← Quay lại trang sách

Người Tìm Dấu Hiệu

Will thọc đôi tay lạnh giá vào túi quần, đứng nhìn chằm chằm lên hai cánh cửa chạm trổ đang đóng chặt, sừng sững trước mặt. Chúng chẳng nói lên điều gì. Cậu chẳng tìm thấy ý nghĩa gì ở những biểu tượng ziczac lặp đi lặp lại thành vô số những họa tiết khác nhau trên đó. Loại gỗ ở hai cánh cửa này không hề giống những loại gỗ cậu đã từng thấy; nó bị nứt và lỗ rỗ nhưng lại bóng lên qua năm tháng, vì thế hầu như không thể nhận ra đó là gỗ nếu không có một số vân tròn nằm rải rác ở những nơi vẫn còn lại vết tích của mắt gỗ. Nếu không có các dấu hiệu đó, chắc Will đã tưởng hai cánh cửa này làm bằng đá.

Mắt cậu lướt nhìn ra ngoài mép hai cánh cửa và thấy mọi thứ xung quanh chúng đều rung rung, giống như sự lay động của không khí trên một đống lửa hay trên một con đường nhựa bị hun nóng dưới ánh nắng mùa hè. Nhưng ở đây lại không có sự khác biệt gì về nhiệt độ để giải thích cho hiện tượng này.

Không có nắm đấm cửa. Will duỗi hai tay ra, áp lòng bàn tay vào cánh cửa gỗ và đẩy. Khi cánh cửa mở ra dưới tay cậu, cậu tưởng như mình lại thoáng nghe thấy tiếng nhạc giống như chuông ấy; nhưng rồi nó lại biến mất vào khoảng trống mơ hồ giữa ký ức và tưởng tượng. Cậu bước qua cửa, và hai cánh cửa khổng lồ đóng chặt lại ngay sau lưng cậu không một tiếng động, ngay sau đó, ánh sáng ban ngày và cả thế giới xung quanh thay đổi hẳn đến nỗi cậu quên sạch trước đó chúng như thế nào.

Bây giờ cậu đang đứng trong một gian sảnh lớn. Ở đây không có ánh mặt trời. Thực ra, trên những bức tường bằng đá sừng sững này không có lấy một chỗ nào gọi là cửa sổ mà chỉ có một chuỗi khe đá hẹp. Trên hai bức tường, nằm giữa những khe đá đó là một dãy thảm lạ mắt và đẹp đến nỗi dường như chúng đang bừng sáng trong cảnh nhập nhoạng. Will bị lóa mắt bởi những con thú, hoa lá và chim muông tuyệt đẹp được thêu hoặc dệt bằng đủ loại màu sắc rực rỡ như tấm kính màu được ánh nắng chiếu vào.

Những hình ảnh lướt qua trước mắt cậu; cậu nhìn thấy một con kỳ lân bạc, một cánh đồng hoa hồng đỏ, một vầng mặt trời đang tỏa nắng. Trên đầu cậu, phần mái của những xà nhà uốn vòm cao tít chạy vào trong bóng tối; và góc phòng xa xa cũng đang chìm trong âm u. Cậu mơ màng bước thêm vài bước, chân đi êm ru trên những tấm thảm bằng da cừu trải trên nền đá, và cậu nhìn về phía trước. Ngay lập tức những tia sáng lóe lên và ngọn lửa bùng cháy trong bóng tối, soi rõ một lò sưởi khổng lồ nơi bức tường xa xa, và cậu nhìn thấy những cánh cửa, ghế tựa và một cái bàn lớn vững chãi được chạm trổ. Ở hai bên lò sưởi có hai bóng người đang đứng chờ cậu: một quý bà cao tuổi chống gậy và một người đàn ông cao lớn.

“Chào Will, chúc mừng cháu đã đến,” quý bà nói với một giọng nhẹ nhàng và êm dịu, nhưng vẫn vang vọng khắp gian sảnh uốn vòm như tiếng chuông. Bà đưa một bàn tay gầy guộc về phía cậu, và ánh sáng từ lò sưởi lấp lánh trên một chiếc nhẫn rất to, cộm lên trên ngón tay bà như một chiếc vòng cẩm thạch. Bà nhỏ nhắn và mảnh dẻ như một con chim, và mặc dù bà đứng rất thẳng và hoàn toàn minh mẫn, khi nhìn bà Will vẫn có cảm giác bà đã rất nhiều tuổi.

Cậu không thể nhìn rõ mặt bà. Cậu dừng lại và tay sờ vào thắt lưng một cách vô thức. Rồi người đàn ông cao lớn đứng bên kia lò sưởi chuyển động, cúi xuống châm một dây nến dài vào ngọn lửa, tiến về phía chiếc bàn rồi bắt đầu châm lửa ở dây nến vào những cây nến cao xếp thành vòng tròn đặt trên đó. Ánh sáng từ ngọn lửa vàng đang tỏa khói nhảy nhót trên mặt ông. Will nhìn thấy một khuôn mặt xương xẩu và rắn rỏi với đôi mắt trũng sâu và chiếc mũi khoằm như mỏ diều hâu; mái tóc bạc bù xù hất ra sau vầng trán rộng, đôi lông mày rậm và cái cằm chìa ra. Mặc dù không hiểu tại sao, nhưng trong lúc cậu quan sát những đường nét bí ẩn và khắc khổ trên khuôn mặt ấy, cái thế giới mà cậu đã sống từ lúc mới lọt lòng dường như quay cuồng, vỡ vụn và trở lại trong một hình hài khác không giống trước nữa.

Đứng thẳng dậy, người đàn ông cao lớn nhìn cậu qua những cây nến đang cháy trên một khung tròn như cái bánh xe đặt nằm trên bàn. Ông thoáng mỉm cười, hai mép hơi nhích lên, những vết rạn chân chim hằn sâu dưới mắt. Ông thổi phù một cái để dập tắt dây nến đang cháy.

“Vào đi, Will Stanton,” ông nói, và cả chất giọng trầm ấy dường như cũng ăn sâu vào trí nhớ của Will. “Vào đây học nào. Mang cả ngọn nến ấy theo nữa.”

Will bối rối liếc nhìn xung quanh. Ở phía tay phải, cậu thấy một cái giá bằng sắt màu đen có chạm trổ cao ngang người cậu, phía trên chia làm ba đỉnh; hai đỉnh có ngôi sao năm cánh bằng sắt ở trên, đỉnh còn lại là một cái giá đỡ một cây nến to màu trắng. Cậu nhấc cây nến lên, nó khá nặng khiến cậu phải cầm bằng cả hai tay, và bước tới chỗ hai người đang đứng đợi ở cuối sảnh. Cậu chớp chớp mắt nhìn xuyên qua ánh lửa, và khi đến gần hơn, cậu nhận ra vòng tròn những cây nến trên bàn vẫn chưa khép kín, một giá đựng nến trong vòng tròn đó vẫn còn trống. Cậu dựa người vào bàn, nắm chặt lấy thân nến cứng và nhẵn, mồi lửa từ một trong những ngọn nến kia, rồi cẩn thận đặt nó vào giá nến còn trống. Cây nến này giống hệt những cây nến còn lại. Chúng đều rất kỳ lạ, kích cỡ không giống nhau nhưng đều lạnh và cứng như đá cẩm thạch trắng; lửa bốc lên rất cao, sáng và không có khói, tỏa ra một thứ mùi hơi giống mùi nhựa thông.

Chỉ đến khi ngả về phía sau để đứng thẳng dậy Will mới nhận thấy có hai thanh sắt bắt chéo nhau ở bên trong vòng tròn nến. Ở đây, cũng giống như ở tất cả những chỗ khác, dấu hiệu đó lại xuất hiện: hình chữ thập bên trong vòng tròn, hình quả cầu bị chia làm bốn. Bây giờ cậu còn thấy có những giá nến khác trong cái khung đó: hai trên mỗi thanh cửa hình chữ thập và một ở điểm cắt giữa hai thanh. Nhưng tất cả đều còn trống.

Quý bà khoan thai ngồi xuống chiếc ghế tựa bên cạnh lò sưởi. “Rất tốt,” bà nhẹ nhàng nói vẫn với cái giọng thánh thót đó. “Cảm ơn Will.”

Bà mỉm cười, mặt chằng chịt nếp nhăn như mạng nhện, và Will cũng toét miệng cười đáp lại. Cậu không hiểu tại sao đột nhiên mình lại thấy rất vui sướng như vậy, dường như điều này quá tự nhiên đến mức không cần phải thắc mắc. Cậu ngồi xuống chiếc ghế đẩu trước lò sưởi, giữa hai chiếc ghế tựa, nó rõ ràng được dành cho cậu.

“Cánh cửa,” cậu nói, “hai cánh cửa lớn mà cháu vừa đi qua ấy ạ. Tại sao chúng lại tự đứng được?”

“Cánh cửa à?” Quý bà hỏi.

Có điều gì đó trong giọng nói của bà khiến Will phải quay nhìn lại bức tường phía xa nơi cậu vừa bước vào: bức tường với hai cánh cửa khổng lồ và chiếc giá mà cậu vừa lấy nến ở đó. Cậu nhìn chằm chằm; có cái gì đó không bình thường. Hai cánh cửa gỗ đồ sộ đã biến mất. Bức tường xám trải dài trơ trụi, những phiến đá vuông lớn chẳng có gì đặc biệt trừ một cái khiên tròn bằng vàng, treo trơ trọi trên cao, tỏa sáng mờ mờ dưới ánh lửa lò sưởi.

Người đàn ông cao lớn bật cười khe khẽ. “Chẳng có cái gì thực chất giống như bề ngoài đâu, cậu bé. Đừng mong đợi điều gì và đừng sợ điều gì, ở đây hay ở bất kỳ nơi nào khác. Đây là bài học đầu tiên của cậu. Đây cũng là bài thực hành đầu tiên của cậu. Chúng ta đang có Will Stanton ở đây, trước mặt chúng ta - hãy kể cho chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra với cậu ấy, ngày hôm qua hoặc hôm kia.”

Will nhìn những ngọn lửa đang giục giã, ấm áp và ân cần mơn man khuôn mặt cậu trong căn phòng lạnh giá. Cậu phải cố gắng lắm mới có thể nhớ lại được những gì đã xảy ra từ lúc cậu và James rời nhà đến Trại Dawson lấy cỏ khô - cỏ khô! - chiều hôm trước. Cậu ngạc nhiên nghĩ về tất cả mọi thứ đã xảy ra với cậu từ lúc ấy cho đến giây phút này. Một lát sau, cậu nói: “Dấu Hiệu. Vòng tròn với chữ thập. Hôm qua bác Dawson đã đưa cho cháu dấu hiệu này. Rồi Kẻ Lang Thang đi theo cháu, hoặc là cố gắng bám theo, và sau đó chúng - cho dù chúng là ai đi chăng nữa - chúng đã cố bắt cháu.” Cậu nuốt nước bọt, thấy ớn lạnh khi nhớ lại đêm kinh hoàng ấy. “Để lấy dấu hiệu. Chúng muốn có nó, mọi thứ đều xoay quanh nó hét. Hôm nay cũng vậy, mặc dù phức tạp hơn nhiều vì bây giờ không phải là hiện tại mà là một thời gian nào đó, mà cháu không biết là khi nào. Mọi thứ như trong mơ, nhưng lại là sự thực… Chúng vẫn đuổi theo dấu hiệu này. Cháu không biết chúng là ai, trừ tên Kỵ Sĩ và Kẻ Lang Thang. Cháu cũng không biết ông bà là ai, chỉ biết ông bà đang chống lại những kẻ đó. Ông bà, bác Dawson và bác John Wayland Smith.”

Cậu dừng lại.

“Tiếp tục đi,” giọng trầm trầm lại vang lên.

“Wayland?” Will bối rối nói tiếp. “Cái tên lạ quá. Đó không phải là tên đệm của bác John mà. Điều gì đã làm cháu nói như vậy chứ?”

“Ký ức chứa đựng được nhiều điều hơn chúng tưởng,” người đàn ông cao lớn nói. “Đặc biệt là ký ức của cậu. Thế cậu còn chuyện gì khác để kể không?”

“Cháu không biết,” Will trả lời. Cậu nhìn xuống và di ngón tay dọc theo mép ghế; nó được chạm trổ những hình hơi lượn sóng đều đặn như một mặt biển thanh bình. “À, thực ra là có. Hai điều. Một là ở Kẻ Lang Thang có điều gì đó lạ lắm. Cháu không nghĩ hắn là một người trong bọn họ, bởi vì khi nhìn thấy tên Kỵ Sĩ hắn đã sợ rúm lại và bỏ chạy.”

“Thế còn chuyện thứ hai là gì?” Người đàn ông to cao hỏi.

Đâu đó trong bóng tối của căn phòng lớn vang lên tiếng chuông đồng hồ, âm thanh trầm như bị kìm lại: một tiếng chuông duy nhất, báo hiệu nửa giờ.

“Tên Kỵ Sĩ ạ,” Will nói. “Khi tên Kỵ Sĩ nhìn thấy Dấu Hiệu này, hắn ta nói ‘Thế ra mi cũng đã có được một cái rồi.’ Trước đấy hắn không biết cháu đã có nó. Nhưng hắn vẫn bám theo cháu. Săn đuổi cháu. Tại sao thế ạ?”

“Đúng vậy,” quý bà cất lời. Bà nhìn cậu vẻ buồn buồn. “Hắn săn đuổi cháu. Ta e rằng trong thâm tâm cháu đã đoán đúng, Will ạ. Cái chúng muốn nhất không phải là cái dấu hiệu ấy. Mà là cháu.”

Người đàn ông cao lớn đứng đậy, đi ngang qua phía sau Will, một tay để lên thành ghế tựa của quý bà còn tay kia đút vào túi chiếc áo khoác cao cổ màu đen ông đang mặc. “Hãy nhìn ta, Will,” ông nói. ánh sáng từ vòng tròn nến đang cháy trên bàn nhảy nhót trên mái tóc bạc và làm đôi mắt sâu thẳm lạ lùng của ông càng trở nên sâu hơn, như hai vực sâu trên khuôn mặt xương xương. “Tên ta là Merriman Lyon,” ông nói. “Xin đón chào cậu, Will Stanton. Chúng ta đã đợi cậu lâu lắm rồi.”

“Cháu biết ông,” Will nói. “Ý cháu là… trông ông… cháu cảm thấy… cháu có biết ông không ạ?”

“Theo một nghĩa nào đó thì có,” ông Merriman nói. “Có thể nói, cậu và ta giống nhau. Chúng ta đều được sinh ra với cùng một năng lực và cho cùng một mục đích cao cả. Và cậu đang ở đây, tại thời điểm này, Will ạ, để bắt đầu hiểu rằng mục đích đó là gì. Nhưng trước hết cậu cần được dạy về năng lực đó.”

Mọi thứ dường như diễn ra quá nhanh, quá xa. “Cháu không hiểu,” Will nói, lo lắng nhìn khuôn mặt rắn rỏi, chăm chú của người đàn ông ấy. “Cháu không có bất kỳ năng lực nào cả, thật sự không có. Ý cháu là cháu chẳng có gì đặc biệt cả.” Cậu nhìn hết người này lại đến người kia, hai bóng hình lúc sáng lúc tối bởi ánh lửa và ánh nến đang nhảy nhót, và cậu bắt đầu nhận thấy một nỗi sợ hãi đang lớn dần, một cảm giác bị mắc bẫy. Cậu nói: “Đó chỉ là những chuyện đã xảy ra với cháu, thế thôi.”

“Hãy nghĩ lại đi, và hãy nhớ đến một vài sự kiện trong chuyện này,” quý bà nói. “Hôm nay là sinh nhật cháu. Ngày Đông Chí, ngày Đông Chí lần thứ mười một của cháu. Hãy nhớ lại ngày hôm qua xem, Đêm trước Đông Chí lần thứ mười của cháu, trước khi cháu nhìn thấy dấu hiệu lần đầu tiên. Không có điều gì đặc biệt xảy ra à? Không có gì mới à?”

Will ngẫm nghĩ. “Các con vật đều sợ cháu,” cậu miễn cưỡng nói. “Và có lẽ lũ chim cũng vậy. Nhưng lúc ấy thì có vẻ như điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.”

“Và nếu có một cái đài hay một cái tivi đang bật ở trong nhà,” ông Merriman nói. “Thì nó sẽ kêu rất lạ bất cứ khi nào cậu đến gần phải không?”

Will nhìn ông chằm chằm. “Cái đài cứ réo ầm lên. Làm sao ông biết chuyện đó? Cháu tưởng đó là do nhiễu sóng hay gì đó chứ.”

Ông Merriman mỉm cười. “Theo một cách nào đó. Theo một cách nào đó.” Rồi ông lại trở nên nghiêm nghị. “Giờ thì hãy lắng nghe nhé. Năng lực mà ta nói tới đó, nó chính là một quyền năng, ta sẽ cho cậu thấy. Đó là quyền năng của những Cổ Nhân, những người có tuổi đời tương đương với mảnh đất này hoặc thậm chí còn hơn. Cậu được sinh ra để kế thừa quyền năng đó khi cậu vừa qua tuổi thứ mười. Vào đêm trước sinh nhật cậu, quyền năng đó bắt đầu trỗi dậy, và giờ đây vào ngày sinh nhật cậu, nó đã được giải phóng, phát triển và trưởng thành. Nhưng nó vẫn còn đang lúng túng và chưa định hướng được vì cậu vẫn chưa biết cách kiểm soát nó một cách đúng đắn. Cậu cần phải được huấn luyện để biết cách điều khiển nó, trước khi nó có thể định hình và hoàn thành sứ mệnh mà vì nó cậu đã có mặt ở đây. Đừng nhăn nhó như thế, cậu bé. Đứng dậy. Ta sẽ cho cậu thấy nó có thể làm được gì.”

Will đứng dậy, và quý bà mỉm cười khuyến khích cậu. Cậu đột ngột hỏi: “Bà là ai?”

“Quý bà đây…” ông Merriman bắt đầu.

“Quý bà đây đã già lắm rồi,” bà nói bằng một chất giọng trẻ trung trong trẻo, “và trong đời mình bà ấy từng có rất nhiều, rất nhiều tên gọi. Có lẽ, Will ạ, bây giờ tốt nhất cậu cứ gọi ta là - lão bà.”

“Vâng ạ, thưa bà,” Will đáp, và ngay khi bà cất tiếng, cảm giác vui sướng lại tràn trề trong lòng cậu, nỗi lo lắng đang dâng lên bỗng lắng dịu, và cậu đứng thẳng dậy, háo hức nhìn vào khoảng tối đằng sau chiếc ghế của bà, nơi ông Merriman đã lùi về phía sau một vài bước. Cậu có thể nhìn thấy ánh sáng mờ mờ của mái tóc bạc trên một dáng người cao lớn, nhưng tất cả chỉ có thế.

Giọng nói trầm trầm của ông Merriman vang lên từ trong bóng tối. “Đứng im tại chỗ. Nhìn vào bất cứ chỗ nào cậu thích nhưng không nhìn quá kỹ, không tập trung vào một cái gì. Hãy để tâm trí cậu được bay bổng tự do, hãy vờ như cậu đang trong một giờ học buồn tẻ ở trường.”

Will bật cười và đứng đó thư giãn, ngả đầu về phía sau. Cậu liếc mắt nhìn lên, chậm rãi phân biệt những chiếc xà, rầm đen sì đan chéo nhau trên trần nhà cao tít và bóng của chúng in thành những vạch đen mờ ảo. Ông Merriman bất chợt nói: “Ta đang đặt một bức tranh vào đầu cậu. Hãy kể xem cậu nhìn thấy gì.”

Hình ảnh hiện lên trong đầu Will thật tự nhiên như thể cậu định vẽ một phong cảnh tưởng tượng và đang hình dung ra nó trước khi vẽ lên giấy. Cậu miêu tả từng chi tiết khi chúng hiện lên trong đầu cậu. “Có một sườn đồi cỏ xanh mướt, vươn ra biển, giống như một vách đá thoai thoải. Bầu trời xanh mênh mông và bên dưới là nước biển xanh sẫm hơn. Thấp hẳn xuống phía dưới, nơi biển giao với đất liền có một dải cát vàng óng ánh tuyệt đẹp. Từ mũi đất cỏ xanh mướt ấy vào trong đất liền - đứng ở đây chỉ có thể nhìn thấy nó ở khóe mắt - là những quả đồi, những quả đồi mờ trong sương. Chúng có màu tím nhạt, còn sườn đồi hòa vào làn sương mù xanh mờ, giống như cái cách mà màu trong tranh vẽ nhòa vào nhau nếu bị ướt. Và,” cậu thoát ra khỏi tình trạng thôi miên nửa chừng đó và nghiêm túc hướng ánh mắt về phía ông Merriman, nhìn xuyên qua bóng tối với vẻ quan tâm đầy tò mò “và đó là một bức tranh buồn. Ông nhớ phong cảnh đó, dù cho nó ở đâu chăng nữa thì ông cũng đang nhớ nhà. Nó ở đâu vậy ạ?”

“Đủ rồi,” ông Merriman hấp tấp nói, nhưng giọng ông có vẻ hài lòng. “Cậu làm tốt lắm. Bây giờ đến lượt cậu. Hãy cho ta thấy một bức tranh. Chỉ cần chọn một phong cảnh bình thường nào đó, bất kỳ cái gì, và nghĩ xem nó trông thế nào, như thể cậu đang đứng nhìn nó vậy.”

Will nghĩ tới hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong đầu. Bây giờ cậu mới nhận ra suốt thời gian đó, đây chính là điều làm cậu bứt rứt trong sâu thẳm tâm trí: hình ảnh về hai cánh cửa khổng lồ chơ vơ trên sườn đồi tuyết phủ, với những chi tiết chạm trổ cầu kỳ, và phần mép cửa nhòa đi một cách khác thường.

Ông Merriman lập tức cắt ngang: “Không phải cánh cửa. Không phải cái gì gần đến thế. Một nơi nào đó trong cuộc sống của cậu trước mùa đông này.”

Will bối rối nhìn ông chằm chằm trong giây lát; rồi cậu nuốt nước bọt một cách khó khăn, nhắm mắt lại và nghĩ về cửa hàng kim hoàn của cha cậu ở thị trấn nhỏ Eton.

Ông Merriman chậm rãi mô tả: “Tay nắm cửa có dạng đòn bẩy, là một thanh tròn, đẩy xuống khoảng mười độ sẽ mở được cửa. Một chiếc chuông nhỏ treo phía trên sẽ rung lên khi cánh cửa mở ra. Cậu đưa chân xuống một chút, chạm vào sàn nhà, cú bước hụt có thể khiến giật mình nhưng không nguy hiểm. Xung quanh tường là một dãy các tủ kính trưng bày, bên dưới là một quầy thanh toán cũng bằng kính - tất nhiên rồi, đây chắc hẳn là cửa hàng của cha cậu. Bên trong có một số món đồ rất đẹp. Ở góc trong cùng có một chiếc đồng hồ quả lắc cổ lỗ, mặt ngoài quét sơn và có tiếng tích tắc nhỏ, chậm rãi. Trong tủ trưng bày chính giữa có một chuỗi vòng cổ bằng ngọc lam khảm hình những con mãng xà bạc: ta đoán là sản phẩm của bộ tộc Zuni[3], nó đã cách quê hương một đoạn đường khá xa đấy. Một mặt dây chuyền bằng ngọc lục bảo như một giọt nước mắt xanh khổng lồ. Một mô hình nhỏ tuyệt đẹp bằng vàng của một lâu đài thời Thập Tự Chinh - có lẽ là hộp đựng muối - ta đoán từ nhỏ cậu đã rất thích nó. Và người đàn ông đằng sau quầy thanh toán, dáng người thấp, khuôn mặt hiền lành và vuí vẻ chính hẳn là cha cậu, ông Roger Stanton. Thật thú vị khi cuối cùng cũng nhìn rõ ông ấy, thoát khỏi lớp sương mù ấy… Ông ấy đeo một cái kính của thợ kim hoàn và đang nhìn một chiếc nhẫn: một chiếc nhẫn bằng vàng cũ có chín viên đá quý nhỏ xíu xếp thành ba hàng: ba hạt kim cương ở giữa và ba hạt hồng ngọc ở mỗi bên, và có vài dòng chữ rune[4] ở bên cạnh mà ta nghĩ sẽ ta sẽ phải nhìn kỹ hơn vào một ngày gần đây…”

“Ông nhìn được cả cái nhẫn!” Will ngây ngất nói. “Đó là nhẫn của mẹ, lần gần đây nhất cháu đến cửa hàng thì bố cháu đang xem nó. Mẹ cháu nghĩ là một viên đá đã bị lỏng ra, nhưng bố cháu nói đó chỉ là ảo giác thôi… Làm sao ông lại làm được chuyện đó?”

“Làm gì?” Trong giọng nói trầm trầm ấy có một vẻ mềm mỏng đáng lo ngại.

“Thì… chuyện đó. Đưa hình ảnh vào đầu cháu. Và rồi nhìn thấy hình ảnh mà cháu nghĩ trong đầu. Thần giao cách cảm, có phải người ta gọi nó như vậy không ạ? Thật phi thường.” Nhưng trong thâm tâm, cậu bắt đầu cảm thấy không thoải mái.

“Được thôi,” ông Merriman kiên nhẫn nói. “Ta sẽ cho cậu xem quyền năng bằng một cách khác. Trên chiếc bàn cạnh cậu có một vòng tròn nến, Will Stanton ạ. Nào… Cậu có biết bất cứ cách nào để dập tắt một trong những ngọn nến kia mà không cần thổi hay dùng nước, không dùng dụng cụ dập nến hay dùng tay không?”

“Không ạ.”

“Đúng. Chẳng có cách nào cả. Nhưng bây giờ ta cho cậu biết rằng cậu có thể làm được điều đó chỉ đơn giản bằng cách mong cho nó xảy ra, vì cậu là cậu. Với năng lực mà cậu có, đó là một việc rất dễ dàng. Nếu cậu chọn trong đầu một trong những ngọn nến kia và thậm chí không nhìn mà chỉ nghĩ về nó thôi, nghĩ về nó và yêu cầu nó tắt đi, thì ngọn nến đó sẽ tắt. Liệu bất kỳ một cậu bé bình thường nào có thể làm được điều đó không?”

“Không,” Will trả lời chẳng mấy vui vẻ.

“Làm đi,” ông Merriman nói. “Ngay bây giờ.”

Căn phòng đột nhiên trở nên lặng ngắt, nặng nề như có một tấm màn nhung phủ lên. Will có thể cảm thấy cả hai người đang quan sát mình. Cậu tuyệt vọng nghĩ: Mình sẽ thoát ra khỏi chuyện này, mình sẽ nghĩ về một ngọn lửa, nhưng không phải một trong những ngọn nến đó; nó sẽ là một cái gì đó lớn hơn, một cái gì đó không thể tắt được trừ phi có một phép thần vĩ đại nào đó mà thậm chí cả ông Merriman cũng không biết… Cậu nhìn quanh căn phòng, nhìn ánh sáng và bóng tối đang cùng nhau nhảy nhót trên những tấm thảm sặc sỡ treo trên tường đá, và cậu nghĩ với mức độ tập trung ghê gớm về hình ảnh ngọn lửa đang bừng bừng bốc lên từ đám củi trong cái lò sưởi to tướng đằng sau cậu. Cậu cảm thấy hơi ấm của ngọn lửa tỏa trên gáy, nghĩ về phần chính giữa của đống củi khổng lồ đang rực lên thứ ánh sáng màu cam và những lưỡi lửa vàng đang nhảy múa. Tắt đi, ngọn lửa, cậu nói thầm trong đầu, đột nhiên cảm thấy an toàn và thoát khỏi những đe dọa của cái quyền năng đó, vì tất nhiên chẳng đời nào một ngọn lửa lớn như vậy lại có thể vô cớ tắt đi. Ngọn lửa, không cháy nữa. Tắt đi.

Và ngọn lửa tắt.

Ngay lập tức cả căn phòng lạnh buốt - và tối hơn. Vòng tròn nến trên bàn vẫn đang cháy, tỏa ra một vầng sáng duy nhất nhỏ nhoi, lạnh lẽo. Will quay phắt lại, kinh hoàng chằm chằm nhìn lò sưởi; không có dấu vết nào của khói, của nước, hay của bất kỳ thứ gì có thể làm cho ngọn lửa tắt. Nhưng nó đã tắt hoàn toàn, lạnh và tối, không một đốm lửa nào sót lại. Cậu từ từ đi về phía lò sưởi. Ông Merriman và quý bà không nói một lời và cũng không cử động. Will cúi người xuống, sờ vào những thanh củi đen trong lò sưởi, và chúng đều lạnh như đá - nhưng vẫn phủ một lớp tro mới, lớp tro ấy rơi xuống thành những hạt bụi trắng dưới ngón tay cậu. Cậu đứng dậy, chậm chạp xoa tay vào ống quần, hoang mang nhìn ông Merriman. Đôi mắt sâu thẳm của ông sáng rực lên như một ngọn nến màu đen, nhưng trong đó vẫn chan chứa sự cảm thông, và khi Will lo lắng liếc sang phía quý bà, cậu cũng nhận thấy nét nhân hậu trên khuôn mặt ấy. Bà dịu dàng nói: “Không khí hơi lạnh, Will à.”

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi chỉ vừa bằng một suy nghĩ chớp nhoáng, Will cảm thấy nỗi sợ hãi gào thét trong lòng, cảm thấy trỗi dậy ký ức về những giây phút kinh hoàng mà cậu đã trải qua trong đêm bão tuyết rùng rợn đen tối đó, rồi nỗi sợ ấy tan biến và cùng với nó, tâm hồn cậu dần trở lại bình lặng, cậu thấy mình dường như khỏe hơn, lớn hơn và thoải mái hơn. Cậu biết rằng dù cái quyền năng ấy là gì đi nữa thì trong một chừng mực nào đó cậu đã bắt đầu chấp nhận nó, thứ mà cậu đã khăng khăng phủ nhận và giờ đây cậu biết cậu phải làm gì. Hít một hơi thật sâu, cậu vươn vai, đứng thẳng và vững chãi giữa căn phòng lớn. Cậu mỉm cười với quý bà; rồi hướng cái nhìn vô định ra xa hơn và tập trung vào hình ảnh ngọn lửa. Quay lại nào, ngọn lửa, cậu nói thầm trong đầu. Cháy lại đi. Và ánh sáng lại nhảy múa trên những bức tường treo thảm, hơi ấm của ngọn lửa lại phả vào gáy cậu, lửa đã cháy trở lại.

“Cảm ơn cháu,” quý bà nói.

“Làm tốt lắm,” ông Merriman nhẹ nhàng nói, và Will hiểu ông không chỉ nói đến mỗi việc cậu đã dập tắt rồi lại đốt cháy được ngọn lửa.

“Đó là một gánh nặng,” ông Merriman nói. “Đừng bao giờ nhầm lẫn về điều đó. Bất kỳ một năng lực, sức mạnh, hay tài năng vĩ đại nào cũng đều là một gánh nặng, và quyền năng này còn nặng nề hơn bất kỳ điều gì khác, và rồi cậu sẽ thường xuyên mong ước được thoát khỏi nó. Nhưng không thể thay đổi được gì đâu. Nếu cậu được sinh ra cùng vơi năng lực ấy thì cậu phải phục vụ nó, dù ở thế giới này hay bất kỳ nơi nào khác thì cũng không gì có thể ngăn cản cậu phụng sự nó được, bởi vì đó chính là lý do mà cậu có mặt trên đời và đó là Luật. Và, Will ạ, sẽ càng tốt hơn cho cậu nếu cậu chỉ có khái niệm mơ hồ về sự tồn tại cái năng lực đó của mình, vì cho đến khi đã trải qua hết những thử thách về kiến thức đầu tiên thì trước mắt cậu vẫn còn nhiều mối đe dọa lớn. Và cậu biết càng ít về ý nghĩa quyền năng của mình thì nó sẽ càng dễ bảo vệ cậu hơn, giống như nó đã làm suốt mười năm qua.”

Ông nhìn chằm chằm vào đống lửa trong giây lát, nhíu mày, “Ta sẽ chỉ nói cho cậu biết điều này: cậu là một trong các Cổ Nhân, là người đầu tiên được sinh ra trong vòng năm trăm năm nay, và cũng là người cuối cùng. Cũng giống như những Cổ Nhân khác, cậu sinh ra là để cống hiến hết mình cho cuộc tranh đấu lâu dài giữa Ánh Sáng và Bóng Tối. Sự ra đời của cậu, Will ạ, đã hoàn thành một vòng tròn vốn phát triển từ bốn ngàn năm trước ở mọi vùng cổ xưa nhất trên mảnh đất này: vòng tròn các Cổ Nhân. Bây giờ, khi cậu đã nắm được quyền năng của mình, nhiệm vụ của cậu là bảo vệ vòng tròn đó khỏi bị hủy diệt. Sứ mệnh của cậu là tìm ra và bảo vệ sáu Dấu Hiệu Ánh Sáng vĩ đại đã được các Cổ Nhân tạo ra trong hàng thế kỷ, chúng chỉ hợp lực được khi vòng tròn đã khép kín. Dấu Hiệu đầu tiên đang nằm trên thắt lưng của cậu rồi, nhưng việc tìm được những Dấu Hiệu còn lại không hề dễ dàng. Cậu là Người Tìm Dấu Hiệu, Will Stanton à. Đó là sứ mệnh của cậu, là cuộc tìm kiếm đầu tiên của cậu. Nếu cậu hoàn thành được việc đó, cậu sẽ thức tỉnh một trong ba sức mạnh vĩ đại mà các Cổ Nhân sớm phải dùng đến để đánh bại thế lực Bóng Tối, cái thế lực hiện giờ đang không ngừng lén lút vươn ra khắp thế giới này.”

Nhịp điệu giọng nói của ông lúc lên bổng lúc xuống trầm và càng lúc càng nghiêm nghị, dần biến thành một lời kêu gọi chiến đấu; một yêu cầu, Will bất chợt nghĩ, cảm thấy lạnh tê người khi nghĩ tới những điều vượt ra ngoài căn phòng lớn này, vượt xa hẳn cả khoảng thời gian lời kêu gọi này đang phát ra. “Vì Bóng Tối, Bóng Tối đang trỗi dậy. Kẻ Lang Thang đã lên đường, Kỵ Sĩ đã lên ngựa; chúng đều đã thức giấc, Bóng Tối đang trỗi dậy. Và người cuối cùng của Vòng Tròn đã xuất hiện để khẳng định chính mình, và đã đến lúc các vòng tròn phải được hợp lực. Ngựa trắng phải gặp được Thợ Săn, dòng sông phải đổ về thung lũng; phải có lửa trên núi cao, lửa dưới đá thẳm và lửa khắp biển khơi. Lửa để thiêu rụi Bóng Tối, vì Bóng Tối, Bóng Tối đang trỗi dậy!”

Ông đứng đó, lừng lững như một thân cây trong căn phòng tối, giọng nói trầm trầm vang vọng, và Will không thể rời mắt khỏi ông. Bóng Tối đang trỗi đậy. Đó chính là điều cậu cảm thấy tối qua. Đó cũng là điều bây giờ cậu lại cảm thấy, một cảm giác mơ hồ về cái xấu xa đang châm vào các đầu ngón tay và đỉnh cột sống cậu, nhưng dù có chết cậu cũng không thể thốt ra được một lời. Ông Merriman nói, bằng một giọng du dương thật kỳ lạ so với thân hình cao lớn của ông, tựa như một chú học trò đang đọc bài:

Khi Bóng Tối trỗi dậy; sáu vật đẩy lùi ngay,

Ba từ vòng tròn đến, ba từ giữa đường ra;

Gỗ, đồng và sắt; nước, lửa và đá;

Năm vật quay trở lại, một lẻ loi lên đường.

Rồi ông bước ra khỏi bóng tối, đi qua quý bà lúc này vẫn ngồi yên trên chiếc ghế tựa, đôi mắt sáng rực; một tay ông nhấc một ngọn nến trắng to ra khỏi vòng tròn nến đang cháy, còn tay kia xoay người Will về phía những bức tường cao ngất.

“Nhìn thật kỹ, từng chút một, Will nhé,” ông nói. “Các Cổ Nhân sẽ cho cậu thấy một điều gì đó vè chính họ, và sẽ đánh thức phần sâu thẳm nhất trong cậu. Mỗi lần nhìn một thứ.” Và cùng với Will bên cạnh, ông sải những bước dài quanh căn phòng, hết lần này đến lần khác giơ cao ngọn nến trước từng tấm thảm treo trên tường. Mỗi lần như vậy, như thể được ông sai khiến, một hình ảnh trên tấm thảm thêu hình vuông lại sáng bừng lên trong giây lát, rạng rỡ và sâu thẳm tựa như khung cảnh dưới ánh sáng mặt trời ngoài ô cửa sổ. Và Will đã thấy.

Cậu thấy một cây táo gai nở hoa trắng muốt, mọc lên từ một mái nhà lợp rạ. Cậu thấy bốn cột đá xám khổng lồ trên một mũi đất xanh rì vươn ra phía biển. Cậu nhìn thấy một cái sọ ngựa trắng nhởn không còn mắt nhe răng nhăn nhở, trên đó là một cái sừng mập, ngắn nứt toác mọc từ cái trán còn toàn xương và những dải ruy băng đỏ treo trên cái mõm dài. Cậu thấy tia chớp đang đánh vào một cây sồi cổ thụ và sau ánh chớp, một ngọn lửa khổng lồ bùng cháy trên sườn đồi trọc giữa nền trời đen kịt.

Cậu thấy khuôn mặt một thằng bé không lớn tuổi hơn cậu là mấy, đang tò mò nhìn cậu chằm chằm: một khuôn mặt đen dưới mái tóc đen, với cặp mắt kỳ lạ nhìn như mắt mèo, viền ngoài đồng tử nhạt màu nhưng bên trong con ngươi hầu như là màu vàng. Cậu thấy một dòng sông rộng đang cuồn cuộn dâng nước lên và bên cạnh là một ông già gầy đét cưỡi một con ngựa lớn. Khi ông Merriman liên tục xoay người cậu từ bức tranh này sang bức tranh khác, đột nhiên cậu nhìn thấy, trong một thoáng kinh hoàng, hình ảnh sáng nhất: một người đàn ông đeo mặt nạ với khuôn mặt người, đầu hươu, mắt cú, tai sói, và mình ngựa. Hình người đó đã chạm tới phần ký ức sâu thẳm đã bị lãng quên nào đó trong tâm trí cậu.

“Hãy nhớ những hình ảnh này,” ông Merriman nói. “Chúng sẽ là sức mạnh.”

Will gật đầu, rồi cứng người lại. Đột nhiên cậu nghe thấy những âm thanh đang lớn dần bên ngoài căn phòng, và sững người nhận ra lý do khiến vừa rồi cậu cảm thấy khó chịu đến thế. Trong lúc quý bà vẫn ngồi bất động trên ghế, còn cậu và ông Merriman lại ra đứng cạnh lò sưởi thì gian đại sảnh bỗng tràn ngập những tiếng rên rỉ, lầm bầm và than vãn thê thảm như tiếng kêu của những con vật bị cầm tù trong một vườn bách thú quỷ quái. Đó là âm thanh ghê rợn hơn bất kỳ thứ âm thanh nào cậu từng nghe.

Tóc gáy Will dựng ngược lên, nhưng rồi đột nhiên không gian lại yên ắng. Một thanh củi trong lò sưởi lách tách rơi xuống. Will nghe thấy mạch máu mình đang rần rật. Và trong im lặng, một âm thanh mới vọng vào từ đâu đó ngoài kia, phía sau bức tường xa xa: tiếng rên van vỉ đầy đau đớn của một con chó bị bỏ rơi đang hoảng hốt cầu khẩn sự giúp đỡ và tình bạn. Nó giống hệt tiếng con Raq và con Ci, hai con chó của nhà cậu, khi chúng mới là những con chó con, kêu lên để tìm sự an ủi trong bóng tối. Will thấy lòng mình tràn đầy thương cảm và theo bản năng quay người về phía phát ra âm thanh đó.

“Ôi, nó đang ở đâu thế? Con vật tội nghiệp…”

Khi cậu nhìn vào lớp đá trống trơn trên bức tường xa xa đó, cậu thấy một cánh cửa đã được định hình. Nó không giống hai cánh cửa khổng lồ đã biến mất khi cậu mới bước vào đây, mà nhỏ hơn nhiều; một cánh cửa bé xíu, lạ lùng, trông chẳng phù hợp với nơi này chút nào. Nhưng cậu biết rằng cậu có thể mở nó ra để giúp con chó đáng thương đang cầu khẩn kia. Con vật lại tiếp tục rên rỉ với vẻ đau khổ còn lớn hơn trước, to hơn, khẩn nài hơn, gần như thành một tiếng tru tuyệt vọng. Will hấp tấp quay người chạy ra cửa; nhưng rồi khựng lại giữa chừng khi thấy tiếng ông Merriman. Giọng ông nhẹ nhàng nhưng lạnh băng như đá mùa đông.

“Đợi đã. Nếu cậu nhìn thấy con chó u sầu tội nghiệp đó, cậu sẽ rất ngạc nhiên đấy. Và đó sẽ là thứ cuối cùng cậu có thể nhìn thấy trên cõi đời này.”

Hoài nghi, Will đứng yên và chờ đợi. Tiếng rên rỉ tắt lịm trong hồi tru cuối cùng. Trong giây lát không gian chìm trong yên lặng. Rồi đột nhiên cậu nghe thấy tiếng mẹ cậu vọng từ sau cánh cửa.

“Will? Wiii…iill ơi… Đến đây giúp mẹ với, Will!” Đúng là tiếng mẹ cậu không lẫn vào đâu được, nhưng trong giọng nói ấy lại tràn ngập một cảm xúc khác thường: có một thoáng sợ hãi bị kìm nén khiến cậu kinh hoàng. Tiếng kêu lại vọng đến. “Will à? Mẹ cần con… Con đang ở đâu, Will? Ôi, xin con, Will, đến giúp mẹ đi với…” Và cuối cùng là một tiếng tắc nghẹn đau khổ, nghe như tiếng nức nở.

Will không thể chịu được nữa. Cậu lao về phía cửa. Giọng ông Merriman gọi với theo nghe như tiếng roi quất. “Dừng lại!”

“Nhưng cháu phải đi, ông không nghe thấy tiếng mẹ cháu à?” Will hét lên giận dữ. “Chúng đã bắt được mẹ cháu: cháu phải cứu…”

“Đừng mở cánh cửa đó!” Trong giọng nói trầm trầm của ông Merriman ẩn chứa một sự tuyệt vọng mách bảo bản năng của Will rằng khi nguy kịch nhất, ông không đủ quyền năng để ngăn được cậu.

“Đó không phải là mẹ cháu đâu, Will,” quý bà nói rành mạch.

“Xin con, Will!” Giọng mẹ cậu lại khẩn khoản.

“Con đến đây!” Will chạy tới cái then cửa nặng nề, nhưng do vội vàng, cậu loạng choạng va vào cái giá đựng nến to tướng cao ngang đầu làm cánh tay cậu đập mạnh vào bên sườn, cẳng tay cậu đột nhiên đau rát, cậu thét lên và ngã xuống nền, nhìn chằm chằm vào phía bên trong cổ tay, nơi dấu hiệu mang hình một vòng tròn bị chia tư in thành vết bỏng đỏ ửng. Một lần nữa chính biểu tượng bằng sắt cậu đeo trên dây thắt lưng ấy đã ngăn cậu lại bằng cái lạnh buốt ghê gớm; lần này nó làm cậu phát bỏng với cái lạnh như băng tuyết, một lời cảnh báo đầy giận dữ về sự hiện diện của thế lực xấu xa - sự hiện diện mà Will cũng đã cảm thấy nhưng lại quên mất. Ông Merriman và quý bà vẫn không nhúc nhích. Will loạng choạng đứng lên và lắng nghe, trong khi bên ngoài cánh cửa, tiếng mẹ cậu vẫn than khóc, rồi trở nên giận dữ, rồi đe dọa; rồi lại nhẹ nhàng tỉ tê, dỗ dành ngon ngọt; và cuối cùng cũng ngừng lại, tắt dần trong tiếng khóc nức nở làm cậu tan nát cõi lòng dù lý trí và cảm giác nói với cậu rằng đây không phải là thực.

Và cánh cửa cũng mờ dần cùng tiếng khóc, biến mất như sương khói, cho đến khi bức tường đá xám liền lại thành một khối như trước. Bên ngoài, những tiếng rên rỉ, gào thét man dại không giống tiếng người lại bắt đầu.

Quý bà đứng dậy và bước ngang qua phòng, chiếc váy màu xanh lá cây của bà kêu sột soạt nhè nhẹ theo bước chân. Bà đưa cả hai tay cầm lấy cánh tay bị đau của Will và đặt lòng bàn tay phải mát lạnh lên trên đó. Rồi bà thả tay ra. Cảm giác đau đớn ở cánh tay Will đã hết, vết bỏng đỏ rát lúc trước giờ chỉ còn là một vùng da nhẵn nhụi, không có lông và sáng bóng, lớp da thế này thường chỉ xuất hiện khi vết bỏng đã lành được một thời gian dài. Nhưng hình dáng vết sẹo ấy rất rõ nét, và cậu biết rằng cậu sẽ mang nó theo cho tới tận cuối đời, nó như dấu sắt nung đóng vào da thịt tội nhân.

Những âm thanh ma quái bên ngoài bức tường lúc lên cao, lúc xuống thấp thành từng đợt thất thường.

“Cháu xin lỗi,” Will đau khổ nói.

“Cậu thấy đấy, chúng ta bị bao vây rồi,” ông Merriman nói, bước tới chỗ hai người. “Chúng hy vọng kiểm soát được cậu khi quyền năng của cậu chưa phát tiết hết. Và đây mới chỉ là sự bẩt đầu của hàng loạt hiểm nguy sắp tới thôi, Will à. Trong suốt mùa đông này, sức mạnh của chúng sẽ lớn dần lên, mà Pháp thuật Cổ xưa chỉ có thể đẩy chúng ra xa trong đêm Giáng sinh. Thậm chí ngay sau Giáng sinh, nó vẫn tiếp tục lớn mạnh, không bị suy yếu đi, cho đến tận Ngày Thứ Mười Hai, Đêm Thứ Mười[5] - mà trước đây đã từng là ngày Giáng sinh, và trước đó nữa, vào thời xa xưa của chúng ta, đã từng là ngày lễ mùa đông.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra ạ?” Will hỏi.

“Chúng ta chỉ nên nghĩ tới những việc chúng ta phải làm thôi,” quý bà nói. “Và điều trước tiên là phải giải thoát cháu khỏi vòng vây của thế lực bóng tối đang bao quanh căn phòng này.”

Ông Merriman chăm chú lắng nghe và nói, “Hãy tự bảo vệ mình. Hãy chiến đấu chống lại bất kỳ thứ gì. Chúng đã thất bại khi đánh vào một cảm xúc vừa rồi; chúng sẽ cố gắng giăng bẫy cậu bằng cảm xúc khác.”

“Nhưng cháu không được sợ hãi,” quý bà nói. “Hãy ghi nhớ điều đó, Will. Cháu sẽ bị đe dọa, thường xuyên, nhưng đừng bao giờ sợ hãi. Những thế lực của Bóng Tối có thể giở nhiều trò xấu xa, nhưng chúng không thể hủy diệt được. Chúng không thể giết chết những thế lực của ánh sáng. Không thể, trừ khi chúng giành được sự thống trị cuối cùng trên toàn thế gian này. Và nhiệm vụ của các Cổ Nhân - nhiệm vụ của cháu và của chúng ta - là ngăn chặn điều đó. Vì thế đừng để bọn chúng làm cháu sợ hãi hay thất vọng.”

Quý bà vẫn tiếp tục nói nhưng giọng bà chìm nghỉm như một hòn đá lọt thỏm dưới lớp sóng thủy triều vì những âm thanh rùng rợn lúc rên rỉ lúc than vãn bên ngoài bức tường căn phòng mỗi lúc một to hơn, to hơn, nhanh hơn và giận dữ hơn, thành một mớ hỗn loạn những tiếng rít và tiếng cười quái dị, tiếng hét sợ hãi lẫn với tiếng cười đùa, tiếng hú hòa với tiếng gầm. Khi Will nghe những âm thanh đó, da cậu sởn gai ốc, mồ hôi túa ra.

Hệt như đang trong một giấc mơ, cậu nghe thấy giọng trầm trầm của ông Merriman đang gọi cậu xuyên qua những tiếng kêu quái dị đó. Nếu quý bà không cầm lấy tay cậu, kéo cậu trở lại chỗ cái bàn và lò sưởi, mảng sáng còn lại duy nhất trong căn phòng tối thì cậu đã không thể nào nhúc nhích nổi. Ông Merriman ghé sát tai cậu, nói nhanh và khẩn thiết “Đứng bên cạnh cái vòng, cái vòng ánh sáng ấy. Đứng quay lưng về phía bàn, và cầm lấy tay chúng ta. Đây là một kết nối mà chúng không thể phá vỡ được.”

Will đứng đó, hai tay dang rộng, và dù cậu không nhìn thấy hai người đứng bên cạnh mình, nhưng mỗi người đều nắm lấy một tay cậu. Ánh lửa trong lò sưởi đã tắt, và cậu cảm nhận được rằng phía sau cậu, ngọn lửa của vòng tròn nến trên bàn đã cháy cao hơn và lớn hơn, cao đến nỗi khi ngả đầu về phía sau, cậu có thể nhìn thấy chúng bốc lên quá đầu cậu tạo thành một cột ánh sáng trắng. Cái cây lửa vĩ đại này không tỏa nhiệt, và mặc dù rất sáng, ánh sáng của nó vẫn không tỏa ra ngoài phạm vi cái bàn. Will không thể nhìn thấy phần còn lại của căn phòng, không thấy bức tường, bức tranh hay bất kỳ cánh cửa nào. Cậu không thể nhìn thấy gì ngoài bóng tối, một khoảng trống tối om mênh mông trong màn đêm đen ngòm đáng sợ này.

Đó chính là Bóng Tối, đang trỗi dậy, đang trỗi dậy hòng nuốt chửng Will Stanton trước khi cậu đủ mạnh để làm chúng bị tổn hại. Trong luồng ánh sáng tỏa ra từ những ngọn nến lạ kỳ đó, Will nắm chặt lấy những ngón tay gầy yếu của vị lão bà và nắm tay cứng như gỗ của ông Merriman. Tiếng gào rú của Bóng Tối giờ to đến mức không thể chịu nổi, một tiếng rền rĩ the thé đầy đắc thắng, và mặc dù không nhìn thấy gì, Will vẫn biết rằng ngay trước mặt cậu, trong bóng tối, con ngựa ô khổng lồ đang chồm lên như nó từng chồm lên bên ngoài túp lều trong rừng, và tên Kỵ Sĩ đang đứng đó để sẵn sàng hạ gục cậu nếu mấy cái móng mới đóng của con ngựa không hoàn thành nhiệm vụ. Và lần này thì không có con ngựa trắng nào từ trên trời xuống cứu cậu hết.

Cậu nghe thấy tiếng ông Merriman kêu lớn: “Cây lửa, Will! Tấn công bằng lửa! Giống như lúc cậu điều khiển ngọn lửa lò sưởi, hãy điều khiển ngọn lửa nến, và tấn công đi!”

Vâng lệnh ông một cách tuyệt vọng, Will để đầu óc mình tràn ngập hình ảnh một vòng tròn lớn toàn những ngọn lửa nến bùng bùng đằng sau cậu, vươn lên như một cái cây màu trắng; cùng lúc đó, cậu cảm thấy hai người đang sát cánh cùng cậu cũng đang làm điều tương tự, và cậu biết rằng cả ba người họ có thể cùng nhau làm được những điều kỳ diệu hơn cả những gì cậu từng tưởng tượng. Cậu cảm thấy hai bàn tay kia siết vội tay cậu, và trong trí óc mình, cậu hình dung cột ánh sáng quất về phía trước như một cái roi khổng lồ. Bên trên đầu cậu xuất hiện một luồng ánh sáng trắng lớn và khi ngọn lửa khổng lồ ấy vụt về phía trước và giáng xuống như một tia sét thì có tiếng rú to khủng khiếp từ trong bóng tối khi một cái gì đó - gã Kỵ Sĩ, con ngựa ô, hoặc cả hai - lùi lại, ngã ra, rơi xuống, rơi xuống mãi.

Và trong vệt ánh sáng chiếu vào khoảng tối trước mặt, trong khi mắt cậu vẫn còn bị lóa, xuất hiện hai cánh cửa gỗ khổng lồ chạm trổ mà cậu đã bước qua để vào căn phòng.

Trong sự im lặng đột ngột, Will nghe thấy tiếng mình reo lên đắc thắng, và cậu nhảy bổ về phía trước, giật ra khỏi hai bàn tay đang nắm chặt lấy tay cậu, rồi chạy ra cửa. Cả ông Merriman và quý bà cùng kêu lên thất thanh nhưng đã quá muộn. Will đã phá vỡ vòng tròn, cậu đang đứng một mình. Cậu vừa nhận ra điều đó thì đã thấy đầu óc choáng váng, cậu loạng choạng ôm lấy đầu, một tiếng ù ù lạ lùng bắt đầu rung lên đều đều trong tai cậu. Cố lết chân đi, cậu lảo đảo đến bên cánh cửa, dựa người vào và yếu ớt đấm lên cửa. Chúng không suy chuyển. Tiếng kêu kỳ quái trong đầu cậu càng lúc càng to hơn. Cậu nhìn thấy ông Merriman tiến về phía cậu, phải cố gắng lắm mới bước đi được, người chúi về phía trước như đang ngược chiều một cơn gió lớn.

“Thật ngu ngốc,” ông Merriman hổn hển. “Thật ngu ngốc, Will ạ.” ông nắm lấy hai cánh cửa và lắc, dùng cả hai cánh tay đẩy mạnh hết sức về phía trước đến nỗi những mạch máu chằng chịt hai bên trán hằn lên trên da như cuộn dây thép dày; cùng lúc đó, ông ngẩng đầu lên và hét to một tràng lệnh mà Will không hiểu. Nhưng hai cánh cửa vẫn không suy chuyển còn Will thì cảm thấy mình lả dần đi, như thể cậu là một người tuyết đang tan chảy dưới ánh nắng mặt trời.

Cậu hồi tỉnh đúng lúc cậu đang bắt đầu trôi vào trạng thái mê man nhờ một cái gì đó cậu không bao giờ có thể diễn tả được - thậm chí cậu cũng không nhớ rõ. Nó giống như liều thuốc giảm đau, như nốt nhạc nghịch tai bỗng nhiên hòa điệu; như ánh sáng làm tâm trạng của cậu rạng ngời trong một ngày ảm đạm mà chính cậu cũng không thể hiểu nổi cho đến khi cậu nhận ra mặt trời đã bắt đầu chiếu sáng. Tiếng nhạc lặng lẽ đã đi vào trong tâm trí và làm choáng ngợp cả tâm hồn cậu lại vẳng đến, và ngay lập tức, cậu biết tiếng nhạc đó là của quý bà. Không thốt ra lời nào nhưng thực ra bà đang nói chuyện với cậu. Bà đang nói với cả hai người - và với Bóng Tối. Cậu quay đầu nhìn lại, choáng ngợp; quý bà dường như cao hơn, lớn hơn, vững chãi hơn trước, vẫn là hình dáng của bà nhưng được phóng đại lên nhiều lần. Quanh người bà tỏa ra một lớp sương vàng mờ ảo, một luồng sáng không phải từ những ngọn nến chiếu ra.

Will chớp mắt, nhưng cậu không thể nhìn rõ được, dường như có một bức màn che giữa cậu và bà. Cậu nghe thấy giọng nói trầm trầm của ông Merriman trở nên dịu dàng hơn bao giờ hết, nhưng như bị vò xé bởi một nỗi đau buồn đột ngột và mãnh liệt nào đó. “Quý Bà,” Merriman đau đớn nói. “Xin hãy cẩn trọng, hãy cẩn trọng.”

Không có tiếng đáp lại nhưng Will có cảm giác như mình vừa được ban phúc. Rồi cảm giác ấy biến mất, và bóng dáng cao lớn đang tỏa sáng ấy đúng là mà cũng không phải là quý bà chậm chạp đi vào bóng tối, hướng về phía hai cánh cửa, và trong giây lát, Will lại nghe thấy điệu nhạc ám ảnh mà câu không bao giờ có thể nắm bắt được trong ký ức của mình, và cánh cửa từ từ mở ra. Bên ngoài chỉ có ánh sáng màu xám, sự im lặng và không khí lạnh ngắt.

Đằng sau cậu, ánh sáng tỏa ra từ vòng tròn nến đã tắt, chỉ còn lại bóng tối. Một thứ bóng tối trống rỗng, khó chịu, khiến cậu biết rằng căn phòng không còn ở đó nữa. Và đột nhiên cậu nhân ra bóng người đang tỏa ra ánh sáng vàng trước mặt cậu cũng đang mờ dần, đang biến mất, giống như làn khói đang mỏng dần, mỏng dần đến khi không thể nhìn thấy gì nữa. Trong chớp mắt, chiếc nhẫn lớn vẫn nằm trên tay quý bà chợt lóe lên hồng rực, và rồi ánh sáng đó cũng tắt dần, hình ảnh rực rỡ của bà cũng tan biến vào hư vô. Will cảm thấy nỗi đau đến tuyệt vọng của sự mất mát, như thể toàn bộ thế giới này đã bị Bóng Tối nuốt chửng, và cậu thét lên.

Một bàn tay chạm vào vai cậu. Merriman đang đứng bên cạnh cậu. Họ đã đi qua hai cánh cửa. Hai cánh cửa gỗ khổng lồ chạm trổ từ từ đóng lại đằng sau họ, đủ thời gian để cậu nhìn thấy rất rõ chúng chính là những cánh cửa kỳ lạ trước đó đã mở ra trên con dốc hoang trắng xóa của Đồi Chiltern. Rồi, ngay giây phút hai cánh cửa khép lại, chúng cũng biến mất luôn. Cậu không còn nhìn thấy gì nữa: chỉ thấy ánh xám xịt của tuyết phản chiếu một bầu trời cũng xám xịt như vậy. Cậu đã quay trở lại rừng cây tuyết phủ mà cậu đi sáng nay.

Cậu lo lắng quay vội lại phía ông Merriman: “Bà ấy đi đâu rồi? Chuyện gì xảy ra thế ạ?”

“Thế là quá sức đối với bà ấy. Sự căng thẳng quá mức, kể cả đối với bà ấy. Chưa bao giờ… ta chưa bao giờ thấy chuyện này.” Giọng ông nghe nặng nề và cay đắng; ông giận dữ nhìn vào khoảng không vô định.

“Có phải chúng đã… bắt bà ấy đi rồi?” Will không biết dùng từ nào để diễn tả nỗi sợ hãi mà cậu đã cảm thấy.

“Không!” Ông Merriman nói. Câu trả lời ngắn gọn đầy vẻ miệt thị, nghe như một tiếng cười khinh bạc. “Quý Bà ở trên tầm quyền năng của chúng. Trên tầm bất cứ quyền năng nào. Cậu sẽ không hỏi những câu như vậy khi cậu đã học được thêm một chút. Bà ấy sẽ đi xa trong một thời gian, chỉ có vậy thôi. Khi phải đối mặt với những thế lực đang tìm mọi cách để đóng hai cánh cửa lại, bà ấy cần phải làm thế để mở chúng ra. Mặc dù Bóng Tối không thể hủy diệt bà, nhưng nó đã làm bà cạn kiệt sinh lực, khiến bà chỉ còn như một cái xác ve. Bà phải tự mình hồi phục lại, một mình ở nơi xa, và điều đó không có lợi cho chúng ta nếu chúng ta cần đến bà. Vì chúng ta sẽ cần bà. Cũng như thế giới này lúc nào cũng cần đến bà.” Ông nhìn xuống Will với ánh mắt lạnh tanh; đột nhiên ông dường như trở nên xa cách, gần như hăm dọa, như một kẻ thù; ông nôn nóng khoát tay: “Cài áo lại, nhóc, không thì chết cóng đấy.”

Will lóng ngóng cài mấy khuy áo khoác ngoài; cậu thấy ông Merriman mặc một cái áo choàng màu xanh cao cổ đã cũ mèm.

“Lỗi của cháu phải không?” Cậu đau khổ nói. “Nếu cháu không chạy lên trước lúc nhìn thấy cánh cửa… nếu cháu vẫn giữ tay của ông và bà ấy, và không phá vỡ vòng tròn…”

Merriman trả lời cộc lốc. “Đúng thế,” rồi ông có vẻ dịu lại một chút. “Nhưng đó là lỗi của chúng chứ không phải của cậu, Will ạ. Chúng đã nắm được cậu, thông qua sự nôn nóng và hy vọng của cậu. Bọn chúng thích biến những tình cảm tốt đẹp trở thành xấu xa.”

Will đứng khom vai, hai tay đút túi, mắt nhìn chằm chằm xuống đất. Trong đầu cậu, một điệp khúc văng vẳng như chế nhạo: Mày đã làm mất Quý Bà, mày đã làm mất Quý Bà. Cậu thấy cổ họng nghẹn đắng; cậu nuốt nước bọt; cậu không thể cất nên lời. Một luồng gió nhẹ thổi qua những tán cây làm vương những tinh thể tuyết trắng lên mặt cậu.

“Will,” ông Merriman nói. “Ta đã quá giận dữ. Hãy tha thứ cho ta. Dù cậu có phá vỡ Bộ Ba hay không thì mọi việc sẽ vẫn diễn ra như vậy thôi. Hai cánh cửa khổng lồ là lối vào Thời Gian của chúng ta, và chẳng bao lâu nữa cậu sẽ biết nhiều hơn về công dụng của nó. Nhưng lần này cậu không thể mở được cánh cửa đó, ta cũng không, hay bất kỳ ai trong vòng tròn cũng vậy. Bởi sức mạnh đang giữ tấm cửa lần này là sức mạnh tối đa giữa mùa đông của Bóng Tối, mà không ai ngoài Quý Bà có thể vượt qua được một mình - thậm chí ngay cả Bà cũng phải trả một cái giá rất đắt. Đừng nản lòng; vào một thời điểm thích hợp, bà ấy sẽ trở lại.”

Ông kéo cổ áo choàng lên biến nó thành một cái mũ trùm đầu. Khi mái tóc bạc bị che khuất, ông bất chợt biến thành một dáng người tối sẫm, cao lớn và bí hiểm. “Đi thôi,” ông nói và dẫn Will đi qua lớp tuyết dày giữa những cây sồi khổng lồ trụi lá. Đi được một lúc lâu, họ dừng lại ở một khoảng rừng thưa.

“Cậu có biết cậu đang ở đâu không?” Ông Merriman hỏi.

Will chăm chú nhìn những đống tuyết mịn và đám cây lô nhô xung quanh. “Tất nhiên là không ạ,” cậu trả lời. “Làm sao mà cháu biết được chứ?”

“Tuy nhiên khi sắp được ba phần tư mùa đông,” ông Merriman giải thích, “cậu sẽ lẻn vào thung lũng này và ngắm những cây hoa xuyên tuyết mọc khắp nơi xen giữa cây cối. Rồi vào mùa xuân cậu sẽ trở lại để ngắm hoa thủy tiên. Ngày nào cũng đến trong suốt một tuần liền, để đánh giá xem có gì khác so với năm trước.”

Will há hốc miệng nhìn ông. “Ý ông nói đến Trang Viên phải không?” Cậu hỏi. “Khu đất của Trang Viên chứ gì?”

Trong thế kỷ mà cậu đang sống, Trang Viên ở Thung Lũng Thợ Săn là ngôi nhà lớn nhất làng. Từ ngoài đường người ta không thể nhìn thấy ngôi nhà, nhưng đất đai của trang viên này trải dài mênh mông dọc theo đường Thung Lũng Thợ Săn đối diện nhà Stanton, được bao quanh bởi những dãy hàng rào cao bằng sắt hoặc tường gạch cũ kỹ. Một bà cô chưa chồng Greythorne nào đó là chủ ngôi nhà, giống như gia đình bà đã sở hữu nó từ bao thế kỷ nay, nhưng Will không biết nhiều về bà; cậu hiếm khi nhìn thấy bà hay cái Trang Viên vốn chỉ nhớ mang máng là có những cột chống xây bằng gạch rất cao và ống khói theo kiểu Tudor[6]. Những bông hoa mà ông Merriman nhắc đến là những cái mốc riêng tư trong thời của cậu. Từ lâu lắm rồi, cuối mùa đông nào cậu cũng lẻn qua hàng rào Trang Viên để đứng giữa khoảng rừng thưa kỳ diệu này ngắm những bông hoa xuyên tuyết mùa đông duyên dáng đang tàn và sau đó là những bông thủy tiên mùa xuân vàng rực rỡ. Cậu không biết ai đã trồng những bông hoa đó; cậu chưa từng thấy ai đến đó chăm nom chúng. Thậm chí cậu không chắc liệu có người nào khác biết về những bông hoa đó hay không. Giờ đây hình ảnh những bông hoa như tỏa sáng trong tâm trí cậu.

Nhưng những câu hỏi dồn dập ùa đến nhanh chóng xua tan hình ảnh ấy. “Ông Merriman? Ý ông là khoảng rừng thưa này đã xuất hiện ở đây từ hàng trăm năm trước khi cháu nhìn thấy nó sao? Còn gian đại sảnh đó nữa, có phải đó là một Trang Viên khác, lâu đời hơn cái Trang Viên mà cháu biết hàng thế kỷ? Còn rừng cây ở quanh chúng ta, nơi cháu đã đi qua và nhìn thấy người thợ rèn và tên Kỵ Sĩ… nó rộng mênh mông, có phải nó thuộc về…?”

Ông Merriman cúi xuống nhìn cậu và bật cười, một nụ cười sảng khoái bất ngờ, không gợn chút gì sự nặng nề vừa bao trùm lên cả hai người.

“Để ta chỉ cho cậu thấy một thứ khác,” ông nói và kéo W