Phần Thứ Nhất - I - Một vụ kiện lạ đời
Vào khoảng năm Đinh Hợi (Tây lịch 1767), đời chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần, có một gia đình lạ, - họ tên gốc tích là gì không ai biết, - đến ở phường Tháo Mang gần kinh thành, cũng sắm khung cửi và làm nghề dệt như dân sở tại.
Phường Tháo Mang ở bên sông Phú Xuân, thuộc huyện Hương Trà, nằm giữa địa phận ba xã Nghi Xuân, Sơn Tây và Vạn Xuân. Cả phường có ba xóm, mỗi xóm tụ họp chừng vài chục nóc nhà. Dân cư đều làm nghề dệt, nghe tổ truyền của họ từ trước khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa. Họ chuyên dệt hàng tơ như cấp, địa, cải hoa khéo đẹp có tiếng. Có nhà kiêm dệt cả chiếu cói và buồm để bán cho dân chài ở các cửa bể Tư khách, Việt hải, dùng đi be rất chịu gió và bền.
Họ không hiểu sao cái gia đình mẹ góa con côi kia ở đâu mới đến, lại làm được nghề riêng của họ hầu như bí truyền lâu đời.
Thật thế, gia đình lạ ấy, làm chủ là một bà quả phụ độ ngoài bốn mươi tuổi, có hai đứa con nhỏ, chỉ hơn kém nhau một vài tuổi, thêm một mụ già nghễnh ngãng phục dịch.
Cách ít lâu, đứa con trai bị thương hàn chết, thành ra trong nhà còn lại ba người, trẻ già lớn bé toàn là đàn bà.
Thoạt tiên, quả phụ đem gia quyến đến phường Tháo Mang, thuê đất làm một ngôi nhà lá năm gian, rồi mua sắm khung cửi, bắt tay vào nghề dệt để mưu sinh. Nhất nhất mẹ con tự làm lấy, không thuê mướn thợ bạn như các nhà cùng nghề ở quanh xóm.
Người ta để ý không thấy ai tới lui nhà ấy bao giờ; trừ ra mỗi khi dệt xong một tấm hàng, bản thân quả phụ đem lên kinh thành bán, rồi mua tơ về dệt tấm khác; trong nhà quanh năm lặng lẽ như ngôi chùa, không nghe to tiếng, không năng đi lại xóm giềng, nhất là không mời xóm giềng qua lại nhà mình khi nào. Có kẻ hiếu kỳ, muốn tìm cớ hỏi chuyện nhà nghề, cốt đến dòm nom nội tình; quả phụ ra tận ngoài cổng niềm nở tiếp khách ngay ở giới hạn ấy rồi cáo từ trở vào, không hề mời khách vào trong nhà, dù là hàng xóm quen thân cũng vậy.
Những gót chân được bước qua ngưỡng cửa lần thứ nhất, là gót chân mấy người phu đòn lúc thằng con trai của quả phụ chết, đưa quan tài đến tẫn liệm và khiêng ra. Trong dịp quan trọng như thế, cũng chẳng thấy có bà con họ hàng nào đến hỏi thăm chia buồn. Các bà cùng xóm có chạy sang, quả phụ cũng ra cổng mời điếu thuốc miếng trầu ở đấy, và từ khước một cách rất khéo:
- Bà con có lòng tốt chạy qua hỏi thăm tôi xin cảm tạ. Tiếc vì trong nhà hẹp hòi luộm thuộm quá, nên không đám để phiền các bà quá bộ vào chơi, xin các bà lượng thứ.
Một tên phu đòn biết chữ lỗ mỗ, trở ra thóc mách với người ta rằng trong nhà treo mã đao với đoản kiếm tứ tung; chính giữa bày bàn thờ, chắc là bàn thờ chồng, ở trên vắt ngang bốn chữ "Thệ báo phu cừu ” (Thề trả thù chồng) khá to, bên cạnh có những chữ nhỏ gì nữa, nhưng họ không đọc được.
Bấy giờ người ta mới xầm xì dị nghị về tung tích của gia đình này. Có lẽ vì bốn chữ ấy mà quả phụ không muốn cho ai bước chân vào nhà chăng? Trong sự sống cô độc hình như có điều gì bí mật, có cái tung tích mờ tối thế nào, cho nên cần phải giấu giếm với cả mọi người vậy.
Tuy nhiên, người đời bấy giờ, phần nhiều còn thuần hậu, ai nấy yên sống theo phận mình, giữ tôn chí “mặc chuyện thiên hạ” như câu cổ ngữ đã dạy: các nhãn tự tảo môn tiền tuyết, mạc quờn tha nhân ốc thượng sương (ai lo quét tuyết rơi trước cửa nhà nấy đừng quản đến sương phủ trên nóc nhà người ta).
Tôn chí ấy, cầm giữ ngọn đèn thiện trong tâm con người ta thường sáng đều đều; không mấy ai có tính khốn nạn bới lông tìm vết, đi tố giác thiên hạ để kiếm chút công danh hoặc lĩnh một món tiền thưởng.
Huống chi quả phụ chỉ xử riêng với mình thì khắt khe, kín đáo nhưng xử với xóm giềng rất mực nhã nhặn, ân cần. Nhà nào có việc, bất cứ giàu nghèo sang hèn, bà đều thân hành đến thăm hỏi, đưa tặng quà cáp là thường, Thấy ai túng bấn, tự bà đem bạc tiền thóc gạo đến giúp đỡ, tùy theo sự cần dùng, mà không đòi hỏi bao giờ, dù người ta có giả lại cũng thoái thác không nhận.
Vì thế người ta kính trọng cuộc sinh hoạt bí mật của bà, lâu dần thành quen, không ai có ý dòm ngó soi bối gì cả. Họ bảo nhau rồi cũng chẳng đến cổng ngó nữa, khỏi làm phiền bà phải tất tả chạy ra tiếp rước. Chỗ bà ở được xem như một cấm địa.
Nhờ vậy, gia đình quả phụ được sống yên ổn trong phường Tháo Mang sáu bảy năm nay; nghĩa là đứa con gái bé mà số phận còn để lại cho bà mới có bảy tuổi; bây giờ cô đã 13.
Chẳng biết có phải đâu lúc tuổi cô mang con số 13 là số vận xấu hay không, nhưng thật đến năm Nhân Thìn ấy bà thân mẫu cô nằm vật vã trên giường bệnh thập tử nhất sinh, khiến cô xót thương vô hạn.
Tình cảnh mẹ đơn con chiếc thật không có giây phút nào buồn hơn!
- Con Mảnh của má đâu con?
Thưa má, con đây!... Con đang sắc thuốc gần được rồi, để con bưng lên má uống...
- Không, má không uống bây giờ đâu!... Con lên đây với má!
- Vâng, con đợi rót nước thuốc kẻo nó cạn mất; rồi con lên ngay.
- Để thuốc đó, giao cho mụ Trì coi giùm, con lên đây má bảo, mau!... Trời ôi! Con tôi ở đâu, gọi hoài không thấy...
- Con đây, thưa má!... Con đây... Con lên đây mà!
Nàng lật đật bưng chén thuốc lên, đặt bên giường mẹ nằm, rồi hai tay dịu dàng vuốt ve trên trán bà mẹ, trong ý vui mừng từ sáng đến giờ, bà có vẻ tỉnh táo, không nóng sốt li bì như mọi hôm.
Bà đăm đăm nhìn con, tình thương yêu phát lộ đầy trên hai mắt, dường muốn gói ghém tất cả nàng vào trong. Choàng ôm chặt lấy con, nâng niu và hôn lấy hôn để, bà vừa hôn vừa nói:
- Lạy trời Phật! Tôi thương yêu con tôi, không biết để đâu cho hết.
Đoạn bà tươi cười bảo con:
- Con đỡ má ngồi dậy, nào!
- Thôi, má cứ nằm nghỉ cho khỏe, ngồi dậy làm chi? Nàng trả lời và lấy ve dầu Khuất thần thoa hai bên thái dương cho mẹ.
- Ô! Con tôi thế có buồn cười không? Muốn cho mẹ uống thuốc mà không cho mẹ ngồi dậy thì uống thế nào?... Con cứ nâng đỡ má ngồi dậy chốc lát, má kể một truyện cổ tích cho mà nghe.
- Má nói truyện cổ tích? Nàng hỏi lại, có vẻ thích ý, vì bình nhật rất ưa nghe mẹ kể những tích xưa truyện cũ.
- Ừ, truyện cổ tích này hay lắm con ạ!
- Nhưng má đã mệt thế hơi sức đâu mà nói nhiều?... Con van má hãy để lúc khác, bây giờ má cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mới được.
- Không, hôm nay má nghe trong mình khỏe khoắn lắm; tự nhiên thấy muốn ngồi dậy chốc lát, một nói chuyện với con, không chừng nhờ thế má sẽ khỏi bệnh cũng nên... Con hãy chiều ý má!
Thuở nay không hề cãi lời trái ý mẹ bao giờ, nàng vội vàng đỡ mẹ ngồi lên, dựa lưng bên vách, rồi bưng chén thuốc để mẹ uống.
Bà uống thuốc xong, kéo nàng lại gần bên mình vuốt ve mái tóc nàng và nói:
- Giờ con ngồi cạnh má, má kể chuyện cho mà nghe. Hơi thở trẻ trung mát mẻ của con làm cho má thêm khỏe, thêm vui, được sống thêm ngày nào sung sướng ngày ấy...
- Nhưng, má kể câu chuyện nào ngăn ngắn thôi nhé!... Mấy ngày mà không ăn uống gì được, nên để hơi sức mà nghỉ thì hơn... Chuyện không kể lúc này, để dành lúc khác, chẳng sao!
- Không có lúc nào hơn là lúc này, con ạ! Nhất là câu chuyện sắp kể ra đây, má vẫn để dành trong trí bấy lâu, chỉ định lúc đến ngày giờ đáng nói thì nói cho con nghe; vả lại chỉ có thể nói với con, chứ không nói với ai khác hơn được...
Khi bà nói những câu này, trên gương mặt có vẻ buồn rầu, thảm đạm, và hai mắt âm thầm ứa lụy, nhưng bà lấy tay áo gạt đi; nàng vô tình, không ngẩng mặt lên, nên không trông thấy.
- Chuyện gì mà quan hệ lắm thế, hở má? Nàng hỏi và giục giã, Vậy thì má kể đi, con rất thích nghe, chỉ sợ má nói nhiều thì mệt thôi.
- Không, con đừng lo má nói mà mệt; trái lại, má có nói được mới thấy nỗi lòng thơ thới, tinh thần khỏe ra. Bởi vậy, con nên nghe chăm chú, giờ má kể đây.
Rồi thì bà chậm rãi nói câu chuyện gọi là cổ tích, một mạch từ đầu đến cuối, chỉ thỉnh thoảng ngừng lại giây lát bởi một tiếng thở dài nhè nhẹ, hoặc tạm nghỉ đế lấy hơi.
“Ngày xưa, có nhà đó vốn dòng trâm anh, tư sản cũng khá, chỉ khác hơn thế gian, là mụ gia (mẹ chồng) với nàng dâu cùng cảnh góa bụa, ở chung với nhau.
Lạ hơn nữa, là nàng dâu con trẻ tuổi, có nhan sắc, thì giữ được tiết tháo trong sạch, tối ngày chịu khó làm ăn lam lũ, thờ chồng nuôi con, một mực điếc tai đui mắt trước những cử chỉ cám dỗ của quân vô lại quanh miền. Trong khi ấy, mụ gia đã gần răng long má hóp, lại sinh ra trắc nết đa tình, không chịu nổi cảnh sống lạnh lùng đơn chiếc, bèn ngấm ngầm tư giao với một tên thổ hào gần đấy. Ban đầu còn dâu bọc hẹn hò, sau mụ công nhiên rước tên thổ hào về nhà, thời thường tụ hội đãi đằng, bề ngoài rằng khách, nhưng trong là tình. Tên thổ hào lợi ở chỗ được người lẫn của, cho nên nó tìm hết cách làm vừa lòng mụ.
Nàng dâu thấy sự chướng tai gai mắt như thế, không thể chịu nổi, thường lấy lẽ phải trái, khuyên can mụ gia; mụ chẳng nghe thì thôi, lại trở mặt lấy quyền trưởng thượng, mắng nhiếc đánh đập nàng, cùng gian phu âm mưu trừ nàng không được, nhất định đuổi nàng đi ra khỏi nhà.
Nàng dâu cưỡng lại bằng lý thắng, không chịu tuân lời mẹ chồng.
Gái đĩ già mồm, mụ lên cửa công thưa kiện nàng dâu hư thân mất nết, làm nhục gia phong.
- Thế gian phu là đứa nào, mụ có biết không? Quan huyện hỏi.
- Bẩm quan, chúng tôi không rõ là đứa nào; mụ đáp. Vì nó cứ thậm thụt đêm khuya mới đến, tảng sáng thì đi, chúng tôi làm sao thấy mặt cho được? Tuy vậy, quan lớn đòi con dâm phụ lên tra hỏi khắc biết.
Quan đòi nàng dâu lên hỏi, nàng khai rõ tên họ gian phu và nói:
- Nhưng đây là nhân tình của mẹ chồng con... Chính nó cám dỗ mẹ chồng con, thường tới lui ám muội, gây nên tai tiếng, nhiều lần con van lạy khuyên can chẳng được, mẹ chồng con lại muốn đuổi con đi.
- Con ranh này! Nhân tình của mày, mày lại gắp lửa bỏ tay người, vu oan giá họa cho tao à?... Bẩm quan lớn thử xét: nó trẻ trung thế kia mới ở góa không nổi, thành ra có sự bướm ong chằng chớ, làm xấu cho tôi; chứ tôi đã già nua thế này, bảo còn ngoại tình, ai mà tin được.
Mụ day lại nói với nàng dâu:
- Mày ám muội với thằng gian phu đó những thế nào, cứ thú thật với quan lớn, để ngài châm chước cho, con ạ!
- Con lạy mẹ! Con xin khuyên mẹ bằng những lời mẹ vừa nói với con! Nàng dâu hậm hực nói.
- Nó là tình nhân của mày, đừng chối! Mụ già trừng mắt, nói với giọng nạt nộ, toan bề cả vú lấp miệng em.
- Của bà!... Nàng dâu trả lời rắn rỏi không vừa.
- Của mày!
- Của bà!... Nàng dâu đấu khấu với mụ già rồi ngoảnh mặt lên công đường: Bẩm quan lớn, xin quan lớn đòi tên gian phu đến đối chất thì biết.
- Trời cao đất dày ôi! Nhà tôi vô phúc mới có con dâu vu oan giá họa cho mẹ chồng thế này! Mụ gia vừa gào vừa khóc, làm như mình thật thà oan uổng lắm vậy.
- Vâng, nhà ta vô phúc mới có mụ gia làm lỗi, muốn đồ trút cho con dâu thế này, trời Phật có thấu cho không? Nàng dâu cũng khóc mếu, cũng nói to, chẳng nhường mụ gia chút nào.
“Mẹ chồng đổ triệt cho nàng dâu, nàng dâu một mực chối cãi và nói quyết là mẹ chồng; hai người đứng trước công đường đổ quanh cho nhau mãi, làm cho quan huyện bối rối, chẳng biết thực hư ở đâu mà phân xử. Ngài cho cả hai bên hãy về đợi bắt tên gian phu lên đối chất xem thế nào, bấy giờ sẽ hay.
“Hôm sau tên gian phu bị đòi lên huyện, lại khai một giọng khác:
- Bẩm quan lớn, sự thật, con không hề quen biết tư tình gì với một ai trong hai người này. Chẳng qua mẹ con nhà họ thù ghét lẫn nhau, rồi bịa chuyện ngoại tình, vu cáo cho con, thế thôi.
- Trong làng chẳng thiếu gì người, sao thiên hạ không đổ cho ai, lại chỉ đổ riệt cho mày? Quan huyện hỏi vặn.
- Bẩm, điều đó thật tình con không hiểu!... Tên gian phu trả lời một cách vẩn vơ cho xuôi chuyện.
- Ừ! để rồi xem mày có hiểu không?
“Quan huyện tức thời truyền đem cùm kẹp ra tra tấn. Đau quá, tên gian phu phải tự thú.
“Nhưng thằng khốn nạn, không tự thú có tư tình với mụ gia chính là sự thật, nó lại tiêu xưng bấy lâu quả có bí mật giao thiệp với nàng dâu. Chắc hẳn mụ gia với nó đã đồng tình như thế, cố buộc tội nàng dâu, để nhổ cây đinh trong mắt đi, chúng sẽ được tự do tới lui ân ái.
“Phải biết chúng khấu đồng từ, ông sư cùng chết; trong trí của quan phụ mẫu, nàng dâu tư tình với gian phu không còn phải nghi gì nữa.
“Tội nghiệp cho người thiếu phụ bị đánh khảo cũng một mực chối cãi, kêu mình mắc oan, nhưng quan huyện nào có chịu tin lời nàng và tra xét vụ án cho thật đến nơi đến chốn. Nàng chỉ bằng theo lời khai của mụ gia và gian phu, xử nàng phải cuốn gói đi ra khỏi nhà mẹ chồng từ nay.
“Tấn kịch không phải hạ màn ở chỗ ấy; đến đoạn sau mới có ý nghĩa, có thú vị.
“Nàng dâu tức mình, nhờ chú bác trong nhà làm hộ một tờ trạng lời lẽ cực kỳ thống thiết, rồi nàng thân hành lên quỳ trước công đường quan lớn thượng ty ở bản trấn mà khiếu nại.
“Quan án chấp đơn, liền tư về huyện lấy tập hồ sơ lệnh, đồng thời sức đòi hai bên nguyên bị và giải tên gian phu cùng lên công đường hậu thẩm.
“Ngài vốn là một vị đường quan rất thanh liêm chính trực, có tài đoán ngục xét án đã nổi tiếng; nhiều vụ án rắc rối như tơ vò, qua tay ngài đều gỡ đâu ra đấy, xét xử hết sức công bình. Có kẻ muốn cậy thần thế cách nào, cùng không thể xoay đổi ý hướng của ngài chỉ biết tôn trọng phép vua luật nước, bênh vực lương dân.
“Sau khi xem lại hồ sơ ở huyện đệ lên, ngài thấy ngay bên trong có lắm tình tiết mờ ám, khả nghi, chứng tỏ ra người nàng dâu quả tình là oan uổng.
“Ra trước công đường thẩm vấn, hai bên nguyên bị cùng tên gian phu đều một mực cung khai như lúc còn ở huyện; ai có lý sự nấy, không chịu thay đổi hay thụt lùi phân tấc nào. Quan án truyền cho nguyên bị cùng về, ba ngày nữa sẽ đến nghe lệnh phân xử.
“Buổi chiều trước hôm kỳ hẹn quan án sai lính đi gánh những đá cục, to có nhỏ có, đem về chất đống ở thềm công đường, như xếp một cảnh non bộ con con, trông thật lạ mắt. Hơn nữa, hai bên lại dựng hai con dao mã tấu sáng quắc. Ai cũng kinh ngạc, không hiểu ý quan lớn dự bị những đồ ấy để làm gì? Nếu bảo rằng để tra khảo tù phạm, thì nhà nước chẳng có sẵn những hình cụ roi, hèo, cùm, kẹp, là vật thường dùng ư? Một thầy thơ lại đánh bạo ngỏ ý muốn biết;
- Bẩm cụ lớn muốn dùng hình cụ mới lạ ấy, là ý thế nào?
- Phải, ta có việc dùng đến rất hay, rồi ngươi sẽ biết, quan án trả lời.
“Sáng hôm sau đăng đường, quan án gọi cả đôi bên quan hệ ra đứng thành hàng dưới thềm, và nói:
- Mấy người nhất định giữ lời cung khai hôm trước, phải không?
- Bẩm quan lớn, nhà chúng con chẳng may có đứa con dâu hư hỏng như vậy, thật không thể nào cho nó ở cùng một nhà được nữa! Mụ gia nói.
- Bẩm cụ lớn, con đã tự thú quả có tư tình với người thiếu phụ này; tên gian phu vừa nói vừa trỏ vào nàng dâu. Tùy lượng cụ lớn bắt tội thế nào, con phải chịu thế ấy.
- Trăm lạy quan lớn minh xét cho con nhờ: quả thật mẹ chồng con mưu mô với người ta để vu cáo hãm hại con; tình cảnh con hết sức đau đớn oan uổng! Nàng dâu nói mọi cách tức tưởi muốn khóc.
“Quan án nghiêm trang chăm chú nhìn vào mặt nguyên bị và nói:
- Thôi, ta nghĩ lại việc này bất tất phải tìm xét cho minh bạch trong hai mẹ con, ai là dâm phụ, ai không; nhưng đến gian phu thì đã rõ ràng nhất định là thằng mặt dày đứng đây, không còn phải nói. Ta biết mẹ con nhà ngươi đều là chỗ nho phong lương thiện tất cả, nguyên lai không phải là người hư thân trắc nết gì; chẳng qua nhất thời bị thằng mặt dày này tham tài hiếu sắc, cám dỗ khôn ngoan, khiến cho mẹ con sinh ra xích mích lẫn nhau; không có nó thì đâu có gây nên nông nỗi. Ta đã suy nghĩ đắn đo rất kỹ: tội lỗi hết thảy ở một mình nó, và chỉ một mình nó thôi!... Vậy thì dưới thềm sẵn có đá với dao đấy, hai mẹ con cứ việc đánh chết thằng khốn nạn đi cho ta!...
“Cách xử kiện lạ lùng của quan án làm cho tất cả công đường trên dưới đều ngẩn ngơ kinh dị đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai đoán được dụng ý ra thế nào?
“Thấy hai mẹ con nguyên bị cùng tần ngần, sửng sốt, quan án thúc giục với giọng cương quyết, tỏ ra một lệnh truyền, không thân hành không được:
- Ta bảo thật đấy! Hai mẹ con nhà ngươi phải vác đá mà đập bể đầu nát óc thằng khốn nạn, để nó phải chết trước mắt của ta trông thấy!... Cái thứ người chỉ chăm chăm quyến rũ đàn bà mà kiếm ăn cầu lợi, cứ đánh cho chết là xong; nó sống chỉ tổ làm hại cho phong hoa nhà nước, cho gia đình người ta. Nào, hai mẹ con ra tay đi xem!
- Nhưng rủi tay đánh nó chết thật, chúng con bị quan trên bắt phải thường mạng thì sao? Cả hai mẹ con đồng thanh nói.
- Không! Không! Mẹ con nhà ngươi không lo điều ấy; quan án trả lời. Bề nào cũng có ta đây chứng kiến bênh vực cho mà!... Cái mạng của thứ người như nó xá kể vào đâu mà phải thường?... Đập chết phứt nó đi, tức là làm ơn cho thiên hạ thì có!... Ta bảo hai mẹ con nhà ngươi cứ việc...
“Bấy giờ, hai người cùng chạy lại nhặt đá mà ghè vào thằng gian phụ chan chát, túi bụi. Nó né bên này, bị bên kia, đau đớn kêu la rầm rĩ.
“Sự thật, nàng dâu ôm lòng bực tức hờn giận đã lâu; bây giờ được quan trên cho tha hồ đánh nó, dù chết cũng không phải liên lụy gì, ta tưởng tượng đủ biết nàng mở cờ trong bụng, hả hơi thích ý đến thế nào? Bởi vậy, người ta thấy nàng hăm hở lấy những viên đá to nhất trong đám, nhè ngay đầu cổ mặt mũi thằng gian phu mà ném mà ghè, mà dần, mà đập, nghe tiếng huỳnh huỵch. Có thể nói mỗi viên đá từ bàn tay nàng dáng vào thân thế kẻ thù, dường như ký thác âm hưởng một tiếng gào minh oan, một nụ cười tuyết hận của nàng vậy.
“Đồng thời, mụ già cũng làm bộ hậm hực trợn trừng, cũng ra tay đập đánh như ai, nhưng thật thì mụ chỉ lượm mấy cục đá nho nhỏ, và dụng tâm giơ cao đánh khe vào bắp đùi vào mông đít chẳng hạn, là chỗ có nhiều thớ thịt che chở, ít đau. Thường tình, ai nỡ chính tay mình hành hạ da thịt người yêu phải chịu đau đớn?
“Cứ chỉ của hai người, từng ly từng chút, không hề lọt qua con mắt tố nhận của quan thẩm án thông minh chính trực. Muốn nghiệm xét cho thêm rõ ràng, ngài bảo hai mẹ con hãy ngừng tay ném đá”.
- Thôi, bây giờ mỗi người lấy đao chém một vài lát cho nó chết phứt đi, chứ ghè bằng đá mà mày dày mặt dạn nó vẫn trơ ra thế kia, tốn công vô ích.
“Lập tức, nàng dâu phăm phăm chạy lại lấy dao cầm tay; gương mặt xám ngắt sát khí, như muốn băm vằm kẻ thù ra trăm nghìn mảnh mới đã giận. Còn mụ già thì ngần ngừ, sợ hãi, run rẩy, không dám tiến bước đến chỗ để dao; chẳng thà ném đá, người yêu tuy đau mà còn được sống, chứ bảo cầm dao chém cho chết đi, mụ thật không nỡ.
“Nhận rõ trạng thái mụ đã tố giác chỗ yếu của mụ ra, quan tòa khoát tay và nói:
- Như thế là đủ, không cần phải thử nhiều hơn nữa. Ta đã tìm ra đích danh con dâm phụ rồi!... Lính đâu! Nọc con mụ này ra, đánh cho nó mấy chục roi, xem nó còn khéo gian ngoan vừa đánh trống, vừa ăn cướp nữa thôi?... Ta bảo có khôn hồn thì tự khai thật tình ra đi!
“Mụ sợ tái mặt, ôm mặt khóc nức nở, rồi đem hết sự tình từ trước đến sau, khai thật rõ ràng và xin nhận tội.
“Quan án xử tên gian phu phải đi sung quân, mụ bị phạt giam sáu tháng, còn nàng dâu thì được giải nỗi oan, và trở về nhà chồng như cũ.
“Bấy giờ người ta mới hiểu quan án cốt dùng mưu chước để tra cứu ra chân tướng của vụ án quan hệ phong hóa này; ai cũng phục ngài là minh đoán, xa gần nghe nói, đều cho một việc thống khoái. Không có ông minh quan khéo xét xử như vậy, mà chỉ dựa vào lời chứng tá man khai và dùng cách tra tấn lập uy, thì đứa có tội cứ ở ngoài vòng pháp luật, còn người trong sạch vô cố thì chịu oan uổng tai tiếng suốt đời!”
Sau khi kể xong, bà quả phụ lại hôn nựng cô Mảnh và hỏi:
- Câu chuyện cổ tích thế đấy, con nghe có thấy lý thú không?
- Ô! Chuyện hay lắm, má ạ! Cô Mảnh trả lời. Con nghe cảm động lắm, thật là tình cảnh người nàng dâu.
- Má đố con biết ông minh quan xử vụ án ấy, rồi sau thế nào?
- Má không nói nốt thì làm sao con biết được? Nhưng con đoán chắc ông mau được thăng quan tiến chức, có phải không, má?
- Trời ơi! Việc đời nào có luôn luôn thuận lẽ như con nghĩ thế đâu. Bởi vậy, ông minh quan ấy chính vì đã xứ vụ kiện mới nói mà bị chết oan... Để má kể nốt cho con nghe; nhất là vì lẽ ông minh quan ấy đối với má cũng như với con không phải người lạ.
Cô Mánh sửng sốt chưa hiểu còn má cô thì rơm rớm nước mắt.