái hầm này chịu sao xiết, đồng chí? Thôi để tôi giăng võng ngủ ở ngoài cho.
Cậu chiến sĩ cảnh vệ cũng hưởng ứng.
– Tui nữa! Tui cũng ngủ ở ngoài. Chun vô hầm nó ngộp chắc chết luôn.
Cậu thanh niên phản đối:
– Hai đồng chí ngủ ngoài, pháo nó bắn thì hy sinh như chơi. Kệ chật chội gì mình cũng chen chúc với nhau cho nó bảo đảm.
– Bảo đảm cái cóc khô gì! Pháo nó bắn ngay hầm thì sập tuốt, chết ngắc ráo trọi.
– Nếu xui tận mạng vậy thì phải chịu chớ làm sao bây giờ? Cứt cò mà ỉa trúng miệng chai, đúng là tới số. Tới số thì chịu, còn hơn mấy đồng chí nằm ngoài pháo nó không bắn ngay nhà mà rớt ngoài sân, nó mượn đồng chí cái tay, cái chưn thì nó hận lắm đó, đồng chí!
– Nhưng…tôi cũng không ngủ hầm đâu. Ngộp thấy mẹ!
Tôi không góp ý kiến nào về vấn đề này. Đáng lẽ ra, theo nguyên tắc, tôi là thủ trưởng của hai đồng chí cảnh vệ, tôi phải có trách nhiệm góp ý kiến, giải quyết tất cả mọi vấn đề liên quan đến cán bộ, chiến sĩ dưới quyền tôi.
Trong trường hợp này, nếu có ý kiến quyết định của tôi, dĩ nhiên tôi phải ra lệnh cho hai cảnh vệ của tôi phải chun vào hầm ngủ. Bởi không quyết định như vậy, rủi ro có tai nạn nào xảy ra, khi về Cục Tham Mưu tôi sẽ bị kiểm thảo, tôi phải chịu trách nhiệm trước Bộ Chỉ huy.
Thà rằng, trên đường đi công tác, như lúc chiều, bị pháo tập kích bất ngờ, tai nạn thương vong có xảy ra, là chuyện bất khả kháng, còn bây giờ… Bây giờ thuộc về vấn đề ý thức cảnh giác, ý thức bảo vệ sinh mạng sức khoẻ của cán bộ chiến sĩ. Trách nhiệm ở chỗ đó.
Nhưng, tôi đã quyết…Tôi xem như lần đi này là vĩnh biệt Bộ Chỉ huy, vĩnh biệt núi rừng và khung trời mà tôi đã phải sống mấy năm trời nay. Vậy đối với tôi tất cả mọi vấn đề đều vô nghĩa. Có chăng, vấn đề quan trọng nhất đối với số phận tôi là…về Sài Gòn, có thế thôi.
Cho nên hai cậu cảnh vệ của tôi, muốn ngủ ngoài hầm, cứ ngủ. Tôi thì…bằng mọi giá, không thể để bị thương hay chết một cách lãng nhách trong những giờ phút sắp sửa được giải thoát tự do. Tôi cần phải sống. Nhất định phải sống cho bằng được. Tôi chui vào hầm.
Nền hầm được đào thấp hơn mặt đất chừng ba tấc. Trần hầm ngồi cao quá đầu. Trong lòng hầm, chiều ngang chưa đầy một thước rưỡi. Chiều dài chừng ba thước. Qua ánh sáng chiếc đèn dầu để sát cửa hầm, tôi lờ mờ nhìn thấy chiếc chiếu trải bị rách mấy đường dài.
Hầm hố thế này, cũng lắm chỉ chứa nổi ba người, theo kiểu nằm ngay đơ, không cục kịch xoay trở gì hết thì được, chứ thêm một người chỉ «sắp cá mòi» thôi. Vậy mà cậu ta lại kỳ kèo muốn cho hai đồng chí cảnh vệ của tôi phải vào ngủ theo. Ấy là chưa kể chốc nữa đây, anh Bảy phụ trách cơ sở thu mua về không biết phải nằm vào cái chỗ nào?
Vừa chui vào hầm, ngả lưng chưa đầy một phút tôi đã bắt đầu thấy ngộp. Mồ hôi rịn ra đầy trán, ướt cả sống lưng. Nằm nán thêm chút nữa, quả tình tôi không chịu nổi, phải ngồi dậy cỡi áo, quạt phành phạch cho đỡ cực. Cơn buồn ngủ của tôi bỗng nhiên tiêu tan. Thấy tôi cứ lục đục, cậu thanh niên nằm kế bên tôi lên tiếng:
– Dạ, nực quá phải không anh?
– Ừ, nực quá!
– Ở trên rừng yên tĩnh, không pháo phiếc gì hết, ngủ sướng thiệt! Chớ dưới này thì pháo bầy nổ sáng đêm. Không quen ngủ không nổi đâu. Như anh thấy đó! Vùng này toàn ngủ hầm. Mới tối đã lo chun hầm rồi. Mà chun hầm thì mồ hôi ra như tắm. Được cái tụi tui quen.
– Thực chun vô hầm, nực nội, ngột ngạt quá. Chắc đêm nay hết ngủ.
– Ở đây là vậy, găng lắm. Anh rán chịu vài bữa thấy quen liền. Để sáng ra anh sẽ thấy chung quanh cái nhà này, hạng bét cũng cả chục cái lộ pháo 105. Cho nên không ngủ hầm thì hy sinh như chơi.
– Chắc lâu lâu mới bị nên pháo một lần chứ đâu phải thường xuyên hàng ngày, phải không đồng chí?
Cậu ta cười khúc khích:
– Anh coi, lâu lâu một lần còn chịu không xiết. Mỗi ngày thì có nước bỏ, chớ ai ở nổi.
– Còn vấn đề càn quét, biệt kích đột nhập thì sao?
– Dạ, cũng đỡ! Tuy ở sát nách đồn Suối Sâu, không đầy cây số đường chim bay, nhưng suốt năm rồi, tụi nó ở đồn chưa kéo vô tới đây lần nào. Chỉ có đám trực thăng với xe lội nước của tụi Mỹ là hay chụp với bao vây bất ngờ. Tháng trước, nó mới làm một vố, tụi này thiếu điều rụi tùng!
– Vậy, địa phương họ có canh gác chặt chẽ không?
– Thường thường du kích, an ninh ở đây ban đêm tổ chức phòng vệ chu đáo lắm. Chỉ có những hôm tình hình động họ mới rút đi nơi khác.
– Thế còn ban ngày?
– Dạ, ban ngày thì cũng tùy bữa. Có bữa du kích ở đây. Có bữa kéo đi đâu mất biệt. Thường thường, họ chỉ tập trung ở Sở Cốt, rìa ấp chiến lược. Chỗ đó có rừng rậm, rút lui dễ. Ngoài ra có mấy tổ an ninh nguỵ trang, kiểm soát đường ra vào ấp chiến lược luôn luôn. Mình không ngại gì lắm. Nhưng ở đây, chủ yếu là hồn sanh ai nấy giữ. Phải lo hầm bí mật. Phải liệu đường rút lui. Tự lực lo lấy. Nếu không thì rán chịu.
– Đồng bào ngoài ấp chiến lược có ra vô đây thường không?
– Cũng có, nhưng ít lắm. Họ cũng sợ vô trong này bị nghi này nọ du kích bắt giữ khổ thêm ra. Nhưng đồng bào ở đây, sáng nào cũng đi ra chợ Suối Sâu nườm nượp. Người thì đi bán cá, bán gà, vịt, rau cải trái cây. Người thì đi chà gạo, mua đồ ăn, thực phẩm, vật dụng hàng ngày.
Tôi còn định «điều tra», «nghiên cứu» tình hình thêm cho thật kỹ, nhưng cậu ta lên tiếng:
– Thôi, bây giờ mình ngủ anh! Ngủ để khuya dậy sớm lo cơm nước, phòng ngừa bị đột kích bất ngờ. Mà ngủ, cũng phải sẽ thức mới được có gì hay liền. Không thì nguy lắm.
– Ừ, ngủ thì ngủ!
Miệng tôi tuy nói vậy, nhưng hầm thì nực nội, ngộp thở thế này làm sao ngủ được? Rồi trong hầm đầy những muỗi hết vo vo bên tai thì đốt ở chân. Hết chân tới tay, tới mặt, đập chanh chách không ngừng.
Ở căn cứ ban đêm rất vắng, gần như không tiếng động, ngoài những tiếng chim rừng. Trong đêm, chỉ đôi lần nghe tiếng phi cơ vào lúc đầu hôm và nửa đêm. Ngủ thì ngủ trên giường, giăng mùng cẩn thận. Ít khi nào nghe tiếng súng dù là tiếng súng đi săn.
Ở đây, chưa chi tôi đã suýt toi mạng vì một trận pháo hồi ban tối. Và bây giờ thì bốn bên pháo nổ inh tai.
Tôi nằm suy tính bâng quơ chờ giấc ngủ.
Theo tình hình này, về đêm ở đây không một ai thoát ra khỏi hầm trú ẩn thì cái chuyện canh gác ban đêm của du kích tất không thể nào có được.
Như vậy, muốn trốn thoát ra quốc lộ số 1 để đón xe đò về Sài Gòn thực hiện vào buổi tối là tốt nhất.
Nhưng nếu thoát được đến ấp chiến lược ban đêm, tôi sẽ ở đâu chờ đến sáng? Vì sáng ra mới có xe đò. Rồi làm sao tránh khỏi đám dân vệ, những lực lượng phòng thủ ấp chiến lược, đồn bót không nổ súng? Vậy cũng nguy. Làm thế nào đây?
Thêm một điều nữa, là với tự ái cá nhân, tôi muốn rằng tôi phải được về thẳng Sài Gòn, không bị lôi thôi dọc đường như bị các lực lượng kiểm soát Quốc Gia giữ lại.
Vì giấy căn cước của tôi, cũng như mọi giấy tờ liên hệ khác mà tôi giấu đút gìn giữ suốt hai năm trời ở Khu A, sau vụ trốn hụt ở đường 13, phòng ngừa những tai hoạ có thể xảy đến, nên khi về Cục Tham Mưu, trong một phút hoang mang mất bình tĩnh tôi đã ra rừng lén đốt tất cả.
Tôi phải làm như vậy vì tôi sợ người sẽ chú ý theo dõi tôi người ta sẽ bí mật lục soát bồng tôi những khi tôi bỏ quên đâu đó. Như vậy tôi sẽ ăn làm sao nói làm sao, khi người ta hỏi lý do tại sao đi kháng chiến chống Mỹ Diệm, là cán bộ các mạng lại giữ căn cước, giấy tờ của kẻ thù để làm gì? Tôi không phải là cán bộ vùng địch hậu, không là cán bộ công tác cần những giấy tờ hợp pháp đó. Vậy tôi giữ để làm gì nếu không phải là…
Thế đấy! Tôi sợ nên tôi lén thủ tiêu rồi!
Bây giờ tôi là thứ dân lậu, dân bất hợp pháp. Cảnh sát, công an, lính đồn sẽ điều tra tôi nghi ngờ tôi, nhìn tôi với con mắt không chút thiện cảm. Dù cho tôi có nói thật đến đâu đi nữa, bất quá người ta cũng chỉ đánh giá tôi là một kẻ bại trận đầu hàng.
Không! Điều đó không thể được. Nhất định không được. Tôi không bằng lòng chấp nhận như vậy. Bằng mọi cách tôi phải về đến Sài Gòn một cách suông sẽ. Tôi phải là tôi.
Bởi tôi là một kẻ bị bắt buộc làm cái công việc gọi là tham gia cách mạng, bị bắt buộc bằng sức mạnh, bằng tình cảm, bị đe doạ, tôi không làm khác hơn được. Giờ được dịp trốn thoát thì tôi trốn trở về nhà tôi, sống cuộc đời bình thường cuả ngày xưa.
Tôi không là kẻ thù, không là một người cầm súng chiến đấu cho một chiến tuyến nào, cho một mục đích nào thì việc gì tôi phải đầu hàng ai?
Quốc Gia ư? Quốc Gia đã không bảo vệ được cho tôi, giải thoát nổi cho tôi trong ba năm trời qua thì giờ này lấy tư cách gì để xem tôi như một kẻ đầu hàng, không xấu hổ ư?
Cho đến cả những hành động của tôi sau này cũng vậy. Tôi là một con người của tự do thì mọi việc làm của tôi không phải bị ràng buộc vào một khuôn khổ chính trị nào. Phải để tôi trọn quyền suy nghĩ và quyết định.
Cái chuyện người ta đã thách thức tôi, đã hành hạ tôi, đó là chuyện khác, thuộc phạm vi khác. Tôi sẽ làm gì để «đáp lễ» lại, chấp nhận lời thách thức đó theo cái kiểu nào, điều đó nhất định không sao tránh được nhưng «đáp lễ» như thế nào chấp nhận thách thức theo kiểu nào đều do tôi hành động lấy. Tôi phải chủ xướng. Không một ai có quyền ép uổng tôi phải như thế này hay như thế khác.
Do đó, tôi muốn tôi được thoát về tận Sài Gòn, tận nhà tôi và tôi hành động như một công dân tự do.
Khổ nỗi, giấy tờ, căn cước của tôi không còn nữa. Bây giờ trên đường đi, qua các trạm kiểm soát ai còn tin tôi nữa? Cả một sự rắc rối.
Quần áo tôi nhàu nát, cũ kỹ, dép râu như thế thật không thích hợp chút nào. Nhất định tôi sẽ bị để ý dọc đường bị xét giấy lôi thôi. Tôi cần phải có một cái lốt mới.
Tôi ngxhi đến việc phải may một bộ âu phục mới, một đôi giày v.v… Nhưng quần áo thì có thể được chứ, giày, thì nhất định không kham rồi. Ở đây người ta nghi ngờ thì nguy to, đứt đầu chứ đừng hòng trốn thoát.
Tôi nằm lan man nghĩ hết điều này đến điều kia, cho đến khi mòn đi trong giấc ngủ, chung quanh không ngớt tiếng pháo nổ oành oành và cái ngộp thở trong hầm đất, mồ hôi ra như tắm. Và thân thể tôi là bữa đại tiệc chiêu đãi bọn muỗi vầy đoàn tổ chức liên hoan.
Khi tôi thức dậy, mặt trời đã lên cao. Mọi người trong nhà không biết thức dậy từ bao giờ, có lẽ rất sớm.
Bảy, người phụ trách cơ sở thu mua của đoàn 82 cũng đã có mặt, ngồi xếp bằng bên bộ bình trà, trên manh đệm trải giữa nhà. Cậu thanh niên ngủ chung hầm với tôi và hai đồng chí cảnh vệ của tôi, ngồi vây quanh.
Tôi chui ra khỏi hầm, chào Bảy rồi đi súc miệng, trở vào nhà cùng với mọi người ăn cơm sáng. Bữa cơm với rau dền luộc tương kho và cá mòi hộp. Kể cũng sang chán.
Vừa ăn, tôi vừa hỏi anh Bảy:
– Anh Bảy nè, ở đây mình sống chung đụng với đồng bào, lại sát nách địch, mấy anh có phải nguỵ trang thành dân địa phương không?
– Dạ, có chứ anh! Bảy trả lời. Không địa phương hóa thì có ngày mình chết không kịp ngáp đó!
– Tôi nghĩ chẳng những cơ sở của anh mà bất cứ anh em nào đến công tác ở vùng này cũng vậy. Cũng nên địa phương hoá tác phong, ăn mặc, nói năng cho nó thích hợp. Có ngụy trang mới bảo mật và bảo vệ an ninh cho mình được, phải không anh?
– Dạ, đúng đó anh! Nhưng tiền ở đâu mà may sắm anh Tư? Nhà nước đâu có chịu cho mình. Phải tự lực lo lấy! Anh em mình «lưng túc» đâu đủ khả năng. Như tụi tôi cũng phải xin gia đình mới có.
Như vậy là những băn khoăn lo lắng của tôi đêm hôm qua không còn là vấn đề khó khăn nữa rồi. Việc may sắm cho tôi, chuẩn bị cho một cuộc trở về Sài Gòn sẽ không còn ai để ý đến nữa. Có đây, nó là một điều bình thường chứ không là bất thường, gây sự chú ý cho mọi người chung quanh. Dù vậy, tôi vẫn phải chuẩn bị «dư luận» trước.
Tôi vờ chép miệng:
– Chà, như tụi tôi ở đây cũng gay!
– Gay gì anh?
– Công tác của tụi tôi ở vùng này có lẽ còn lâu mới về căn cứ. Còn phải đi tới đi lui mà cứ nhỏng nhỏng, bẹo cái đôi dép râu, trưng cái bộ quân phục vải ta đen mốc thích, lại cứ xề xệ cây súng ngắn P.38 bên hông, khác nào cho gián điệp của địch nó biết: «Lạy ông tôi ở bụi này» Ngán chớ!
– Ủa! Nói vậy, anh còn ở đây lâu?
– Dà! Có công việc với anh chỉ là phụ thuộc. Chính yếu là công tác ở «Đoàn nghiên cứu kế hoạch chống xúc tác dân»
– Dạ…vậy mấy anh cũng nên ngụy trang. Anh có đủ phương tiện không?
– Phương tiện gì, anh?
– Phương tiện tài chánh. Ở đây miễn có tiền, cái gì cũng mua được hết.
– Tôi cũng có được vài ngàn.
– Ồ! Vậy là thừa thãi quá rồi. Anh đừng lo, để tôi lo cho. Ngay sáng nay cũng được nữa1
Tôi không ngờ sự thể quá tốt đẹp, thuận lợi đến đường này. Có lẽ Bảy đã hiểu lầm tôi, ngờ rằng tôi đến đây để điều tra vụ xung đột nghiêm trọng giữa cơ sở thu mua này với đồng bào địa phương. Trong cử chỉ của Bảy có vẻ e dè, lo lắng. Và sự vồn vã, chiêu đãi tôi có thể xuất phát từ nguyên nhân đó.
Tại sao tôi không biết lợi dụng hoàn cảnh này nhỉ? Cứ mập mờ, kéo dài tình trạng ỡm ờ, khoan nói chuyện mua hàng vội hay biết bao nhiêu. Tôi vẽ ra một kế hoạch trong đầu chuẩn bị tư thế thật nhanh và phải đẩy hai cậu cảnh vệ của tôi đi khỏi nơi đây mới thực hiện được.
Tôi bảo Bảy:
– Sáng nay tôi nhờ anh cho người dẫn hai đồng chí cảnh vệ của tôi đi liên hệ với Chi bộ xã để nhờ xã họ dẫn các đồng chí của tôi đến gặp đoàn công tác được chớ? Làm thế nào, nội trong vòng ngày mai các đồng chí ấy trở về đây, hướng dẫn tôi đến đó. Bây giờ thì tôi chưa biết địa điểm của Đoàn đóng ở đâu.
Bảy mau mắn
– Dạ, được anh!
Tôi phân công tác cho hai đồng chí cảnh vệ của tôi ngay trong bữa ăn:
– Ăn cơm xong, hai đồng chí theo người của anh Bảy đây, đến liên hệ với chi bộ xã. Sau đó hai đồng chí nhờ chi bộ cho người hướng dẫn đến xã Gia Lộc tìm gặp Ban Chỉ huy Đoàn công tác, trao cái thư của anh Ba Long cho các đồng chí ấy. Loay hoay tìm cho được Ban Chỉ huy Đoàn có lẽ cũng đến chiều tối là ít. Tối nay các đồng chí ngủ lại đó. Sáng mai, chờ trưa, thấy tình hình êm, các đồng chí hãy về đây cho tôi hay. Hai đồng chí rõ chứ?
– Dạ báo cáo anh Tư, rõ ạ!
– Hai đồng chí có còn hỏi gì không?
– Dạ…không!
– Ăn cơm xong tôi sẽ đưa thư cho hai đồng chí.
Để lấy lòng và gây phấn khởi cho hai đồng chí cảnh vệ, tôi nói thêm.
– Xong công tác này tôi sẽ giúp hai đồng chí liên lạc với gia đình. Móc gia đình lên đây thăm chơi vài hôm. Hai đồng chí vui chứ?
Đồng chí B phó của tôi, đôi mắt sáng rỡ, ấp úng:
– Dạ…dạ, báo cáo anh, được vậy thì…không gì tuyệt bằng. Cám ơn anh chiếu cố tới tụi tôi. Nhưng…
– Nhưng gì?
– Dạ….sợ khi về đoàn 87, Ban Chỉ huy tụi tôi kiểm thảo về tội tự ý liên lạc gia đình, không xin phép đảng ủy trước.
Điều lo sợ của hai đồng chí cảnh vệ của tôi là chuyện tất nhiên. Bởi từ trước đến giờ, việc liên lạc với gia đình, móc gia đình đến thăm, đối với tất cả cán bộ, chiến sĩ ở chiến khu là một đặc ân của Đảng.
Không phải ai cũng được phép liên lạc với gia đình. Có nhiều «cán bộ mùa thu» từ Bắc về đã ba bốn năm nay vẫn chưa được hưởng đặc ân đó. Với «cán bộ mùa đông», chiến sĩ mới tham gia cách mạng thì là cả một vấn đề.
Đảng không đưa ra một tiêu chuẩn nào, cũng không xác định một chính sách nào rõ rệt về vấn đề này. Nó hoàn toàn tùy thuộc và sự phán xét của Ban Chỉ huy và Đảng ủy của mỗi đơn vị, dựa vào tình hình công tác, tình hình quản lý nội bộ, cũng như quá trình tư tưởng, tinh thần công tác, lập trường cách mạng của cá nhân trong đơn vị mình. Ấy là chưa kể đến việc kiểm tra lý lịch, xét thành phần của gia đình v.v…
Cho nên, ở chiến khu, bất kỳ cán bộ chiến sĩ nào muốn liên lạc với gia đình, phải đề nghị lên Ban Chỉ huy, cụ thể là chính trị viên của đơn vị. Mà chính trị viên, luôn luôn và bao giờ cũng là Bí thư cấp ủy. Chính trị viên sẽ đưa ra cuộc họp chi bộ, cuộc họp thường vụ cấp ủy thảo luận để lấy quyết nghị cho phép hay không.
Có những trường hợp mọi người trong cuộc họp đều đồng ý cho phép một cá nhân nào đó được phép liên lạc gia đình nhưng chính trị viên nhân danh Đảng ủy xét thấy….không có lợi, thì kể như không. Ngược lại, có nhiều trường hợp chính trị viên đồng ý nhưng cấp ủy không đồng ý thì kể như…huề.
Đó là trường hợp của những cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Còn riêng Ban Chỉ huy đơn vị, muốn liên lạc gia đình thì lại phải báo cáo lên cấp trên, chừng nào ở cấp trên cho phép mới đi được.
Do đó, việc xin được phép liên lạc gia đình là cả một vấn đề phiền toái, rắc rối, cả một sự may mắn, không phải bất cứ ai, bất cứ lúc nào cũng có thể liên lạc gia đình được.
Tôi hiểu sự băn khoăn của đồng chí B phó cảnh vệ. Tuy hai đồng chí ấy được phân công theo bảo vệ tôi và cũng có nghĩa là kiểm soát tôi, nhưng hai đồng chí ấy và tôi thuộc hai đơn vị khác nhau. Tôi thuộc Cục Tham Mưu, dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của anh Ba Long, tức trung tướng Lê Trọng Tấn.
Còn hai đồng chí cảnh vệ lại thuộc đơn vị đoàn 87, tức trung đoàn bảo vệ R, bảo vệ căn cứ Bộ Chỉ huy Ba Cục. Đi công tác với tôi, dù chịu sự điều khiển của tôi trong thời gian «biệt phái», nhưng hai đồng chí cảnh vệ vẫn phải chịu trách nhiệm trước đơn vị gốc của mình là đoàn 87, mỗi khi có khuyết điểm nào xảy ra.
Tôi trấn an đồng chí B phó cảnh vệ:
– Không sao! Các đồng chí đi công tác với tôi thì tôi trọn quyền quyết định trong thời gian này. Nếu tôi cho phép các đồng chí liên lạc gia đình là khuyết điểm, là lỗi thì lỗi đó không phải do các đồng chí. Có ai phê bình, thì phê bình tôi. Và nếu có «cạo» tôi thì chỉ có anh Ba Long «cạo» tôi, chứ Ban Chỉ huy Đoàn 87 không ăn nhầm vào đâu hết. Hai đồng chí yên tâm đừng lo. Có gì, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc này.
– Dạ…nếu anh đồng ý và hứa nhận trách nhiệm cho tụi này thì cám ơn anh lắm lắm.
– Được! Hai đồng chí cứ yên tâm! Để tôi nhờ anh Bảy kiếm dùm người liên lạc hộ cho. Được chứ anh Bảy?
– Dạ, được anh! Ở đây có mấy bà già chuyên môn đi móc nối gia đình cho cán bộ. Chỗ nào khó khăn, xa xôi mấy cũng kiếm được. Nói ngay, có tiền thì việc gì cũng xong.
Ăn cơm xong, hai đồng chí cảnh vệ của tôi đi rồi tôi liền nhờ anh Bảy thu xếp giúp việc may quần áo và mua dép cao su. Bảy đưa tôi đi một vòng quanh xóm, đi đến nhà của một người đàn bà chuyện đi mua hàng hưởng lời cho cơ sở. Chị ta đeo vòng vàng loè loẹt ở cổ, ở tay, trong chướng mắt hết sức.
Ở nhà chị ta ra, Bảy lại đưa tôi đến thăm anh thợ may ở đầu xóm. Tuy anh ta không mua trữ những loại hàng đắt giá, bởi may ở đây, khách hàng chỉ có loại cán bộ, chiến sĩ ở địa phương hoặc những nơi khác đến công tác, nhưng cũng có sẵn Tergal, Nyl-France.
Tôi yêu cầu anh ta may gấp cho tôi một bộ, tối nay ráng cho xong để sáng mai tôi đến lấy sớm đi công tác. Tôi phải năn nỉ anh ta mãi và chịu trả tiền công đắt gấp rưởi, anh ta mới bằng lòng.
Vậy là xong, tôi đã quyết định rồi. Sáng mai, tôi phải rời khỏi nơi đây, trước khi hai đồng chỉ cảnh vệ của tôi về đến.
Ra khỏi nhà anh thợ may, tôi chợt nghe tiếng động cơ xe hơi rồ máy không xa lắm. Tôi nói với Bảy.
– Anh Bảy! Tiếng xe rồ máy nghe sao mà gần quá anh Bảy? Coi chừng xe lội nước nó càn vào đây mình chạy không kịp đó.
Bảy dường như không quan tâm, cười với tôi:
– Không phải đâu! Xe nó chạy trên đường đó, anh! Có bữa xuôi gió nghe còn gần hơn nữa kìa! Anh có muốn coi xe không?
Muốn? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm, nhưng không tiện nói trước đó thôi. Địa hình ở đây tôi muốn biết rõ đường đi nước bước, cũng như tình hình canh gác, sinh hoạt của địa phương để chuyến ra đi của tôi không nguy hiểm, không gặp một trở ngại nào. Sơ xuất một chút, hớ hênh một ly, điều nghiên không kỹ là tôi khó sống rồi.
Nghe Bảy hỏi, tôi cố giấu cảm xúc mình, vờ như không:
– Lâu dữ, mấy năm rồi tôi cũng chưa được nhìn thấy chiếc xe đò. Bây giờ được xem cũng hay, nhưng liệu có nguy hiểm gì không, anh?
– Dạ, chẳng hề gì đâu! Mình đạp xe lại ven cây đó, núp cẩn thận, nhìn ra thấy rõ bong. Quốc lộ số 1 nổi cao trên mặt ruộng, thấy rõ lắm.
– Ừ, ta đi xem một chút đi!
Bảy đạp xe vượt lên trước dẫn đường, băng qua một đám đậu phộng xanh om. Đến ven cây, tôi dựng xe vào hàng trúc, bước lại hàng bã đậu sát bờ ruộng.
Núp sau thân cây, tôi nhìn ra quốc lộ số 1 chạy ngang trước mặt tôi, cách một đám ruộng trống chừng năm trăm thước. Khoảng cách ngắn thế thôi nhưng với riêng tôi, muốn đi được từ đây đến đó thực còn khó hơn vượt cả quãng đường nghìn dậm từ Nam ra bắc. Muốn đi phải là cả một sự tính toán, nghiên cứu, chuẩn bị nhiều công.
Trên mặt lộ, xe đò chiếc vàng, chiếc xanh chiếc đỏ nối đuôi nhau di chuyển, tôi nhìn với tất cả sự thèm khát và không nén được tiếng thở dài.
Thấy chúng tôi đứng nhìn xe bên hàng bã đậu, mấy người đàn ông cuốc đất ở gần đấy bỏ cuốc, đứng nhìn chúng tôi như quan sát, xoi mói, như muốn biết nguyên cớ tại sao chúng tôi có mặt ở «cửa ải» này. May quá là có Bảy, anh ta ở đây lâu. Mọi người đều quen mặt, nếu không, hẳn là phiền hà rồi.
Tôi xem đây là phần chuẩn bị đợt đầu. Tôi cần phải hỏi kỹ Bảy. Tôi nói nhỏ, vừa đủ nghe:
– Anh Bảy nè! Mấy ông đứng cuốc đất làm gì mà dòm mình lom lom vậy:
– An ninh ở đây đó, anh! Mấy ổng giả làm đồng bào nông dân ở đây, ngày nào cũng cuốc, cũng xới mà chẳng trồng gì hết. Họ đón cái ngõ này đó. Tại thấy anh lạ mặt, lại mò ra đây nên họ chú ý đó thôi.
– Nếu vậy, con đường này thông thương ra tới đường số 1 sao?
– Dà!
Bảy đưa tay chỉ ven cây xanh bên kia đám ruộng:
– Đó! Bên đó là ấp chiến lược Suối Sâu. Con đường này là con đường tắt qua ruộng đi vào phía dưới đồn Suối Sâu. Đồng bào ở đây đi chợ, toàn đi đường này. Bờ mẫu khó đi nhưng gần. Đi đường phía bên sở Cốt thì xa. Đường mòn lẵn hết đó, anh.
Tôi thầm soát lại trong đầu kế hoạch chuẩn bị của tôi. Quần áo xem như đã xong rồi. Dép cao su cũng đã gởi mua. Như vậy, về hình thức «hợp pháp» xem như hợp pháp chán! Ngày mai, khi lên đường, tôi sẽ bỏ lại tất cả, từ chiếc xe đạp đến cái bồng đầy quần áo, vật dụng cho đến cả sợi thắt lưng lẫn khẩu súng lục P-38.
Tôi sẽ đi như một kẻ đi chơi, nhàn hạ. Tôi ném lại quá khứ, dĩ vãng như làn sương mỏng, lúc mặt trời lên. Sau khi tôi đi, chà! Vui đấy! Tôi tưởng tượng đến khuôn mặt ngơ ngác của hai đồng chí cảnh vệ của tôi khi trở về không gặp tôi. Rồi đùng một cái, tin tôi bị «mất tích» loan ra…
Tự dưng tôi mỉm cười.
Con đường ngày mai tôi đi sẽ là con đường này. Những anh chàng «nông dân giả hiệu» không biết họ có mặt ở đây từ lúc nào trong ngày. Dù sao, sáng họ cũng phải ăn sáng chuẩn bị chống càn như thói quen thường ngày và quy luật ở đây. Tôi sẽ nhập bọn với những người đàn bà đi chợ sáng.
Ừ, vậy thì phải kiếm một cái giỏ xách nylon, một cái nón lá. Có thể, vừa giấu được mặt, vừa làm cho người ta lầm tưởng tôi là một chú Ba Tàu ở một tiệm chạp phô nào đó, quanh đây. Khi đi ngang cửa ải này, những chú «nông dân giả hiệu» nếu không ở sát đường đi, không tài nào phát giác nổi.
Nghĩ đến đây, tôi quay sang bảo Bảy:
– Thôi, mình về anh! Đứng ở đây lâu cũng không tiện lắm!
Bảy dạ khẽ một tiếng rồi theo tôi đi lại hàng trúc đạp xe về nhà.
Sau bữa ăn trưa, tôi muốn đi quan sát lại lần nữa việc đi lại cũng như sinh hoạt của đồng bào trong xóm. Nhất là tôi muốn tìm một cái giỏ xách nylon và chiếc nón lá. Việc này, tôi phải đi một mình. Có Bảy thì có thể gặp khó khăn cho tôi.
Để tránh sự phát giác của Bảy, tôi dùng đến cách cầm chân Bảy ở nhà và «phủ đầu» anh ta phát sốt lên chơi. Tôi bảo anh ta:
– Anh Bảy nè, nhà chú Bảy mà mấy anh bắn gảy tay đó ở chỗ nào đâu anh?
Bảy giật mình, nhìn tôi ấp úng
– Dạ…dạ…chi vậy?
– Tôi phải đến thăm người ta một chút mới được.
Bảy lo lắng:
– Dạ vụ này Ban Chỉ huy Đoàn 82 đã báo cáo về R rồi hả anh Tư?
– Rồi!
– Dạ, ý kiến ở trên về vụ này thế nào?
Tôi lợi dụng tình thế, úp mở «hù» cho anh ta sợ
– Hiện giờ thì chưa có ý kiến gì rõ rệt đâu. Để tôi đi xem qua và liên hệ với địa phương cái đã! Nhưng đàng nào, dù phải dù trái anh cũng phải chịu trách nhiệm về việc đáng tiếc này. Đụng chạm với nhân dân bao giờ lỗi cũng về phần mình. Đúng chứ, anh?
Bảy đáp xuôi xị
– Dạ, đúng!
– Mấy nhà quanh xóm đây chắc đều là bà con của chú Bảy?
– Dạ, chỉ có vài nhà thôi.
Tôi nhìn Bảy, nghiêm trang:
– Tôi muốn đến chơi, thăm qua bà con trong xóm một tí.
– Dạ, để tôi đưa anh Tư đi
Tôi gạt phăng:
– Thôi anh ở nhà. Một mình tôi đi được rồi. Có anh thêm bất tiện.
Bảy thở dài chép miệng
– Khổ thiệt! Lính của tôi nó hại tôi mà!
Những lời nói úp mở của tôi càng làm cho Bảy ngỡ là tôi có nhiệm vụ điều tra sự rắc rối kể trên. Mặt của Bảy xịu xuống đến buồn cười.
Tôi bước ra đường, men theo hàng tre rợp bóng, đến căn nhà ngói ở phía trước. Một bác nông dân già, cỡi trần, bịt khăn đầu rìu ngồi đan rỗ ở hàng ba.
Tôi lửng thửng bước vào:
– Dạ, chào bác!
Bác nông dân ngẩng đầu lên nhìn tôi rồi nhìn xuống, tiếp tục đan rỗ, lạnh lùng:
– Ờ! Chào chú!
Bác ta không muốn tiếp chuyện tôi ư? Không sao cả. Thế lại càng hay cho tôi. Tôi bắt đầu làm quen:
– Dạ, bác đan rỗ để dùng hay bán vậy bác?
– Dùng trong nhà chớ bán gì! Chú tới chơi, có chuyện gì hông chú?
– Dạ cháu từ xa mới tới đây hồi sáng. Cháu muốn được hỏi thăm bác về chuyện chú Bảy đàng kia với mấy anh em cơ sở thu mua.
– Bộ chú về đây điều tra đó hả?
– Dạ!
– Ờ!
Bác ta ngẩng đầu lên, ngưng tay đan:
– Thì còn làm sao nữa! Gài lựu đạn cho con người ta gảy giò. Rồi còn vác súng bắn người ta gảy tay. Rõ như ban ngày, chú còn hỏi gì nữa?
– Dạ, cháu có biết. Mấy anh em đó họ có lỗi trăm phần trăm rồi. Ở trên sẽ có biện pháp kỷ luật…
– Biện pháp gì? – Bác ta ngắt lời tôi- Năm sáu ngày nay mấy đứa nó cứ vác súng đi nhởn nhơ trong xóm. Có ai dám làm gì nó đâu?
– Dạ, thưa bác chuyện đâu còn có đó. Gây nên tội, phải chịu tội, chạy làm sao khỏi, bác!
– Tui nói thiệt tui chẳng có bà con gì với chú Bảy nhưng tui thấy giận quá. Chú đừng giận, tánh tui ăn ngay nói thẳng, chú cho tui hỏi một câu?
– Dạ cháu không dám! Xin bác cứ hỏi.
Bác ta nhướng mi, lỏ mắt ra:
– Nè chú! Mấy chú hô mấy chú đi làm cách mạng, nhưng cách mạng là gì vậy chú?
Tôi nhăn nhó với vẻ mặt khốn khổ:
– Dạ, tội nghiệp cháu mà bác! Bác giận mấy anh em đó rồi bác giận lây tới cháu. Mấy anh em đó thì bậy quá sức như bác thấy. Đồng bào cho mình ăn, nuôi mình sống, mà gài lựu đạn cho đồng bào gảy cẳng, bất nhân bất nghĩa quá rồi.
Bác ta có vẻ dịu xuống:
– Ấy! Còn cái chuyện thằng em tui nó còn tức trẹo bảng họng hơn nữa. Sẵn chú đi điều tra thì tui nói cho chú nghe luôn.
– Dạ sao bác?
– Mấy thằng du kích ở xã Phước Hiệp, mắc ông mắc cha gì mà đem mìn gài ngay đường xe bò đi lộ số 6. Thằng em tui, bữa đó đánh xe ra đồng chở rơm về cho bò ăn. Cái xe tanh bành. May mà thằng em tui nó chỉ bị thương sơ sơ. Chú biết không?
– Dạ…
– Chú biết cặp bò kéo xe được bây giờ giá đáng bao nhiêu hông? Cả trăm ngàn đồng! Cái xe cũng mấy chục ngàn nữa?
– Dạ…
– Tụi nó đã không chia buồn, xin lỗi, thường bồi thì chớ lại còn tới nhà bắt lỗi thằng em tui. Tụi nó nói mìn nó để gài xe tăng, tại sao làm nổ mất trái mìn của tụi nó… Vậy thì trái mìn của tụi nó nặng 10 kí, thằng em tui phải thường cho tụi nó mười ngàn đồng. Mỗi kí một ngàn, chú nghe coi có nổ lỗ tai, điếc con ráy chưa?
– Trời đất! Có chuyện lạ đến như vậy sao bác?
– Chú cho là lạ lắm sao? Chuyện mới ràng ràng hồi tháng trước. Ở đây, ai mà không biết!
Dù sao, cho đến giờ phút này, tôi vẫn còn là một cán bộ, tôi có phần nào trách nhiệm tôi phải biết nói một câu cho hợp lý, hợp lẽ. Ít ra, nó cũng là một biểu hiện giá trị của con người tôi, con người có nhân tính:
– Dạ thưa bác, những chuyện đó bậy lắm. Cách mạng không bao giờ dung túng và chấp nhận cho những cán bộ địa phương làm bậy, trái với đường lối chánh sách chung. Cháu rất lấy làm tiếc và xấu hổ khi được bác cho biết chuyện đó.
Thái độ của bác nông dân già có vẻ xúc động. Bác ta đứng dậy mời tôi vào nhà uống nước. Có lẽ từ trước đến giờ, chưa bao giờ bác nghe được một lời nhã nhặn biết phải biết quấy của cán bộ địa phương. Dưới mắt bác, tất cả là một sự vô lý, thù hằn.
Sau một hồi cởi mở, kể mọi chuyện về địa phương, tôi hỏi bác:
– Dạ, thưa bác, ở gần đây có chỗ nào bán xách nylon hay xách mây gì không bác?
– Không! Chi vậy chú?
– Dạ, cháu muốn mua một cái để nguỵ trang, xách đồ đạc đi tới đi lui cho tiện. Mang bồng mang túi nó lộ quá. Đi lại ở vùng này không tiện chút nào.
– Vậy ra chú còn ở đây lâu sao?
– Dạ, chuyện điều tra đâu phải một ngày một buổi mà xong bác!
– Ừ, ha!
Tôi nói thêm
– Với lại trong việc điều tra, cháu không muốn bị địa phương ở đây để ý, dòm ngó chi, làm cản trở công tác của cháu.
Bác ta cười vui vẻ:
– Ờ hay! Ý kiến của chú tôi nghe thông rồi. Được! Chuyện gì chớ chuyện điều tra hành động của mấy thằng phá xóm phá làng ở đây, tui giúp liền. Để tui kiếm cho.
– Dạ, vậy thì quý quá bác! Cháu xin cảm ơn bác. Và nếu bác kiếm thêm dùm cho cháu được cái nón lá thực không còn gì hơn.
Bác ta xì một tiếng:
– Ối! Tưởng gì! Dễ ụi hè chú! Xách mây, bà nhà tui bả có hai cái. Để tui nói bả nhường lại cho chú một cái. Còn nón là thiếu gì. Có điều là cũ đa! Tui cho chú một cái liền bây giờ.
Như sực nhớ điều gì, bác ta vỗ đùi đánh đét một cái:
– Ờ! Nè chú! Nhà tui mới cắm câu được mấy con cá lóc bự, lát nữa tui bắt cho chú một con đem về nước nhậu chơi. Chú biết nhậu chớ?