← Quay lại trang sách

THỜI KỲ THỨ TƯ -(1920-1940)-

Hai nhà lãnh tụ cách mạng, một nhà bị mệt mỏi ở phương Đông, một nhà bị cùng khốn ở phương Tây, họa Hán Học cũ mòn rụi như lá sau mùa Thu, bọn Tây học mới còn đương non trẻ mới đầu mùa. Hơn nữa, cuộc Âu chiến kết liễu, thanh thế nước Pháp lừng lẫy trên chín lừng trời, mà hơi thừa của đảng cách mạng Việt Nam chìm ngấm dưới chín lớp đất, người Pháp tự tin rằng gối cao ngủ yên không phải lo ngại gì cả. Còn nước ta cả trong lẫn ngoài, phân nửa đã nguội lòng thối chí, bạn trẻ Âu học phần đông quên cả nguồn gốc sùng bái người Âu đến cực điểm, gần như không biết quốc gia là gì, lại thêm phái Đông học sỉa chân, trong có kẻ thay mặt đổi lòng trở làm tay trành hồ (mật thám) cho người Pháp là khác...Đó là thời kỳ đảng cách mạng Việt Nam rất nguội lạnh, rất đen tối, không có chút sanh khí, chút tia sáng nào. ‘’Núi cùng nước kiệt ngờ không lối’’ (sơn cùng thủy tận nghi vô lộ) nào ai có biết giống cách mạng ấy lại có một cơ hội ‘’lửa đồng thiên chưa hết, gió xuân đến lại mọc lên’’ (dã hỏa thiêu bất tận, đông phong xay hựu sanh) kia.

Cuộc Âu chiến kéo dài, bên thua bên hơn, cả hai phe đều mang vết thương nặng, thành thị hóa đống tro đen, ruộng đồng lưa gò đất đỏ, tiếng ‘’khoa học tự sát’’ và tình trạng kinh tế khủng bố, dồn với điều ước bất bình đẳng Versailles, khắp vùng toàn Âu có chịu rắc rối lay động, mà cái sức phản động ‘’kỳ quái’’ do thời thế thúc giục xuất hiện một cách không ngờ, nước ‘’không tưởng’’ của lý thuyết Mã Khắc Tư, chính phủ lao nông của Lê-nin, giải nhằn chỗ ngứa dân chúng, phong triều mới bên bồng bột vụt dậy, nào lao tư xung đột nhau, nào giai cấp tranh đấu nhau, nào tự do bình đẳng với chánh thể chuyên chế cứu thị nhau, nào chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa quốc gia chống chỏi nhau, nào quan niệm cá nhânvới quan niệm gia đình chia rẽ nhau, độc nồng nhiệt tăng lên cao điểm, cùng tràn nhẩy lên một trật, làm cho cả vùng không khí trên thế giới đều bị xô đẩy chà xát. Đại đa số quân chúng bị đè ép đã lâu, cùng lớp thanh niên tân tiến hí động, đua nhau xu hướng theo triều lưu mới, như tình thế ‘’nước lại vỡ đê’’, gần không có sức gì ngăn cản được. Đã thế mà các thứ sách báo đua nhau tuyên truyền cổ động thêm nữa, mà Âu Châu trở thành xứ trung tâm điểm, nào chiêu bài, nào quảng cáo, như thủy ngân đổ trên mặt đất, không lỗ nào không lọt vào. Phần tử cách mạng Việt Nam ta ở ngoài biển, bọn thiếu niên Tây học cùng quân lính công binh ta có dự cuộc Âu chiến về nước kích thích với ảnh hưởng ‘’cọng’’ nói trên, nhổm lên khắp nơi. Từ đó món của tán trong đám cách mạng cựu học cùng thứ rơm rác lau cỏ mà phái Tây học mới lượm lặt được nhập với các mồi nhạy lửa, hợp thành cái đuốc khá trộng, mà hột giống cách mạng chín ngầm im vắng mấy lâu thừa dịp nổ bùng, khí tỏ khí mờ, kéo dài vài năm, trong có mấy đặc điểm:

Cụ Tây Hồ bị tù ở bên Pháp, Cụ Sào Nam bị tù ở nước Tàu (bị Long Tể Quang Tỉnh Trưởng Quảng Đông bắt giam gần 4 năm), biển Đông biển Tây cách xa nhau không biết bao nhiêu. Sau ra tù ngục rồi, trông ra bốn phía, côi lạnh nhiệt thành ái quốc không giây phút nào dứt đoạn, tiềm tâm lặng nghĩ dò xét thời cơ, toan tìm chỗ hành động. Bèn thừa cái phong triều mới xu hướng xã hội nói tren, nghinh họp cái tư tưởng mới hấp thụ của thanh niên và quần chúng đặng nhem đốm lửa cách mạng trong đống tro tàn gần tắt kia mà trong bụng con cờ chết bỗng trổ ra nước cờ cơ cảnh đường đột kích người.

Cụ Tây Hồ ở bên Pháp, vừa dịp trời ngự giá Vua Khải Định sang Pháp, gởi ngay một bức thơ trong kể bảy điều tội, cả phái tân cựu trong ngoài điều kích thích với tiếng sét ấy. Tỏ tình hoan nghịch nhất là phái Tây học thanh niên, làm cho cái chính sách giả dối ủng hộ bề ngoài của người Pháp, thành ra cuộc hành động vô giá trị, vô ý thức.

Còn Cụ Sào Nam ở Trung Hoa, vừa dịp Toàn Quyền Đông Dương Merlin có cuộc sang Nhật Bản, đi ngangqua Quảng Đông, một tay tráng sĩ trong máu cách mạng (Phạm Hồng Thái) cắp chiếc dùiBác lãng (tạc đạn) trong túi, đánh một cái đùng ở Sa Điện, tuy trúng lầm người Pháp khác, Toàn Quyền khỏi chết, song kẻ cứu cũng kinh hồn mấy vía, không dám gọi là người Việt Nam không có tinh thần võ hiệp.

Kế đó Cụ Tây Hồ về Nam Kỳ, không bao lâu rủi bị bệnh ở Sài Gòn. Cụ Sào Nam bị bọn trành hồ lừa phỉnh, mà bọn ‘’cướp người’’ bắt ở Thượng Hải, đem về Hà Nội rồi tha về ở Huế, giam lỏng nơi Bến Ngự. Đường cùng của nhà anh hùng, tuy không hành động gì được, mà bọn thiếu niên tân tiến, vì cờ tuổi trẻ chưa có danh vọng, như ‘’cá mè một lứa’’, không ai chịu ở dưới ai, nên nảy ra cái quan niệm sùng bài các nhà chí sĩ tiên thời, phong khí có chìu đổi mới. Đồng thời ngoài có Nguyễn ái Quốc, trong có Nguyễn Thái Học, tay kiệntướng trong đảng làm chủ trì, trong ngoài có một sợi giao thông với nhau mà tất kịch quái gỡ đổi xác thay hình như bệnh dịch truyền nhiễm, đây là tín đồ của Lê-nin, kia học trò phái Mã Khắc Tư, nọ là phần tử Mã Chi Nê, Gia Lý Ba Đích, hiệp thành một khối, bèn diễn trên sân khấu nhiều thứ tuồng mới lạ ‘’xích hóa’’, ‘’biểu tình’’, ‘’đình công’’, ‘’quá khích’’ khiến thứ bom đạn tàu bay của người Pháp, không dùng ra việc đối ngoại mà trở ném bom xuống làng Cổ Am (Bắc) và Hà Tịnh v.v..., ngoài ra tàn sát nhân dân như dẫy cỏ, như săn thú, tù tội dắt đi đầy đường khắp cả trong nước, không kể xiết được.

Đó là thời kỳ cách mạng lần thứ tư, họp cả nhà Hán học già, bọn Âu học trẻ, và phong triều cả trong lẫn ngoài chung đụng nhau mà đúc ra, chính như trong Kinh Dịch, quẻ Đại Quá đã nói: ‘’Cây dương khó nảy nhánh, kẻ chồng già được người gái trẻ, (khó dương sanh thê, lão phu đắc kỳ nữ thê), đẻ ra đứa con bất thuần huyết thống, lại bị thuốc làm thôi sanh của thầy lang, nên không thành hình.

Tám mươi năm dưới thời kỳ thuộcPháp, trải bốn thời kỳ cách mạng trăm hình ngàn thái mà không lìa cái tôn chỉ yếu tố là đau lòng vì nước nhà nòi giống, bề ngoài có thay đổi, mà khí thế mở rộng và tiến dần lên. Khốn vì ‘’đạo cao lên một thước thì ma cao lên một trượng’’ (đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng), tinh lực của mình có hạn mà bàn tay sắt của kẻ dịch dày vò chặt phá cùng ngọn độc ác ‘’lột da ngoài, gạn mỡ trong’’, lớp nầy lớp nọ, diễn mãi không khi nào cùng, bởi vậy phừng dậy phen nào cũng bị té ngã phen nầy, cho đến ngày nay nó đã thành như chói mũi cái nỏ mạnh mà người Việt Nam không thể lấy tay không mà chống được, đau xót biết chừng nào!

Dưới nầy xin nói chính sách hiểm ác của người Pháp.