← Quay lại trang sách

THỜI KỲ THỨ BA (1900-1920)-

Tấn kịch ‘’Cần Vương’’ diễn một độ khá lâu rồi hạ màn. Các ông Tôn Thất Thuyết, Đề Soạn chạy sang nước Tàu, bị an trí tại Triều Châu, ông Tán Thuật cũng sang Tàu, Vua Hàm Nghi bị bọn trành hồ dâng công cho quân Pháp, theo tìm dõi riết, bắt được, vua bị đày sang Phi Châu. Sau nhiều trận quét đường dẫy cỏ, nghĩa đảng10 phần rời rã đến bảy, tám vua cũ bị đày đi xứ khác, ý nghĩa trung quân không chỗ nương dựa. Hơn nữa, cái Triều Đình con con dưới quyền bảo hộ người Pháp, lại diễn lại dàn trò ‘’thái bình múa hát’’ ngày xưa. Một tụi Bá Di Thúc Tề, thời chủ nghĩa trung quân mấy lúc, vì cái cớ rau Vi núi Thú Dương quá đắng, (nhứt đội Di Tề hạ Thủ Dương, cọng ngônVi khổ bất kham thường) không thể ăn mà sống được, bèn lần lượt về hàng với Triều Đình mới, Triều Đình dưới quyền người Pháp, trong vẫn có lớp dân cũ còn sót, ngoan ngạch với Nhà Châu (triều vua mới) bèn lòng yêu đời Nhà Tống (triều vua cũ), cũng chỉ ngậm cay nuốt đắng, lặng tiếng nín hơi dưới sức đè nặng của nhà cầm quyền. Bạn sĩ phu cùng một đôi người thức giả cũng nhận rằng đại cuộc đã hỏng rồi, không kéo lại được, non sông y cũ, thành quách khác xưa, duy có rưới giọt lệ ‘’lúa tươi bắp tốt’’ (mạch tú hòa du) khi qua lại trông cảnh đô thành cũ, và than thở cho việc nước không làm gì được nữa, trừ ra ôm mối đau đớn ấy đến trọn đời.

Địa ngục mấy tầng, ngọn triều Âu tràn vào ở bốn mặt, đồng nội mịt mù, đêm dài vằng vặc, bỗng đâu gà hàng xóm gáy lên một tiếng, giấc mộng quần chúng toạt tỉnh dậy, sau cuộc Trung-Nhật chiến tranh (1894), ‘’Canh Tý liên binh’’ (1900) người Trung Hoa đã dịch các học thuyết Đông Tây, sách báo của danh nhân như Khương Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tạp chí của phái cách mạng Tôn Dật Tiên, lần lần lọt vào nước ta. Trong học giới có bạn đã sẵn có tư tưởng quốc gia cùng lòng đau đớn với nòi giống, được đọc loại sách báo nói trên, như trong buồng tối bỗng chợtthấy tia sáng lọt vào, những học thuyết mới ‘’cạnh tranh sinh tồn’’, ‘’nhân quyền tự do’’, gần chiếm cả cái chủ tịch môn học khoa cử ngày trước, mà một tiếng sét nổ đùng có sức khích thích mạnh nhất, thấu vào tâm não người Việt Nam ta là ‘’trận chiến tranh 1904’’ (Nhật Bản thắng Nga).

Vì sao thế? Vì từ thế lực người Âu tràn sang phương Đông, trên trăm năm nay, mênh mông một vùng Á Châu, đất rộng người nhiều, không một nước nào không bị đè ép vùi đạp dưới làn chân sắt của người giống da trắng, không dám cụ cựa. Riêng xứ Phù Tang ba hòn đảo, lấy một nước nhỏ bên Á Đông, đánh một nước to kềnh cường thạnh là nước Nga trắng. Tiếng kèn khải hoàn của Lữ Thuận, lá cờ báo tiệp miền Liêu Dương, tiếng reo ‘’Ngô Á Ngô Hoàng’’ vang dội khắp cả thế giới, người da trắng kinh hồn khiếp phía đã nảy mỗi lo ‘’Họa giống da vàng’’. Cái trận hoanh liệt hùng tráng đó đã cho cảgiống da vàng tuôn cái khí phẩn uấttránh sao người Châu Á không múa hát hò reo mà nhộn dậy một cách hăng hái không tự ngăn được.

Được tễ thuốc hưng phấn ấy, giống cách mạng nước ta sau thời kỳ điêu tàn rời rụng, trong vòng không khí bao bọc áp bức bị ngột, hốt nhiên sanh khí trồi ra một cách bồng bột phấn khởi.

Sách báo Trung Hoa như Tân Dân Tùng Báo, Mậu Tuất Chính Biến, Trung Quốc Hồn, Nhật Bản Duy Tân Khẳng Khái Sử, Nhật Bản Tam Thập Niên Duy Tân Sử, Thái Tây Tân Sử, trong nước thì tác phẩm của các nhà tiên thời như bản sớ ‘’Điều trần của Nguyễn Trường Tộ’’ (Nguyễn Trường Tộ chi điều trần giữ tế cấp luận), Quỳ Ưu Lục ‘’Thiên hạ đại thế luận’’ của Nguyễn Lộ Trạch (Nguyễn Lộ Trạch chi Quỳ Ưu Lục, Thiên hạ đại thể luận), cùng các thứ mới xuất hiện trong thời ấy như bài ‘’sớ xin bỏ khoa cử’’ của Thân Trọng Huề (Thân Trọng Huề thỉnh phế khoa cử sớ), ‘’Lưu cầu huyết lệ tâm thơ’’ của Phan Bội Châu, ‘’Công xa thược thơ ký’’, ‘’Ai nô từ’’, ‘’Bát cổ khất ai văn’’, ‘’Danh sơn lương ngọc phú’’ (vô danh chi công xa thượng thơ kỳ, ai nô từ, Bát cổ khất ai văn, Danh sơn lương ngọc phú). Những tác phẩm trên đều viết tay, không chưn mà chạy khắp trong nước, sĩ phu đua nhau sao đọc. Cái tiếng hò reo ‘’Tàn thơ cựu thơ’’ muôn miệng một lời, cả nước sôi nổi như điên cuồng, mà sức kích thích mạnh nhất là bài trường thiên ‘’Đế tỉnh quốc dân ca’’. Bài nầy bằng quốc âm, lối ‘’lục bát dán thất’’, trong kể truyện thế lực người Âu tràn sang phương Đông và thuật cuộc duy tân Nhật Bản rất rõ, đến trận ‘’Trung-Nhật’’, ‘’Nhật-Nga’’, sau nói thảm trạng nước nhà và khuyên quốc dân tỉnh ngộ v.v...

Nhờ các món văn phẩm trên, xuất hiện kế tiếp nhau, phong khí trong nước có dèo đổi cũ thay mới mà nhà lãnh tụ trong đảng cách mạng quần chúng đều suy tôn là hai Tiên Sinh Sào Nam Phan Bội Châu, Tây Hồ Phan Châu Trinh vậy.

Đảng cách mạng Việt Nam trong khoảng xanh vàng dứt nối, tàn cựu quá độ, được hai Tiên Sinh đề xướng mà đồng bào có huyết tánh, đồng thanh giao cho hai Cụ cái huy hiệu ‘’đại chí sĩ’’, ‘’đại ái quốc’’ không một ai dị nghị. Vì sao? Vì đảm lực, phách lực và thực lực đều vượt lên trên hàng dung thường, mà lòng nhiệt thành hy sinh cho nước cùng thủ đoạn hành vi ‘’dao lớn rìu to’’, ‘’vỡ núi trổ đường’’, mở cho người sau hai con đường lớn, làm cho người Pháp ở Đông Dương bị vết thương ‘’trí mạng’’, dầu quyền lực một nước mạnh lớn gồm thủ đoạn giảo khoái quỷ quyệt của các tay chính trị, cho nên ngọn thầy tay thợ của các nhà khoa học ngàn phương ngăn lấp, trăm cách che đậy, không sao bịt kín và đóng khóa hai con đường ra của dân Việt Nam:

1.- Nhà ái quốc thứ nhất (Cụ Sào Nam) ở trong ngục tối mấy lớp bao bọc như thùng sắt không chỗ trống hở, mà một mình mạo hiểm, trổ ra một con đường ‘’Đông học’’, lại cùng Đảng cách mạng Trung Hoa giao kết qua lại, khiến cho đồng bào biết rõ thượng quốc Nhật Bản sẽ là một nước ân nhân giải thoát cái ách Âu-Mỹ đè ép chi người Á Châu, sẽ có một ngày đánh đuổi Âu-Mỹ ra ngoài vòng Á Đông (tức thơ dâng cho Đại Ôi Bá Tước cùng bức thơ khuyên người nước ta sang học Nhật Bản năm 1905). Con đường nấy nay thành một con đường lớn mà nước tiên tấn phương Đông ruổi xe buông ngựa, nam tiến một cách mau chóng trên con đường quen, bao nhiêu trở lực của người Pháp ngấm ngầm tiêu tan đi mất.

2.- Nhà ái quốc thứ hai (Cụ Tây Hồ) ở trong màn đem che phủ mấy lớp, một tay xé toang khiến cho chính phủ ‘’bù nhìn’’ dưới máy dựt của người Pháp, hoàn toàn mất cả tín nhiệm của quốc dân, dầu cho sơn thiếp tô điểm, tuyên truyền, vùa đợ thế nào, vặn cả tủy óc nhà văn minh cùng tay thợ nhà khoa học, xẻ vai vá vạt lấp bên này vỡ bên kia không hàn kín cái màn bị xé rách trên, đến nay không sao kéo lại tròn tín nhiệm của quốc dân một vài phầntrong muôn phần, trừ một bọn chỉ trung thành với miếng cơm tấm áo.

Ôi! Hùng tráng thay! Cái sức vỡ núi trổ đàng của hai nhà đại ái quốc chí sĩ, rõ là cái đặc sắc có một không hai trên lịch sử cách mạng Việt Nam ta.

Nhờ có hai con đường trổ ngõ đó mà phong triều cách mạng rung động khắp trong nước, cuộc thế có điều tấn triển, những việc đáng ghi như dưới:

A.- Thiếu niên sang du học Nhật Bản, trước sau nối gót nhau ba kỳ đều hưởng ứng.

B.- Phái thiết huyết cả trong lẫn ngoài, lần lượt xuất hiện và tấn hành như ngoài Bắc Tú Đại Từ, Tú Phật Tích, Nghệ-Tịnh thì Ngư Hải, Tùng Nham, Hy Cao, Đội Quyên, Đội Phấn. Quảng Nam thì Đỗ Tuyển (Ô Gia, Sơn Tẩu), Lê Vĩnh Huy. Quảng Ngãi thì Cử Cần, Ấm Loan, nhiều không kể hết.

C.- Trong nước nào hội thương, hội học, hội nông, thơ xã, trường học đâu đâu cũng có (Quảng Nam Hội Hợp Thương, Trường Diên Phong. Nghệ An thì Triều Dương Thương Quán. Hà Nội thì Đông Kinh Nghĩa Thục. Bình Thuận Hội Liên Thành, còn hội vô danh khá nhiều).

D.- Phong triều cúp tóc Âu trang, quan dân tán cựu cùng xung đột nhau.

Đ.- Cuộc đầu độc Hà Thành năm 1908 là cuộc cách mạng trong quân giới.

E.- Tiếng bom nổ ở Thái Bình, thân sĩ ở Nghệ-Tịnh cùng thông với Hoàng Hoa Thám ở Phồn Xương.

G.- Vua Duy Tân ám thông dân đảng (Trần Cao Vân, Thái Phiên v.v...) diễn ra cuộc Duy Tân năm 1916.

H.- Quân nhân Thái Nguyên cùng tù quốc sự (Lương Lập Nham, Đội Cấn v.v...) phá ngục diễn tấn kịch ‘’Thái Nguyên quang phục 7 ngày’’.

I.- Quái kịch Xích Long ở Nam Kỳ.

Mấy cuộc trên chót đây hy sinh rất nhiều không kể hết.

Trong thời kỳ trên, ‘’Cự Sưu’’, ‘’Đầu Độc’’, ‘’Duy Tân’’ và ‘’Thái Nguyên’’ là mấy vở kịch lớn, hoạt động hăng hái. Mấy vai kịch ấy cả vua và dân, thân sĩ nông thường, quân lính cho đến kẻ bồi người bếp, không giới nào không có, lớp sóng nấy vừa tan, lớp sóng kia nổi dậy, khiến cho người Pháp ứng phó không rồi. Phỏng như ở thời đại trước thế kỷ 19 thì bộ sử ‘’Việt Nam phục quốc’’ thực hiện không phải là chuyện lạ. Khổ vì chiếc thân thịt máu, một tấm lòng son, hai bàn tay trắng không thể dịch với súng đạn khoa học tồi tàn. Bởi thế, mỗi lần thất bại, những phần tử ưu năng, phần bị tù tội, gần không mấy ai lọt ra ngoài lưới bủa của quân thù.

Hơn nữa, sau cuộc Đông học giải tán, tiếp đến cuộc Âu chiến bùng ra (1914-1918), các nước láng giềngphương Đông như Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm La (Thái Lan) vốn là nước gần mà đảng cách mạng Việt Nam lâu nay nương dựa làm nơi đứng chưn, nay vì mối lợi hại trên quốc tế, đều theo phe Đồng MinhPháp mà đánh Đức. Người Pháp nhờ cái sức ‘’nhiều tay vỗ nên bộp’’ thu được phần thắng lợi. Đồng thời Cụ Sào Nam bị giam ở Trung Hoa (Long Tế Quang, Tỉnh Trưởng Quảng Đông bắt Cụ cầm ở Quan Âm Sơn trên ba năm). Cụ Tây Hồ bị giam bên nước Pháp (giao cho tội tình nghithông Đức), đảng cách mạngViệt Nam không có nhà lãnh tụ cầm đầu, như con rắn không đầu, tự nhiên phải sa vào cái vực im chìm bị ngột. Phải chăng bác trời già kia, cố để thói lòng tham kiêu của người Pháp to lớn, khiến nó chất đầy cái chuỗi tội ác đến cái họa ngày nay chăng?

Đó là đảng cách mạng Việt Nam chống Pháp vào thời kỳ thứ ba, chính là ngậm cái đau nòi suy nước mất ôm cái chí phục quốc báo cừu. Tuy trời chưa chịu người, thời cơ bất lợi, song cơ cuộc có chĩu tấn triển trình độ có vẻ mãnh tiến, so với thời kỳ thứ nhất, thứ hai trước có cái khí thế ‘’xăm xăm bước lên cao’’.

Lần cách mạng nầy là con đẻ của cả Hán học Âu học nhập chung một lò mà đúc ra vậy.