← Quay lại trang sách

- II - Mối thù không đội trời chung

Mụ Tri bưng cháo lên, Mảnh nài nỉ mẹ ăn được hai lưng chén.

Bà tự thấy tinh thần thêm phần sảng khoái để nói nốt câu chuyện cần nói với con; nhất là câu chuyện lại cốt thuộc về tinh thần.

Day mặt chỗ khác, thở nhẹ một hơi dài, rồi bà nói chuyện tiếp:

- Vị minh quan ấy không được thăng quan tiến chức như con tưởng đâu. Trái lại, ngài vì quá đem công tâm xử vụ án nọ phải thiệt thân, con ạ!

- Má nói thiệt thân? Nàng hỏi lại với dáng sửng sốt. Làm gì xử một vụ án mà đến thiệt thân?

--Ừ, việc đời có trái nghịch bất nhân như thế mới nên chuyện, mới có mối thù bất cộng đái thiên, con ạ! Bà quả phụ trả lời con gái với nét mặt rầu rĩ và dằn nặng mấy tiếng mối thù bất động đái thiên, nhưng cô bé ngây thơ không hề để ý.

Rồi như có cục ức uất chận ngang cổ họng, bà nghẹn ngào một lát mới có thể nói tiếp, trong khi bàn tay xương xương vuốt ve mái tóc cô bé:

- Con hãy lóng tai, má kể nốt câu chuyện cho mà nghe nhớ!... Mụ gia khốn kiếp kia, đã hư thân mất nết, lại còn dám vừa đánh trống, vừa ăn cướp, sở dĩ một hai vu vạ cho nàng dâu, muốn đuổi nàng và lũ cháu thơ dại ra khỏi nhà, cho mình được tự do hành động, là vì mụ ỷ thế có họ hàng thân thích với kẻ gian thần đang có oai quyền hiển hách trong triều. Vì thế, mụ dám ngang nhiên đến cửa công thưa kiện vu cáo nàng dâu, cầm chắc quan nào cũng phải xử cho mình thắng...

- Hẳn là kẻ gian thần bắt buộc quan huyện xử cho mụ già được phép đuổi nàng dâu đi, có phải không má? Cô Mảnh đắc ý hỏi mẹ, làm như cô đoán trúng một câu đố mẹo vậy.

- Ừ, con nói trúng đấy. Khi việc kiện thưa đến huyện, mụ đã có bức thư riêng của gian thần đưa cho quan huyện, nên chỉ nắm chắc phần thắng từ trước. Quan huyện nào dám làm trái ý tể tướng đương triều? Trừ ra người khảng khái, tự trọng, thà treo ấn từ quan, chứ khỏng chịu làm một việc trái với lương tâm và công lý; nhưng mà hạng làm cha mẹ dân được như thế, con tưởng có mấy?... Lão huyện nọ sợ vía gian thần, chỉ xét hỏi chiếu lệ, rồi xử ức nàng dâu, phải cuốn gói đi ra khỏi nhà chồng. Trong ý lão định chắc nàng quê mùa, quan xử sao y thế, chả dám sinh sự gì nữa.

Không ngờ nàng là tay đáo để, làm đơn khiếu oan tới thượng ty ở bản trấn, tự nhiên vụ mụ già nàng dâu thuộc quyền vị minh quan xét lại. Bấy giờ mụ già mới hoảng sợ; phàm kẻ có hành vi ám muội vẫn ghê sợ ánh sáng, nhất là với ông minh quan này là ánh sáng không thể lấy gì đậy che được.

Mụ đến khóc lóc năn nỉ với gian thần, để nó lấy quyền thế tể tướng bắt buộc ông minh quan phải tha tên gian phu, chấm vụ án đi, và xử đuổi nàng dâu như huyện đã xử; không được như vậy thì xấu lây cả họ hàng, chắc mụ phải tự tử mất. Kẻ vai vế trong họ, mụ là bực trưởng thượng, nên chi gian thần phải kiêng nể. Mình là Thái sư Tể tướng trong triều, dù bà cô phạm tội giết người hay làm việc đại ác đến đâu mình cũng phải cứu vớt, huống chi là chuyện nhỏ mọn này?

Trong khi ông Minh quan đòi nguyên bị sắp đen công đường hậu chất, thì gian thần sai người đem thư đến bản trấn bảo ông bỏ vụ kiện ấy đi, không được xét xử lôi thôi. Trong thư có những lời đe dọa kín đáo khiến người tự trọng như ông không thể nhịn nổi.

Ông bèn viết thư phúc đáp cứng cỏi; đại ý nói rằng: “Phép là phép của triều đình, trong lúc có một tên dân kêu mình oan uổng, phận sự quan án tất phải thân minh công lý, trừng phạt tội nhân, không thể vì một lẽ gì để phép luật triều đình thiên vị ai hay khuất lấp đi được! Quốc pháp vô thân, thừa tướng cầm quyền nhà nước hẳn biết tôn kính bốn chữ thiêng liêng ấy hơn cả mọi người. Tôi chí biết làm chức vụ bằng lòng chi công, hầu không phụ ân triều đình ủy nhiệm bấy lâu và thừa tướng không mang tiếng rằng có một viên thuộc hạ bất lực; ngoài ra, tư tình tư ý là thế nào, quả tôi không biết”.

Thế rồi vụ án kết liễu bằng sự nghiêm phạt mụ gia và thằng tình nhân đồng lõa.

Gian thần nghe tin, giận đỏ mắt tía tai, nói với tả hữu:

- Ta phải giết chết thằng ấy mới được hả lòng!

Thằng ấy là trỏ vào ông minh quan đó, con ạ!

Bà quả phụ nói đến đây có dáng mệt mỏi, tiếng nghe hơi run; cô Mảnh khuyên mẹ hãy nằm nghỉ, còn câu chuyện lúc nào kể hết cũng được, nhưng bà không nghe:

- Dễ thường không có lúc nào khác nữa, con ơi!... Để mẹ kể hết, nếu còn được nghỉ ngơi, sẽ nghỉ một thể. Bây giờ thì mẹ thấy cần nói, nhất là câu chuyện có quan hệ đến con.

- Thật ư, má? Sao lại lạ thế? Nàng ngạc nhiên hỏi, có vẻ càng ngày càng chú ý.

- Quan hệ nhiều lắm, rồi con sẽ biết... Kẻ gian thần thù ghét ai, hắn không thiếu gì cách hãm hại. Quả nhiên, cách vài tháng sau, nhân phát giác một vụ tư thông ngoại quốc; phần nhiều người dính dấp vào vụ này là quan võ và quân lính. Họ chỉ vì oán tức gian thần lộng quyền hiếp vua, hại dân khổ nước, nên muốn vì nước trừ họa, song vây cánh nó đầy rẫy trong triều ngoài quận, họ tự liệu sức mình không thể làm nổi, bèn âm mưu với nhau, tính nhờ binh lực của nước láng giềng đe trừ quốc tặc. Nhưng bởi tai vách mạch rừng, mưu sự không kín, thành ra chưa kịp cử sự, đã có một người trong bọn lo sợ vạ lây, tham cầu phú quý, đến gõ cửa gian thần, tố giác đầu đuôi và đưa quyển sổ biên tên tất cả những người dự mưu.

Nội bọn bị bắt hạ ngục, không sót người nào.

Gian thần quyết định nhân lấy việc trọng đại này, gắp lửa bỏ vào tay người, để trả thù cho bà cô nó.

Con có biết nó làm thế nào không?

- Thưa má, con không đoán ra, cô Mảnh ngay thật trả lời. Nó gắp lửa bỏ vào tay người thế nào hở, má?

- Trời ơi! Thật là độc ác, thật là ai oán, con ạ!... Nó dỗ dành một viên quan võ trong bọn bị cáo nếu khai theo lời nó bày vẽ, thì nó làm phúc gỡ cho khỏi tội. Ở đời, chẳng thiếu gì kẻ hèn nhát, muốn gở tội mình, không ngần ngại vu oan giá họa cho người ta.Viên quan võ ấy, theo lời gian thần sai bảo, man khai rằng chính ông minh quan kia là người thủ xướng.

Gian thần lập tức ra lệnh bắt ông hạ ngục. Rồi thì nó dùng đủ thứ khổ hình, nào roi, nào vọt, nào kẹp, nào cùm, nào ngâm tay vạc dầu, nào dui lửa nướng thịt, một hai bắt buộc ông phải nhận mình khởi xướng ra cuộc âm mưu nguy hại triều đình, cố nhiên, ông không hề làm, và không dính dáng xa gần gì hết. Nó tra khảo ông tàn nhẫn đến nỗi ngất đi tỉnh lại, nát cả da thịt. Sự đau đớn làm ông mất trong ngục.

Muốn báo thù đến tận thây ma, gian thần làm giả một tờ di bút của ông tự thú tội mình, rồi vin lấy đấy mà cách hết quan chức, lại hạ lệnh nã tróc tới vợ con ông để phạt làm tôi tớ hầu hạ nhà quan, trong luật gọi là “sung vi quan nô”...

- Độc ác quá, má nhỉ! Cô Mảnh chận ngang lời mẹ và hỏi. Đã hành hạ ông quan chết, lại còn bắt vợ con ông đi làm đầy tớ?

- Thế đấy con ạ! Bà quả phụ thở dài và nói với giọng chua xót. Nó quyết làm cho gia quyến ông, cả người chết người sống, cùng phải nhục nhã khổ sở, thì mới cam tâm.

- Nhưng vợ con ông có bị bắt không hở má?

- Không, vợ con ông nhờ có người hảo tâm, bảo cho biết trước mà trốn thoát!... Nhưng mà mẹ góa con côi, thù chồng thù cha, tình cảnh đau thương ai oán lắm, con ôi!...

Bà nói tới đó, bỗng rú lên mấy tiếng “Trời hỡi trời”, rồi thì bao nhiêu con sóng bi sầu khổ hận chất chứa trong tâm, nhất thời trào lên, không sao đè nổi; bà gục mặt trên vai cô Mảnh mà khóc rưng rức, nghe rất thảm thiết não nùng.

Cô bé giật mình kinh ngạc, không hiểu ra sao, ôm chầm lấy cổ bà mẹ, tìm lời khuyên giải:

- Tại sao má khóc, hở má? Chuyện đời việc người, can gì mà phải thương tâm quá thế?

Bà ngẩng đầu lên, nhìn con bằng hai con mắt ứa lệ, tiếng nói nghe run rẩy bi thương.

- Con yêu dấu của mẹ ơi! Ông minh quan bị gian thần sát hại chính là cha của con đấy!

- Thế ư?... Sao từ hồi nào tới giờ má không kể chuyện cho con hay?

Nàng bất giác cảm động phụ tử tình thâm, cũng cất lên khóc.

Bà lấy vạt áo vừa lau nước mắt cho con, vừa nói:

- Bấy lâu má nghĩ chưa đến ngày giờ nên kể, là vì má còn khỏe mạnh mà con thì còn nhỏ dại... Lúc gian thần giết chết cha con rồi, truyền lệnh khẩn cấp bắt mẹ con ta, một người trong triều có lòng thương xót ba con trung trực thác oan, bí mật thông tin cho má hay; lập tức má biến tướng giả hình, đem hai con đi trốn vừa kịp... Trong bảy tám năm, má hai nách hai con thơ, đào nạn trong dân gian rồi đến ở phương này, nuôi nấng các con, phòng bị kẻ thù, không có miệng lưỡi nào kể hết được những nông nỗi đau khổ, lo sợ... Được ít lâu, thằng anh con mang bệnh chết, làm má càng đau khổ nữa. Đau khổ chừng nào, má lại nguyền rủa oán hận kẻ thù chừng ấy.

Nghỉ hơi giây lát, bà lại nói tiếp, không để cho con kịp xen vào một câu hỏi nào, làm như bây giờ sự nói là phương thuốc cần dùng cho sự sống còn lại của bà vậy.

- Má nói đây, con hãy nhớ cho kỹ nghe: cha con tên là Bùi Đắc Nhân, bị gian thần hãm hại giữa lúc đang làm quan Khám lý Quảng Nam dinh, còn gian thần tức là Trương Phúc Loan thái phó đương triều... Con đã nhớ chưa?

- Vâng, con nhớ rồi: Trương Phúc Loan, thái phó đương triều! Cô Mảnh đáp và hỏi luôn: chức thái phó to hay bé, má nhỉ?

- Chức to lắm, to nhất triều đình. Vì thế, nó mạo chiếu chỉ, lập ấu chúa để lộng quyền, muốn làm hại ai thì làm, không kể gì là công lý. Con nhớ cho kỹ: Trương Phúc Loan; nó là kẻ thù giết chồng má, giết cha con đấy; nó với ta một còn một mất, không thể cùng đội trời chung... Nỗi oan gia đình, mối thù giết cha, má đã kể lại cho con biết rõ thế rồi, bây giờ má muốn xin con một điều...

- Má muốn dạy bảo con thế nào, tự nhiên con phải vâng lời thế ấy, việc gì phải xin? Mánh nói. Má định bảo con việc gì?

- Việc này: má xin con phải thề độc một câu! Bà nói giọng rất cương quyết.

- Má bảo con thề?

- Ừ, con phải thề, để cho má được yên lòng nhắm mắt.

- Thề làm sao, thưa má?

- Con hãy đỡ má đứng lên, sẽ hay!

Trong khi cô bé chưa kịp cản trở mẹ đứng dậy, bà đã bước xuống giường, nhanh nhẹn, khỏe mạnh như người vô bệnh, thong thả đi lại góc nhà, lấy thanh mã tấu đang treo trên vách, rồi dắt tay Mảnh đến trước bàn thờ.

Lúc này trông bà uy nghiêm hiền hậu như một vị thiên thần: tay nàng ủ trên đầu con, tỏ dấu âu yếm bênh vực, tay kia cầm thanh mã tấu chỉ mũi lên tấm hoành phi và nói:

- Con xem bốn chữ nho này: "Thệ báo phu cừu ” nghĩa là thề báo thù chồng, má cố treo ngay trên bàn thờ, để sớm tối ra vào, không giây phút nào quên cái thù cha con bị gian thần sát hại... Luôn tám năm nay, mỗi sáng thức dậy, má cũng sực nhớ mà trông thấy bằng tưởng tượng cái thảm cảnh cha con bị tra khảo tàn ngược tới chết trong ngục; rồi phướng phất như có oan hồn cha con đứng gần đâu đây, mặt mày thảm thương máu me nhễ nhại, kêu gọi má với hai con mà nói: Vợ con ta thế nào cũng phải trả thù cho ta!

Sở dĩ má dám mạo hiểm đến nương náu trong phường này, gần kề kinh thành, nghĩa là gần kề tai mắt kẻ thù, mà không sợ kẻ thù bất thần phát giác, là cốt có mục đích xem xét cử động của nó, phòng thừa cơ phi hành sở chí của mình cho dễ.

Nhiều khi má đóng vai thích khách, mượn cớ đi bán hàng dệt, vào tận biệt thự Phấn Dương, hễ được giáp mặt thằng Trương Phúc Loan, thì xông tới đâm nó một dao cho xong đời.

Con nên biết má đã dụng tâm học tập ít nhiều võ nghệ, nhất là phép sử dụng gươm đao, cốt để theo đuổi có một việc ấy, ngày đêm sớm tối chẳng bao giờ quên.

Một hôm, trời run rủi thế nào, má ôm một bọc hàng vào biệt thự Phấn Dương, tên gian thần gọi đem lại bên sập nó ngồi, chung quanh có năm bảy cô hầu non hầu hạ; nó ngồi, chễm chệ vểnh râu, nói năng lên mặt hách dịch, trông thấy mà đầy gan lộn ruột!

Trong một cuộn hàng gói sẵn một mũi dao găm thật sắc, như Kinh Kha ngày trước gói trong bức địa đồ Đốc Khương lúc đem dâng vua Tần Thủy Hoàng. Trước khi sắp mở đen cuộn hàng ấy, má đã vận hết tinh lực và can đảm, chỉ có việc mở ra đến con dao thì xuất kỳ bất ý túm lấy ngực kẻ thù mà đâm, trong ba bước lấy máu của nó không phải sự khó.

Nhưng má chợt nghĩ lại hai con còn nhỏ dại quá, mà bơ vơ côi cút ở đời, không ai chăm nuôi dạy dỗ thì làm thế nào? Vạn nhất thành công hay chăng, một thân má chết đã đành, lại còn lo đảng vụ chúng nó truy tầm đến tung tích hai con mà sát hại - ừ, thế nào chúng nó cũng phải giết, không kể gì các con đầu xanh vô tội - như thế thì vài giọt di huyết của cha con cũng mất nốt... Cái ý nghĩ ấy làm cho má bỗng dưng tay chân bủn rủn, hình như không cất nhắc nổi, đành xếp cuộn hàng kia ra một bên, mà thần sắc có hơi biến.

Không hiểu Trương Phúc Loan có nhận thấy hay không, chỉ nghe nó nạt hỏi:

- Sao còn cuộn hàng kia là hàng chi, mụ không mở cho ta xem?

- Bẩm cụ lớn, thứ hàng này xấu lắm! Má vội vàng trả lời, cố giữ nét mặt trở lại ung dung, trấn tĩnh. Nhà cụ lớn là nhà cao quý nhất thiên hạ, chả khi nào thèm dùng, cho nên con không dám mở ra.

Lúc về nhà, má nghĩ lấy làm ân hận mãi, sao khi ấy không hạ thủ đi cho rồi, e sợ sau trở lại chẳng có dịp được giáp mặt gian thần nữa.

Mảnh tuy mới có mười ba tuổi đầu, nhưng được mẹ khéo dạy dỗ từ khi còn tấm bé cho nên trí khôn nàng đã mở mang khác trẻ thường. Nhất là tấm lòng thương xót cha, khiến nàng nghe câu chuyện bà mẹ đang kể với tất cả chú ý. Muốn cho hiểu rõ đầu mối việc đại thù, nàng không bỏ qua một chi tiết nào hết, bởi vậy nàng hỏi:

- Ban nãy má bảo gian thần hãm hại cha con vào việc tư thông ngoại quốc để làm nguy hại triều đình, việc ấy thế nào hở má?

- Ừ, má quên nói rõ chuyện cho con nghe; bà quả phụ trả lời. Gian thần vu cáo cha con âm mưu làm nội ứng cho quân chúa Trịnh ở đàng ngoài, để lật đổ cơ nghiệp chúa Nguyễn ta ở đây; thế là tư thông ngoại quốc. Nó quyết buộc cha con vào tội chết và có thể hành hạ tới vợ con thân thuộc cho nên mới đặt chuyện tày đình như thế. Cũng vì đó mà mối thù của mẹ con ta càng to, con ạ, không báo không được.

Nhưng trời còn tựa nó hay sao không biết, mới xui khiến ra lúc má sắp đánh liều rút dao đâm nó thì chợt nghĩ thương hại các con.

Tức tối lắm, con ơi! Quả nhiên sau đấy có hai ba lần má đi lại biệt thự Phấn Dương, không một lần nào được thấy mặt kẻ thù. Còn những lúc nó đi đường, thì tiền hô hậu ủng, quân lính hộ vệ rất nghiêm, mình không làm gì nổi.

Rồi thì tới thằng anh con bất hạnh chết yểu; kế đó chính thân má phát bệnh lao suyễn, càng ngày càng trầm trọng, phải nằm liệt một nơi, quý hồ giữ kín được tông tích mẹ con mình là may, việc đại thù đành xếp lại một bên không hành động gì được nữa.

Bà mủi lòng quá, vừa nói vừa khóc. Đoạn, thắp hương cắm trên bàn thờ, đứng gục mặt lầm rầm khấn vái giây lâu, rồi mới day lại bảo Mảnh.

- Con hãy lạy đi. Bây giờ có anh linh ba con về làm chứng đấy. Con lạy rồi mẹ con ta lại nói chuyện.

Nàng như bộ máy thuần tòng, mẹ bảo là vâng lời ngay.

Giữa lúc ấy mụ Tri ở dưới bếp lên; nàng bảo mụ đi lấy chiếc ghế đẩu đem lại cho mệ ngồi, kẻo sợ đứng mãi mỏi mệt. Bà hôn con và nói:

- Con tôi biết thương yêu mẹ đến thế, mà tôi không được sống đời bao lâu nữa, đau đớn biết mấy! Mụ Tri ơi! Ở đấy nghe; đứng xích lại bên cạnh mẹ con tôi này... Con nên nhớ mụ Tri là người quản gia rất quý hóa của nhà ta trải hơn hai mươi năm, trong cơn an lạc hoạn nạn đều có nhau; sau này con phải coi mụ như một người mẹ nuôi vậy.

Giây lát, bà trịnh trọng nói tiếp:

- Con ạ, má tự biết bệnh tình đến lúc trầm trọng lắm rồi, chắc hẳn không được ở nhân gian bao lâu nữa, chỉ trong sớm chiều mai mốt không chừng... Việc đại thù của nhà ta, má chưa làm được, từ đây trở đi, trông cậy tất cả vào một mình con. Trước khi sắp nhắm mắt, má muốn con đứng trước bàn thờ này, vạch gươm xuống đất, phát thệ hai điều, cho má được yên tâm. Một mai xuống tuyền đài gặp mặt cha con, má có thế nói “Thế nào con ông cũng báo thù cho ông”.

- Má bảo con thề thế nào, con xin thề ngay! Mảnh nhanh nhẩu hỏi.

- Nhưng trước nhất con nên hiểu rằng những lời thề ở trước anh linh người chết, - nhất là người ấy lại là thân phụ của con, - có trời đất quỷ thần làm chứng, suốt đời phải giữ phải làm, nếu con sai lời thì trời đất quỷ thần trừng phạt ghê gớm đấy, nghe?

- Vâng, con biết. Phải thề làm sao, má cứ bảo đi!

- Điều thứ nhất, con phải thề suốt đời tâm tâm niệm niệm không đội chung trời với Trương Phúc Loan: hễ nó còn sống thì con tìm đủ cách trừ khử cho bằng được để báo thù giết cha; hễ nó chết rồi thì làm sao đào mả nó lên, đánh vào hài cốt nó, như Ngũ Tử Tư ngày xưa quật mả đánh thây Bình Vương, nước Sở vậy... Nào, con thề cho má nghe!

Nàng vâng lời, đón lấy thanh gươm ở tay mẹ, quỳ gối cúi đầu, rạch gươm xuống đất ba lần và nói:

- Tôi xin thề nguyện trọn đời tâm tâm niệm niệm vào việc trừ khử Trương Phúc Loan để báo thù cho cha tôi, nếu tôi sai lời, thì quỷ thần tru lục.

Nàng chưa dứt lời, một luồng gió mạnh thổi vào nhưng chân hương cháy tàn, làm bốc ngọn lửa lên; đó chỉ là hiện tượng vật lý rất tự nhiên, nhưng bà tin tưởng có quỷ thần làm ra thế, cho nên bà vội vàng đứng dậy chắp tay khấn vái rồi tươi cười nói với con:

- Đấy, con xem vong linh cha con có thiêng không?... Bốc chân hương, thế là tỏ ra cha con đã nghe lời con thề nguyền đấy!... Giờ đến điều thứ hai, con phải thề mai sau khôn lớn không được lấy chồng một người làm quan, làm lại, làm lính, hay là hưởng thụ bất cứ danh vị bổng lộc gì của triều đình này; hơn nữa, rồi đây có ai nổi lên tảo trừ gian tặc, đánh đổ triều đình ấy thì con phải hết lòng giúp sức cho người ta... Ấy là câu thề thứ hai, con hãy thề cho má nghe!

Cô Mảnh sửng sốt, ngập ngừng, tỏ vẻ lo ngại, suy nghĩ.

- Sao, con không dám thề câu ấy ư? Bà quả phụ nhìn sững con và hỏi.

- Thưa má, không phải con không dám, nhưng con nghĩ chuyện tương lai duyên số bởi ông trời đặt để, mai sau thế nào biết đâu, con lo chẳng biết tự mình có làm theo ý muốn được không mà thề... Vả lại, con nghĩ kẻ thù nhà mình chỉ là Trương Phúc Loan, nào phải chung cả triều đình sao mình lại thù vơ oán chạ đến thế?

Bà bảo con hãy đứng dậy để bà giảng nghĩa cho mà nghe:

- Con ơi! Má là người sắp ra đời, con là người gần vào đời, không bao giờ trứng khôn hơn vịt, con nên nghe lời má!... Phải, chuyện duyên số tương lai do trời làm chủ, mình có biết đâu?... Nhưng con người ta trước hết có lập chí cho vững, thì ông trời giúp cho... Còn nói rằng chỉ có mình Trương Phúc Loan là kẻ thù, can chi thù vơ oán chạ cả triều đình; vậy là con chưa hiểu lẽ nhân quả. Con nên biết rằng: một nước có gian thần làm việc bạo ngược với dân, mà triều đình không kiềm chế được, tức thị triều đình cũng có trách nhiệm. Bởi vậy đối với nhà ta, cả triều đình cũng là cừu địch, chứ không riêng một Trương Phúc Loan. Nếu sau này con lấy người chồng nào bất cứ làm quan, làm lính hay là hưởng thụ mảy may tước lộc của triều đình ấy, tức là đại bất hiếu, con đã nghe chưa?

Cô bé chưa kịp nói gì, bà đã nối lời:

- Ông ngoại con thuở trước tinh thông Kinh Dịch lắm; má còn nhớ có lần ông lấy Kinh Dịch bói toán tương lai vận nước việc đời, quyết đoán rằng đến năm thân năm dậu trở đi, thiên hạ sẽ tạo loạn, mà nói việc quý thần huyền diệu, cứ lấy ngay nhân sự mà xét cũng đủ biết: nước ta ngoài có cường lân dòm dỏ, trong thì quyền thần loạn chính, làm cho nhân dân sưu cao thuế nặng, khốn khổ trăm bề, hạn hán mất mùa, năm nào cũng có, người ta oán hận đã sâu, chẳng sớm thì muộn, thế nào cũng phải sinh loạn. Lúc bấy giờ nếu có người anh hùng ra định loạn an dân, dựng lại cuộc đời, thì con với chồng con phải giúp đỡ người ta... Đàn ông đàn bà cũng đều là người, đừng nghĩ đàn bà không làm nên sự nghiệp to lớn... Má từng kể sự tích Hai Bà Trưng cho con nghe rồi, con có nhớ không?

- Vâng, con nhớ... Má cắt nghĩa rõ ràng như thế, giờ con hiểu rồi.

- Thế thì bây con dám thề chứ?

- Vâng, con xin thề.

- Nào, con thề đi!

- Má nhắc lại câu thề cho con,

- Đây, má nhắc lại câu thề, con cứ y theo mà nói nhé: Tôi thề mai sau không lấy chồng là người có tước lộc gì của triều đình này, và ai phản đối triều đình đó thì tôi coi là bạn đồng chí, lấy nghĩa vụ giúp đỡ người ta.

- Con nhớ rồi, má ạ!... Má nghe con thề nhé!

Nàng lại vạch gươm xuống đất ba vạch, nghiêm chỉnh xướng lại câu thề, như bà mẹ vừa dạy; nàng nói to, rắn rỏi, phân minh từng tiếng một. Mụ Tri nghễnh ngãng mà cũng nghe rõ; mụ gật đầu hai ba lần, tỏ ý vui vẻ.

Bà quả phụ cũng thế, sau khi nghe con thề nguyền có vẻ thành thực, sốt sắng, bà vui mừng quá, nói cười múa chân múa tay như người điên; ôm con hôn lấy hôn để, day qua vỗ vai bá cổ mụ Tri, kéo bàn tay mụ đặt vào bàn tay con; kêu rú lên mấy tiếng “Thế là tôi xong việc, yên lòng”, rồi ngã lăn dưới đất.

Mảnh với mụ Tri cùng kinh hoảng; kẻ ôm mình, người đỡ chân, vội vàng khiêng bà lên giường.

Nàng để tay trên ngực mẹ, không nghe trái tim đập nữa: bà đã tắt thở.