Ngày Đông Chí
Tiếng nhạc làm cậu tỉnh giấc. Âm thanh ấy như mời gọi cậu, du dương, réo rắt; một thứ nhạc êm ái phát ra từ những loại nhạc cụ tinh tế nào đó mà cậu không nhận ra được, nó tạo ra một chuỗi âm thanh reo lanh canh vui vẻ như có ai đang rung những quả chuông vàng. Tiếng nhạc chứa đựng phép màu sâu xa nhất từng ẩn chứa trong những giấc mơ, trong những điều tưởng tượng của cậu khiến cậu bừng tỉnh và nở nụ cười trong niềm hạnh phúc thanh khiết khi nghe thấy nó. Đúng lúc cậu sắp tỉnh hẳn thì tiếng nhạc bắt đầu lặng dần nhưng nghe vẫn như đang mời gọi, và khi cậu mở mắt ra thì nó đã tắt hẳn. Những chuỗi âm thanh lanh canh giờ chỉ còn vang lên trong trí nhớ của cậu, và chính hồi ức ấy cũng biến đi quá nhanh đến nỗi cậu ngồi bật dậy trên giường, giơ tay ra như thể cậu có thể mang nó quay trở lại.
Căn phòng lặng như tờ, không nghe thấy tiếng nhạc nào, nhưng Will biết đó không phải là một giấc mơ.
Cậu vẫn đang ở trong phòng của hai anh em sinh đôi; cậu có thể nghe thấy tiếng thở chậm và sâu của Robin vọng đến từ chiếc giường kia. Ánh sáng lạnh lẽo lờ mờ quanh mép tấm rèm treo cửa, nhưng vẫn chưa thấy ai động tĩnh gì; giờ này vẫn còn sớm lắm. Will chui vào bộ quần áo nhàu nát cậu mặc từ hôm qua rồi nhẹ nhàng lẻn ra khỏi phòng. Cậu đi dọc hành lang đến bên cửa sổ chính giữa để nhìn ra ngoài.
Đập ngay vào mắt cậu là ánh sáng chói lòa của một khung cảnh vừa quen vừa lạ, tất cả đều sáng trắng lên lấp lánh: mái của những ngôi nhà phụ vươn lên thành những tháp tuyết vuông vắn, và ở bên phía sau chúng, những cánh đồng và hàng rào cũng bị chôn vùi hoàn toàn, hòa vào với nhau thành một bề mặt phẳng lì, trắng toát, mênh mông trải ra đến tận đường chân trời. Will sung sướng hít một hơi dài, lặng lẽ tận hưởng tất cả. Thế rồi, rất khẽ, cậu lại nghe thấy tiếng nhạc, vẫn bản nhạc ấy. Cậu quay ngoắt lại, cố gắng tìm kiếm cứ như có thể nhìn thấy được nó đâu đó trong không gian kia như nhìn thấy một tia sáng mong manh vậy.
“Mày ở đâu thế?”
Tiếng nhạc lại biến mất. Và khi cậu quay lại nhìn qua khung cửa sổ, cậu phát hiện ra khung cảnh mà chỉ cậu mới nhìn thấy vừa rồi đã biến mất cùng bản nhạc ấy. Chỉ trong tích tắc thôi mà mọi vật đã thay đổi. Tuyết vẫn còn đó nhưng giờ đây không còn chất đống trên mái nhà hay phủ trắng những thảm cỏ và cánh đồng nữa. Giờ không còn mái nhà, cũng chẳng còn cánh đồng. Chỉ có cây. Will nhìn thấy một cánh rừng rộng lớn toàn một màu trắng toát: cánh rừng đầy những cái cây khổng lồ, sừng sững như những ngọn tháp và cổ kính như những tảng đá. Chúng trơ trọi chẳng có một cái lá, chỉ có lớp tuyết dày phủ trên tất cả các cành, đến tận những nhánh nhỏ nhất. Đâu đâu cũng thấy cây. Cây bắt đầu mọc lên ở ngay sát ngôi nhà đến nỗi khi nhìn qua những cành cao nhất của cây gần nhất thì tưởng như nếu dám mở cửa, cậu có thể thò tay ra nắm được chúng mà lắc. Rừng cây trải ra xung quanh đến tận đường chân trời xa xa cuối thung lũng. Khoảng đứt đoạn duy nhất trong thế giới trắng xóa những cành nhánh ấy là phía Nam, nơi có con sông Thames chảy qua; cậu có thể nhìn thấy cả nơi dòng sông lượn vòng thành hình một con sóng bất động đơn độc trên cái đại dương rừng trắng mênh mang kia, và hình dáng của nó khiến cho dòng sông trông có vẻ như rộng hơn so với bình thường.
Will cứ nhìn, nhìn mãi, rồi cuối cùng khi nhúc nhích thì cậu phát hiện ra tay mình đang nắm chặt cái vòng tròn sắt đã được luồn vào thắt lưng. Miếng sắt ấm lên trong lòng bàn tay cậu.
Cậu quay lại phòng ngủ.
“Robin!” Cậu gọi ầm lên. “Dậy đi!” Nhưng Robin vẫn thở chậm rãi, đều đều như trước, và chẳng buồn động đậy.
Cậu chạy sang phòng ngủ bên cạnh, căn phòng nhỏ thân thuộc mà trước kia cậu đã chia sẻ cùng James, và lay vai James rất mạnh. Nhưng mặc kệ, James vẫn năm yên, ngủ say sưa.
Will lại đi ra hành lang, hít một hơi thật sâu rồi lấy hết sức la toáng lên: “Dậy thôi! Mọi người ơi, dậy đi!”
Giờ thì cậu chẳng mong chờ có ai đó sẽ đáp lại nữa, và quả đúng như vậy. Một sự yên lặng sâu thẳm và vô tận bao trùm như đám tuyết phủ ngoài kia; cả ngôi nhà và mọi người đều đang chìm sâu trong một giấc ngủ say không gì có thể đánh thức dậy được.
Will xuống cầu thang, đi ủng, khoác chiếc áo choàng bằng da cừu vốn đã qua tay hai hay ba ông anh trai trước khi được chuyển giao cho cậu. Rồi cậu đi ra ngoài qua lối cửa sau, khẽ khàng đóng cánh cửa lại sau lưng và đứng đó nhìn xuyên qua đám hơi nước tỏa ra từ hơi thở của mình.
Cái thế giới trắng xóa kỳ lạ trải dài trước mắt cậu trong không gian tĩnh mịch. Không một tiếng chim hót. Không còn thấy khu vườn nhà cậu đâu trên mảnh đất mênh mông rừng ấy. Không có những ngôi nhà phụ, cũng không còn những bức tường cũ đổ nát. Giờ đây xung quanh ngôi nhà chỉ chừa lại một khoảng trống hẹp với những đụn tuyết nối nhau liên tiếp trước bìa rừng và một con đường nhỏ dẫn ra ngoài. Will chậm rãi đi xuống con đường ba bề bốn bên toàn một màu trắng toát như đường hầm ấy, chân bước thật cao để tránh cho tuyết khỏi rơi vào trong ủng. Khi vừa bước chân rời khỏi ngôi nhà, ngay lập tức cậu cảm thấy mình thật cô đơn, và cậu buộc mình phải bước tiếp mà không được quay lại nhìn vì biết rằng nếu quay lại, cậu sẽ không còn thấy ngôi nhà ở đó nữa.
Cậu chấp nhận mọi thứ đang tràn vào tâm trí cậu mà không suy nghĩ hay thắc mắc gì, như thể đang trong một giấc mơ. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, cậu vẫn biết rằng không phải mình đang mơ. Cậu hoàn toàn tỉnh táo, trong một ngày Đông Chí, cái ngày đã chờ đợi sự tỉnh giấc của cậu ngay từ khi cậu mới chào đời, và chính cậu, không hiểu bằng cách nào, cũng biết được điều đó, từ rất lâu rồi, hình như từ hàng thế kỷ hước. Còn ngày mai sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng… Will đã ra khỏi lối đi nhỏ có mái vòm trắng, bước vào một con đường phủ tuyết mịn với hai hàng cây san sát cao vút ở hai bên, và cậu ngước lên nhìn qua đám cành cây, thấy một con quạ đen lẻ loi chậm chạp vỗ cánh bay qua, xa tít trên bầu trời buổi sớm.
Cậu rẽ phải đi vào con đường hẹp mà thời kỳ đó người ta vẫn gọi là đường Thung Lũng Thợ Săn. Đây là con đường mà cậu và James thường đi để đến Trại Dawson, con đường đã in dấu chân hàng ngày của cậu, nhưng bây giờ trông nó thật khác. Bây giờ nó chỉ còn là một lối mòn xuyên qua cánh rừng, hai bên dày đặc cây cối với cành nhánh trĩu nặng tuyết. Will bước đi trong im lặng, đôi mắt sáng quan sát xung quanh, cho đến khi bỗng nhiên cậu lại nghe thấy một tiếng động rất khẽ ở phía trước.
Cậu đứng yên. Âm thanh đó lại vang lên, xuyên qua đám cây rậm rịt: một tiếng gõ nhịp nhàng nhưng lạc điệu, nghe như tiếng búa đập vào kim loại. Nó vang lên thành từng đợt ngắn không đều giống như ai đó đang đóng đinh. Trong khi cậu đứng yên lắng nghe, cảnh vật xung quanh dường như đã sáng hơn một chút; cây cối như đỡ dày đặc hơn, tuyết sáng lên lấp lánh, và khi ngước nhìn lên, cậu thấy khoảng trời phía trên đường Thung Lũng Thợ Săn đã biến thành một dải màu xanh biếc. Cậu nhận ra cuối cùng mặt trời đã lên cao qua khỏi mảng mây xám ảm đạm.
Cậu tiếp tục lê bước về phía tiếng búa, và chỉ một lúc sau đã đến được một khoảng rừng trống. Tất cả chỉ có vậy, chẳng thấy làng Thung Lũng Thợ Săn đâu cả. Ngay lập tức, tất cả giác quan của cậu bừng tỉnh dưới một cơn mưa bất ngờ những tiếng động, cảnh vật và mùi vị. Cậu nhìn thấy hai, ba tòa nhà thấp xây bằng đá, mái nhà phủ một lớp tuyết dày; cậu thấy làn khói xanh của củi đốt bay lên, và cũng ngửi thấy mùi khói, đồng thời có cả hương thơm quyến rũ của bánh mì mới ra lò khiến cậu chảy nước miếng. Cậu nhìn thấy tòa nhà gần nhất chỉ có ba bức tường, cửa mở ra phía đường đi, trong nhà một ngọn lửa vàng đang cháy sáng rực trông như mặt trời bị nhốt bên trong. Hàng chùm những tia lửa bắn tóe ra từ chiếc đe nơi một người đàn ông đang quai búa. Đứng bên cạnh chiếc đe là một con ngựa ô cao lớn, tuyệt đẹp; Will chưa bao giờ nhìn thấy một con ngựa nào như vậy, màu lông đen tuyền thăm thẳm như bóng đêm, không một vết trắng nào.
Con ngựa ngẩng đầu nhìn thẳng vào cậu, chân gõ xuống đất và hí lên khe khẽ. Người thợ rèn cất tiếng làu bàu, và rồi một người khác bước ra khỏi bóng tối phía sau con ngựa. Will thở dốc khi nhìn thấy người đó, cổ họng cậu bỗng nhiên trống rỗng. Cậu không hiểu tại sao.
Người đàn ông đó rất cao, khoác một chiếc áo choàng đen rủ xuống như áo thụng; tóc ông ta mọc dài quá cổ và sáng lên một màu đỏ kỳ lạ. Ông ta vỗ vỗ cổ con ngựa, thì thầm vào tai nó; rồi dường như cảm nhận được lý do khiến con ngựa có vẻ bất an như vậy, ông ta bèn quay lại và nhìn thấy Will. Cánh tay ông ta đột ngột buông thõng xuống. Ông ta bước lên phía trước một bước rồi đứng đó chờ đợi.
Đám tuyết và bầu trời bỗng tối sầm lại và buổi ban mai trở nên mờ mờ tối, khi một lớp mây mỏng ở phía xa xa bay tới nuốt chửng vầng mặt trời.
Will bước qua đám tuyết trên con đường, tay thọc sâu vào trong túi. Cậu không nhìn vào cái dáng người cao lớn mặc áo choàng trước mặt. Thay vào đó, cậu chăm chăm nhìn vào người đàn ông kia, giờ đã lại cúi người trên chiếc đe, và nhận ra là mình có biết ông ta; đó là một người ở Trại Dawson. Bác John Smith[2], con trai cụ George.
“Chào bác John,” cậu lên tiếng.
Người đàn ông vai rộng, mặc một chiếc tạp dề bằng da, ngước nhìn lên. Bác khẽ cau mày rồi gật đầu chào. “À Will đấy à. Cậu ra ngoài sớm thế.”
“Hôm nay sinh nhật cháu mà,” Will đáp lời.
“Sinh nhật vào ngày Đông Chí,” người đàn ông lạ mặt khoác chiếc áo choàng thốt lên. “Thật là đầy hứa hẹn. Vậy là cậu đã mười một tuổi rồi đấy nhỉ.” Đó là một câu khẳng định, không phải là câu hỏi. Bây giờ thì Will buộc phải nhìn ông ta. Đôi mắt sáng xanh màu nước biển đi kèm với mái tóc nâu đỏ, giọng nói ông ta nghe rất lạ, không phải giọng của người miền Đông Nam.
“Đúng vậy ạ.”
Một người phụ nữ xuất hiện từ phía những ngôi nhà tranh gần đó, tay ôm một cái giỏ đựng đầy những ổ bánh mì nhỏ tỏa ra mùi thơm của bánh vừa nướng mà lúc nãy đã quyến rũ Will biết bao. Cậu khịt khịt mũi, bụng sôi lên nhắc nhở cậu về bữa sáng vẫn chưa ăn. Người đàn ông tóc đỏ lấy một ổ bánh mì, bẻ đôi và đưa cho cậu một nửa.
“Đây. Cậu đói rồi đấy. Xin chúc mừng sinh nhật cậu bằng bữa sáng này, cậu Will.” Ông ta cắn một miếng vào nửa ổ bánh mì còn lại và Will nghe thấy tiếng vỏ bánh vỡ giòn tan thật hấp dẫn. Cậu đưa tay ra nhưng ngay lúc đó, người thợ rèn vung tay kéo một chiếc móng ngựa nóng đỏ ra khỏi lò rồi ấn nhanh vào chiếc móng guốc đang được kẹp chặt giữa hai đầu gối của ông. Mùi cháy nhanh chóng bốc lên át hẳn mùi bánh mới thơm ngon; cái móng lại được đưa vào lò còn người thợ rèn thì nhìn chăm chú xuống chiếc móng guốc. Con ngựa ô vẫn kiên nhẫn đứng đó không hề động đậy nhưng Will thì lùi lại, thả tay xuống.
“Không ạ, cảm ơn ông,” cậu nói.
Người đàn ông nhún vai, ngấu nghiến ngoạm miếng bánh mì, còn người phụ nữ, khuôn mặt khuất dưới mép chiếc khăn choàng, lại mang giỏ bánh đi mất. Bác John Smith vung tay đưa chiếc móng ngựa ra khỏi lò, nhúng vào xô nước khiến nó cháy xèo xèo và bốc hơi nghi ngút.
“Mau lên, mau lên nào,” người đàn ông ngẩng đầu kêu lên, cáu kỉnh nói. “Trời đã sáng rồi đấy. Còn bao lâu nữa?”
“Đám sắt thép này chẳng vội vàng bao giờ,” người thợ rèn nói, nhưng lúc này tay bác quai búa xuống chiếc móng đã trở nên nhanh và gọn hơn. “Xong rồi!” Cuối cùng bác cũng tuyên bố, tay cầm con dao gọt chiếc móng guốc cho gọn.
Người đàn ông tóc đỏ dẫn con ngựa đi vòng ra, siết chặt đai yên rồi nhảy lên, nhanh nhẹn như một con mèo. Cao ngất trên yên ngựa, những nếp áo choàng sẫm màu phủ qua sườn con ngựa ô, trông ông ta như một bức tượng tạc vào đêm tối. Nhưng đôi mắt xanh lại chăm chú hướng xuống phía Will như muốn thuyết phục cậu. “Đi nào cậu bé. Ta sẽ đưa cậu đến nơi nào cậu muốn. Với lớp tuyết dày thế kia thì chỉ có cách cưỡi ngựa thôi.”
“Cảm ơn ông, nhưng cháu không đi đâu ạ,” Will nói. “Cháu đi ra ngoài để tìm Kẻ Lang Thang cơ.” Chính cậu cũng ngạc nhiên khi nghe lời nói của chính mình. Thì ra là vậy, cậu nghĩ.
“Nhưng hiện giờ Kỵ Sĩ đã lên đường rồi,” người đàn ông nói, và bằng một động tác rất nhanh ông ta giật cương quay đầu ngựa lại, rạp người xuống yên và quơ quét tay định túm lấy cánh tay Will. Will nhảy bật sang bên cạnh, nhưng nếu người thợ đang đứng gần cửa lò rèn không lao về phía trước và kéo cậu ra khỏi tầm với của ông ta thì cậu đã bị tóm rồi. Đối với một người to lớn như thế thì đó quả là một tốc độ đáng kinh ngạc.
Con ngựa đen như bóng đêm lồng lên khiến người kỵ sĩ mặc áo choàng suýt bị hất xuống. Ông ta giận dữ hét lên nhưng rồi bình tĩnh lại ngay và ngồi trên yên ngựa, nhìn xuống với một vẻ mặt lạnh băng trông còn ghê rợn hơn cả khi giận dữ. “Hành động vừa rồi quả là ngớ ngẩn, anh bạn thợ rèn ạ,” ông ta nói nhỏ. “Bọn ta sẽ không bao giờ quên đâu.” Rồi ông ta quay ngựa tiến về hướng Will vừa đi tới, tiếng vó của con ngựa tuyệt đẹp kia chỉ vang lên lạo xạo trong tuyết.
Bác John Smith nhổ nước bọt với vẻ khinh bỉ rồi bắt đầu treo đống đồ lề lên.
“Cảm ơn bác,” Will nói. “Cháu hy vọng là…” Cậu ngừng lại.
“Bọn chúng chẳng làm gì nổi ta đâu,” người thợ rèn nói. “Ta thuộc một dòng dõi mà chúng không thể hại được. Hiện giờ ta là người của con đường này, cũng như tay nghề của ta là để phục vụ những người sử dụng con đường. Uy lực của chúng không thể làm phương hại đến những gì nằm trên con đường đi xuyên qua vùng Thung Lũng Thợ Săn này. Cậu hãy nhớ lấy điều đó.”
Trạng thái mơ màng nhạt dần, và Will cảm thấy đầu óc mình bắt đầu nhúc nhích. “Bác John ạ,” cậu nói, “cháu biết đúng là cháu phải tìm bằng được Kẻ Lang Thang, nhưng cháu không hiểu tại sao. Bác có thể nói cho cháu biết được không?”
Người thợ rèn quay đầu lại, và lần đầu tiên nhìn thẳng vào cậu với vẻ thương cảm hiện rõ trên khuôn mặt sạm nắng gió. “Ôi không đâu, cậu Will ạ. Cậu vừa mới tỉnh dậy phải không? Nên cậu phải tự tìm hiểu lấy thôi. Hơn nữa, hôm nay mới là ngày đầu tiên của cậu mà.”
“Ngày đầu tiên?” Will nói.
“Ăn thôi,” người thợ rèn nói. “Giờ thì việc này không còn gì nguy hiểm vì cậu sẽ không phải chia sẻ miếng ăn với Kỵ Sĩ. Cậu thấy là cậu đã nhanh chóng nhận ra mối nguy hiểm tiềm ẩn trong việc đó như thế nào rồi đấy. Cũng như cậu đã biết còn nguy hiểm hơn nếu cưỡi chung ngựa với hắn ta. Hãy đi theo cảm tính của mình, cậu bé ạ, cứ làm theo cảm tính thôi.” Ông gọi với vào trong nhà: “Martha!”
Người phụ nữ lại ôm giỏ bánh mì đi ra. Lần này bà kéo chiếc khăn choàng xuống, mỉm cười với Will, và cậu nhìn thấy một đôi mắt màu xanh nước biển như mắt tên Kỵ Sĩ nhưng ánh sáng lấp lánh trong đó hiền dịu hơn nhiều. Cậu sung sướng nhai miếng bánh mì nóng hổi giòn tan, giờ đã được cắt đôi và phết thêm mật. Ngay lúc đó, có tiếng bước chân lạo xạo từ phía con đường xa ngoài khoảnh rừng trống làm cậu hốt hoảng quay lại.
Một con ngựa cái trắng muốt không có người cưỡi cũng không đóng yên cương, đang đi nước kiệu vào khoảnh rừng trống và tiến về phía họ: một hình ảnh trái ngược hoàn toàn với con ngựa đực mang màu đêm tối của tên Kỵ Sĩ vừa rồi, cao, tuyệt đẹp và không pha bất kỳ màu sắc nào khác. Trên nền tuyết trắng đến chói mắt đang lấp lánh dưới vầng mặt trời giờ đã lại ló ra khỏi mây, dường như có một ánh vàng mờ nhạt sáng lên giữa màu trắng của bộ lông, của lớp bờm dài phủ xuống chiếc cổ cong cong. Con ngựa bước đến đứng bên cạnh Will, khẽ cúi đầu xuống chạm mũi vào vai cậu như muốn chào, rồi lại hất cái đầu trắng kiêu hãnh lên, phì một đám mây hơi nước vào bầu không khí lạnh lẽo. Will đưa tay ra, kính cẩn đặt bàn tay lên cổ con ngựa.
“Mày đến đúng lúc đấy,” bác John Smith nói. “Lò vẫn còn nóng đỏ đây.”
Bác quay về lò rèn và thổi mấy hơi vào ống bễ để ngọn lửa bùng lên; sau đó dùng cây móc lấy một cái móng từ trên bức tường khuất phía sau rồi vứt nó vào trong lửa. “Tốt rồi,” bác vừa nói vừa nhìn mặt Will thăm dò. “Cậu chắc chưa bao giờ nhìn thấy một con ngựa như thế. Nhưng đây sẽ không phải là lần cuối cùng đâu.”
“Nó đẹp quá,” Will thốt lên và con ngựa lại dịu dàng dụi mũi vào cổ cậu.
“Lên đi,” người thợ rèn bảo cậu.
Will cười phá lên. Rõ ràng đó là chuyện không thể; đầu cậu còn chưa chạm đến vai con ngựa, và thậm chí nếu có bàn đạp đi chăng nữa thì cũng còn lâu chân cậu mới với tới được.
“Tôi không đùa đâu,” người thợ rèn nói, quả thật trông ông không có vẻ gì là người hay cười, chứ đừng nói gì đến chuyện nói đùa. “Đây là đặc ân dành cho cậu đấy. Hãy nắm lấy bờm của nó ở bất kỳ chỗ nào cậu có thể với tới, rồi cậu sẽ thấy.”
Chiều theo ý ông, Will giơ cả hai tay lên nắm lấy túm lông dài thô ráp trên cỗ bờm phía dưới cổ con ngựa trắng. Ngay lập tức, cậu cảm thấy choáng váng, trong đầu kêu vo vo như có một con quay đang xoay tít bên trong, và xa thẳm đâu đó, đằng sau âm thanh này, cậu có thể nghe thấy khá rõ ràng đoạn nhạc như tiếng chuông đầy ám ảnh ấy, tiếng nhạc đã đánh thức cậu sáng nay. Cậu thét lên. Hai cánh tay cậu co giật lạ lùng; cả thế giới đảo lộn; rồi tiếng nhạc biến mất. Trong khi trí óc vẫn còn đang tuyệt vọng cố gắng tìm lại nó thì cậu nhận ra mình đang ở gần mấy cành cây phủ đầy tuyết hơn lúc trước, và giờ cậu đang ngồi trên cái lưng to rộng của con ngựa bạch. Cậu nhìn xuống người thợ rèn và sung sướng cười to.
“Khi nào đóng móng xong,” người thợ rèn nói, “nó sẽ chở cậu, nếu cậu muốn.”
Đột nhiên, Will trở nên nghiêm nghị và trầm ngâm suy nghĩ. Rồi có cái gì đó thu hút cái nhìn của cậu hướng lên trời, xuyên qua những cành cây cong queo, và cậu trông thấy ở trên kia, hai con quạ đen đang uể oải vỗ cánh bay qua. “Không ạ,” cậu nói. “Cháu nghĩ là cháu sẽ đi một mình thôi.” Câu vuốt ve cổ con ngựa, vắt cả hai chân sang một bên và bắt đầu trượt tít từ trên cao xuống, chuẩn bị tinh thần cho một cú xóc nảy bật cả người lên. Nhưng cậu thấy đầu ngón chân mình chạm xuống lớp tuyết rất nhẹ nhàng. “Cảm ơn bác John. Rất cảm ơn bác. Cháu đi đây.”
Người thợ rèn khẽ gật đầu rồi quay lại với con ngựa, còn Will chậm chạp bước đi, trong lòng có phần thất vọng; cậu đã nghĩ ít nhất cũng được nghe một lời chào tạm biệt của bác. Đến bìa rừng, cậu liếc nhìn lại phía sau. Bác John Smith đang kẹp chặt một chân sau của con ngựa giữa hai đầu gối mình và với bàn tay đi găng lấy chiếc kẹp. Rồi, những gì Will nhìn thấy đã khiến cậu ngay lập tức quên hết mọi suy nghĩ về câu nói hay lời tạm biệt. Người thợ rèn không hề gỡ móng cũ hay sửa lại móng hỏng cho con ngựa; con ngựa này chưa được đóng móng bao giờ. Miếng bịt móng đang được đặt vào chân nó cũng giống như ba miếng khác mà giờ đây cậu nhìn thấy đang treo thành một hàng sáng lóe trên bức tường lò rèn ở phía xa kia, không hề giống móng ngựa bình thường mà có một hình dạng khác, một hình dạng rất quen thuộc với cậu. Cả bốn chiếc móng của con ngựa bạch ấy đều giống hệt cái vòng tròn có chữ thập bên trong mà cậu đang mang ở thắt lưng.
Will men theo con đường đi tiếp một đoạn nữa, bên dưới mảng trời hẹp xanh biếc. Cậu đút một tay vào áo khoác để chạm vào cái vòng tròn trên thắt lưng, và miếng sắt ấy lạnh như băng. Giờ thì cậu đã bắt đầu hiểu điều đó có nghĩa là gì. Nhưng không có dấu hiệu gì của tên Kỵ Sĩ; thậm chí cậu chẳng nhìn thấy một dấu chân nào của con ngựa ô kia. Và cậu cũng không nghĩ đến việc phải đối đầu với ma quỷ. Cậu chỉ cảm thấy có một cái gì đó đang lôi kéo cậu, càng lúc càng mạnh mẽ hơn, đi về phía mà trong thế giới thường ngày của cậu vốn là nơi Trại Dawson tọa lạc.
Cậu thấy một con đường mòn nhỏ ở bìa rừng và rẽ vào đó. Con đường dài hun hút và hơi uốn lượn. Dường như ở vùng rừng xung quanh đó mọc rất nhiều cây bụi; các cành nhánh cao nhất của đám cây bụi và cây con nhô lên khỏi đống tuyết trông như đám gạc hươu màu trắng trên những cái đầu tròn trắng tinh. Khi đi vòng qua chỗ lượn tiếp theo, Will nhìn thấy trước mặt một túp lều vuông và thấp, tường trát đất sét xù xì, trên mái nhà là mũ tuyết cao ngất ngưởng khiến cho ngôi nhà trông như một chiếc bánh phủ lớp kem dày. Trên ngưỡng cửa, lão già lang thang run rẩy mà cậu gặp ngày hôm qua đang đứng đó lưỡng lự, một tay đặt trên cánh cửa ọp ẹp. Vẫn mái tóc dài màu xám ấy, vẫn bộ quần áo ấy và vẫn khuôn mặt khô xác xảo quyệt ấy.
Will tiến đến gần lão và nhắc lại câu ông chủ Trại Dawson đã nói ngày hôm trước: “Kẻ Lang Thang đã lên đường.”
“Chỉ có một người,” lão già đáp. “Chỉ có ta. Chuyện này thì liên quan gì đến ngươi?” Lão khịt khịt mũi, liếc xéo Will và chùi mũi vào ống tay áo nhờn mỡ.
“Cháu muốn ông nói cho cháu biết vài điều,” Will nói, tỏ vẻ bạo dạn hơn những gì cậu cảm thấy trong lòng. “Cháu muốn biết tại sao hôm qua ông cứ lởn vởn ở khắp nơi. Tại sao ông lại theo dõi. Tại sao lũ quạ cứ bám theo ông. Cháu muốn biết,” cậu đột nhiên thốt ra suy nghĩ thật của mình, “người ta gọi ông là Kẻ Lang Thang nghĩa là sao.”
Khi cậu nhắc đến bầy quạ, lão già lúng túng bước lại gần túp lều hơn nữa, đôi mắt hấp háy vẻ hốt hoảng hướng lên những ngọn cây; nhưng giờ thì lão nhìn Will với con mắt ngờ vực hơn hẳn lúc trước. “Cậu không thể là người đó!” Lão nói.
“Cháu không thể là gì cơ?”
“Cậu không thể… lẽ ra cậu phải biết tất cả chứ. Đặc biệt là đám chim thối tha kia. Định lừa tôi đấy hả? Định lừa một lão già tội nghiệp. Cậu đã đi cùng Kỵ Sĩ rồi phải không? Cậu là người của hắn hả?”
“Tất nhiên là không rồi,” Will nói. “Cháu không hiểu ông đang nói gì.” Cậu nhìn túp lều tồi tàn; con đường mòn đã kết thúc ở đây, nhưng thậm chí đó cũng không thể được coi là một khoảng rùng trống tử tế nữa. Cây cối mọc sít sịt xung quanh, ngăn không cho nắng chiếu xuống. Đột nhiên cảm thấy buồn, cậu cất tiếng hỏi: “Thế còn trang trại đâu rồi?”
“Chẳng có trang trại nào cả,” lão hành khất trả lời vẻ sốt ruột. “Chưa có. Cậu phải biết chứ…” Lão lại khịt mũi ầm ĩ và lẩm bẩm một mình; rồi lão nheo mắt và đi đến gần Will, chăm chú nhìn vào mặt cậu, mùi mồ hôi lưu cữu và mùi người lâu ngày không tắm bốc lên ngột ngạt kinh tởm. “Nhưng cậu cũng có thể là người đó lắm, có thể lắm. Nếu cậu mang theo Dấu Hiệu đầu tiên mà Cổ Nhân đã trao cho cậu. Cậu có mang nó theo đây không? Cho ta xem nào. Cho Kẻ Lang Thang già này xem Dấu Hiệu đó nào.”
Cố gắng hết sức để không lùi lại vì ghê tởm, Will lần tay lên những nút áo khoác. Cậu biết chắc chắn từ Dấu Hiệu ám chỉ cái gì. Nhưng khi cậu lật vạt áo da cừu để lộ cái vòng tròn đang lồng ở thắt lưng thì tay cậu cọ vào mặt sắt nhẵn thín và cậu cảm thấy buốt thấu da vì cái lạnh như băng của nó; cùng lúc đó, cậu thấy lão già bật lùi lại, rúm ró, mắt nhìn chăm chăm phía sau vai cậu. Will quay phắt lại và thấy ngay tên Kỵ Sĩ khoác áo choàng đang ngồi trên lưng con ngựa ô màu đêm tối.
“Cuộc gặp thú vị đây,” Kỵ Sĩ khẽ nói.
Lão già kêu ré lên như một con thỏ khiếp đảm rồi quay lưng bỏ chạy vào rừng, vấp lên vấp xuống qua những đụn tuyết. Will đứng như trời trồng, nhìn tên Kỵ Sĩ, tim cậu đập thình thịch trong lồng ngực, dữ dội đến nỗi gần như làm cậu không thở nổi.
“Rõ là chẳng khôn ngoan chút nào khi rời đường lớn, Will Stanton ạ,” gã đàn ông khoác áo choàng nói, mắt hắn rực lên như hai ngôi sao xanh biếc. Con ngựa ô men theo con đường tiến lên, tiến lên; Will lùi lại, tựa lưng vào túp lều xiêu vẹo, nhìn trừng trừng vào hai con mắt kia, rồi, với một nỗ lực phi thường, cậu bắt cánh tay chậm chạp phải dang ra, kéo vạt áo khoác để lộ rõ vòng tròn sắt trên thắt lưng. Cậu nắm chặt lấy phần thắt lưng bên hông; cái lạnh tỏa ra từ Vòng Tròn Dấu Hiệu ấy giá buốt đến độ cậu như cảm nhận được sức mạnh của nó, chẳng khác gì sức nóng của một luồng nhiệt có thể thiêu đốt mọi vật. Và tên Kỵ Sĩ đã dừng lại, đôi mắt hắn lóe lên.
“Thế ra mi cũng đã có một cái rồi.” Hắn khom vai xuống trông thật lạ lùng, còn con ngựa thì hất cao đầu; cả hai dường như đang mạnh hơn lên, cao hơn lên. “Một cái thôi thì chẳng giúp được gì cho mi đâu, chưa đâu,” tên Kỵ Sĩ nói, và hắn cứ cao lớn lên mãi không ngừng, choán hết cả không gian trắng xóa, trong khi con ngựa của hắn hí lên chiến thắng rồi chồm lên, chân trước đạp vào không trung khiến Will chỉ còn cách duy nhất là ép mình sát vào tường. Ngựa và người sừng sững trùm lên trước mặt cậu như một đám mây đen tối che lấp cả tuyết lẫn mặt trời.
Rồi cậu nghe thấy văng vẳng những âm thanh mới và những hình thù đen tối đang vươn cao kia dường như bị đổ sang một bên, bị quét đi bởi một luồng ánh sáng vàng rực, luồng ánh sáng ấy lấp lánh như có hàng nghìn hàng vạn những vòng tròn, những mặt trời và hàng triệu ngôi sao sáng trắng - Will chớp chớp mắt, và đột nhiên nhận ra đó chính là con ngựa bạch cậu gặp ở lò rèn, chính nó cũng đang vươn cao phía trên cậu. Cậu vội vàng chộp lấy cái bờm lượn sóng và trong nháy mắt cậu đã thấy mình ngồi trên cái lưng rộng của con ngựa, rạp người sát cổ nó, tay bám thật chặt hòng giữ lấy mạng của mình. Con ngựa bạch khổng lồ hí lên chói tai rồi nhảy lên, vượt qua những ngọn cây, xuyên qua những đám mây đen không rõ hình thù đang treo im lìm trên khoảng rừng trống như những đám khói; phi nước đại mỗi lúc một nhanh để lướt qua mọi vật, cho đến khi cuối cùng họ cũng ra đến đường cái, đến đường Thung Lũng Thợ Săn, xuyên qua Thung Lũng Thợ Săn.
Con ngựa to lớn giảm dần tốc độ, nhảy những bước dài, và Will nghe rõ tiếng tim mình đang đập trong khi cảnh vật lướt qua trước mắt cậu thành một dải trắng mờ. Bỗng nhiên xung quanh họ trời đất chuyển sang màu xám xịt, mặt trời bị che khuất tối sầm lại. Một luồng gió vặn vẹo, luồn vào trong cổ áo, xuyên qua ống tay và cổ giày Will, xé tung mái tóc cậu. Những đám mây xám xịt khổng lồ cuồn cuộn bay từ phía Bắc đến gần cậu, mang theo sấm rung chớp giật; cả bầu trời rung chuyển gầm gào. Vẫn còn một khoảng trời xanh lờ mờ nhưng giờ đây cũng đang thu hẹp dần, hẹp dần. Con ngựa bạch tuyệt vọng rướn mình nhảy đến khoảng trời xanh ấy. Qua vai nó, Will nhìn thấy một hình bóng còn đen tối hơn cả những đám mây khổng lồ kia đang lao về phía họ: tên Kỵ Sĩ, người vươn lên cao sừng sững, hai con mắt to tướng biến thành hai đốm lửa trắng xanh kinh khiếp. Chớp giật, sấm rung như muốn xé toạc bầu trời, và con ngựa bạch vươn người nhảy kịp vào khoảng trời xanh ngay trước khi nó khép lại.
Và thế là họ đã được an toàn. Bầu trời trước mặt và trên đầu họ lại xanh thăm thẳm; mặt trời tỏa ánh nắng ấm áp mơn man làn da Will. Cậu thấy họ đã bỏ thung lũng sông Thames lại phía sau. Giờ đây, họ đang bay giữa những sườn đồi uốn lượn của vùng Đồi Chiltern, nơi các đỉnh đồi phủ đầy những loài cây khổng lồ, những cây sồi và cây tần bì. Và len lỏi trên nền tuyết như một đường chỉ mỏng dọc theo chân đồi là những hàng rào, dấu tích còn sót lại của những cánh đồng cổ xưa - rất cổ xưa, Will vẫn luôn biết thế; xưa hơn bất kỳ thứ gì trong thế giới thường ngày của cậu, trừ những ngọn đồi và cây cối. Thế rồi Will nhìn thấy một dấu tích khác trên một ngọn đồi tuyết trắng. Dấu tích ấy cắt xuyên qua tuyết và cỏ, đến tận lớp đá phấn dưới nền đất; sẽ khó mà nhìn ra được nếu nó không quen thuộc đến thế. Nhưng Will đã biết. Đó là hình một vòng tròn, được một chữ thập chia thành bốn phần bằng nhau.
Ngay lúc đó, hai bàn tay cậu đang bám chặt vào đám bờm rậm trên cổ con ngựa bất thình lình bị giật mạnh ra, và con ngựa bạch hí lên một hồi dài nhức óc ngay bên tai cậu rồi bỗng nhiên mất hút ở phía xa một cách kỳ lạ. Còn Will thì rơi xuống mãi, rơi mãi; nhưng cậu không cảm thấy cú va đập mà chỉ thấy mình nằm úp mặt xuống tuyết lạnh. Cậu loạng choạng đứng lên, lắc lắc người. Con ngựa trắng đã đi rồi. Bầu trời thật trong xanh và ánh mặt trời sưởi ấm gáy cậu. Cậu đang đứng trên một ngọn đồi tuyết phủ, xa xa vươn lên những hàng cây cao, và hai con chim màu đen đang bay đi bay lại phía trên những ngọn cây.
Và trước mặt cậu, đứng sừng sững một mình trên sườn đồi tuyết trắng, không dẫn đến đâu hết, là hai cánh cửa khổng lồ bằng gỗ chạm trổ.