← Quay lại trang sách

- IV - Con cọp làm mối

Sau khi bình yên qua đèo Đại Lãnh, khách cười nói pha trò với các ông lái:

- Nào, các ông kiểm lại da thịt xem có ai sứt mẻ gì để tôi xin lấy mạng thường mạng cho nào?

- Bẩm không ạ! Các lái đồng thanh đáp. Đa tạ ông hộ vệ anh em chúng tôi qua đèo được vạn sự bình yên... Thật là may quá, chẳng gặp ông thì không khéo chúng tôi phải ngủ đỗ lại bên kia đến sáng mai.

- Vậy thì bây giờ các ông cho tôi sống, để tôi đi việc tôi chứ?

- Bẩm không dám ạ, ông dạy quá lời!... Một lần nữa, chúng tôi cảm ơn ông và xin chúc ông đi công việc được như ý. Thạch Bi Sơn trông thấy kia, nhưng đường khuất khúc cũng hơi xa, ông đi kẻo trời sắp tối mất!

Thế rồi bọn lái buôn quảy bồ đi thẳng, còn khách thì thúc ngựa rẽ sang ngõ Thạch Bi Sơn.

Lúc ấy, mặt trời đã lặn, con Thần phong đang nện bốn vó đều đều trên đường núi gồ ghề, bồng dưng rúc đầu vào bụi rậm, miệng kêu hí dữ dội, còn hai chân sau thì hất đá tứ tung.

Khách nói cằn nhằn một mình, bất như ý:

- Thần phong vẫn thính mũi lắm!... Hẳn có chó rừng đây mà!

Quả nhiên, trong đám lau sậy cách xa trước mặt độ trăm thước, có tiếng rào rạt, ngọn cây ngả ra hai bên, chứng tỏ có một chú cọp chưa biết lớn nhỏ, đang rúc lau rẽ lá tiến đến phía khách rất nhanh. Con Thần phong đánh hơi từ xa, cho nên chúi đầu vào bụi, hất đá chân sau là để nghênh địch. Giống ngựa đi rừng gặp hổ bao giờ cũng thế.

Khách vội vàng nhảy xuống đất, nhưng chưa kịp rút gươm ra, thì một con cọp to lớn kinh hồn, nhanh như biến, đã vụt đến trước mặt.

Tấn kịch từ lúc con Thần phong đánh hơi, khách miệng nói lầm rầm, mình phóng xuống đất, cho đến khi con hổ vụt tới, nhà văn phải viết hết mấy chục hàng, nhưng sự thật lúc bấy giờ bay nhanh như gió, tất cả đồng thời phát hiện trong vòng nửa phút đồng hồ.

Cọp đã nhắm đúng độ xa thế nào không biết, vừa thò mặt ra ngoài đám lau, trong khi người bị ráng chiều rọi ngang giữa mắt chưa kịp nhìn thấy kẻ địch, thì đánh vụt một cái nhẹ nhàng như cơn gió thoảng, cọp lao mình đến nơi vừa vặn không xê xích hào ly nào.

Móng vuốt trương hết mãnh lực, hai tay cọp chụp lên hai vai người, vật người ngã ngửa dưới đất, đệ cả thân hình mấy trăm cân lên trên, miệng há thật to, phơi cả răng nanh nhọn hoắt và cái lưỡi mẹc gai, tưởng tượng như bộ máy nghiền đá, chỉ còn có việc ngoạm lấy đầu người mà nghiến nhẹ cũng đủ nát nhừ, hoặc thè lưỡi liếm qua trên mặt, là đủ lạng đi cả tảng,

Nếu ta được chứng kiến giây phút rùng rợn ấy, tất phải cầm chắc người chết mười mươi, không còn lấy người tí sinh vọng nào nữa. Cọp ngồi trên mình người, hai bàn tay bấu chắc lấy vai như đóng đinh vào thịt, còn cái miệng đáng khiếp với răng như đao, lưỡi, như nĩa kia chỉ còn cách xa gang tấc!

Nhưng nếu ta tưởng vậy, thì ra ta quên mất người còn hai cánh tay tự do. Nhất là hai cánh tay tráng sĩ, đã từng luyện tập cứng rắn như sắt. Ý chừng tráng sĩ cũng đã phòng bị có lúc bất ngờ hay là tất nhiên này, cho nên bên trong áo vải, có mặc một thứ đoản giáp hộ thân, từ vai xuống đến háng, có thể che chở được gươm đao đâm chém vô hại. Nhờ thế, bàn tay cọp bấu lấy vai tuy chắc, móng vuốt ghì vào tuy sâu, nhưng xương thịt người không bị tổn thương gì cho đến nỗi mất hết gân sức. Với hạng người ấy, trầy da đổ máu chỉ là chuyện rất tầm thường. Hai cánh tay tráng sĩ còn khỏe mạnh chán!

Tráng sĩ tính thế thủ thân cũng vừa vặn đúng, vừa vặn kịp. Giữa lúc cọp há miệng nhe răng, hạ gần xuống đến đầu mình, tráng sĩ đồng thời đưa hai cánh tay lên, vận hết tinh lực, bàn tay trái đặt ngay vào hàm răng dưới của cọp mà ghì kéo xuống còn bàn tay phải thì chống lấy hàm trên của má căng thẳng lên. Cọp nằm trên mình, mình nằm trên gươm, tráng sĩ chỉ còn hai cánh tay là khí giới tự vệ.

Tinh thần là lực lượng của tráng sĩ chỉ còn hai cánh tay và dồn hết vào đấy, có hai điều lợi: một là căng thẳng gân sức, bạnh hẳn miệng cọp ra bắt nó ngửa mặt lên cao, không thế cúi xuống nhìn và ngoạm lấy đầu người như ý nó muốn; hai là giảm bớt sức mạnh ở hai bàn tay cọp đang đè nén trên vai mình.

Nhưng cọp bị căng mồm đau quá, cái đầu cố sức lắc lư vùng vẫy để gỡ ra. Cọp cố sức gỡ chừng nào, hai cánh tay cứng như sắt của tráng sĩ lại cố càng cố ghì chặt thêm chừng ấy; nếu để buột tay ra thì chết.

Cọp dùng tới hai chân sau, muốn day đạp trên mình tráng sĩ, nhưng tráng sĩ nhanh nhẹn lấy bàn tay và đầu gối đỡ đòn được nhiều. Vả lại thiên tính giống cọp bao giờ cũng lo giữ thận nang kỹ lưỡng hơn hết các bộ phận khác trong thân thể, vì sợ thận nang hơi sây sát bị thương, sẽ nguy đến tính mạng. Người đi rừng biết được chỗ nhược của cọp như thế, cho nên chống cự với nó, thường nhắm vào đấy hơn cả.

Tráng sĩ cũng thế, cho nên cọp ta chỉ dùng sức mạnh hai chân sau một cách rất dè dặt, phòng xa, chứ không dám đem hết toàn lực.

Người và cọp cầm cự kéo nhau như thế đến nửa giờ đồng hồ. Cố nhiên người chưa biết làm sao gỡ mình thoát khỏi kẻ địch, mà cọp cũng tức tối, không tìm cách gì xơi được miếng mồi đã kề bên miệng.

Hai bên tương địch chỉ còn có cách chịu trận giữ miếng nhau, bên nọ chờ trên kia hở cơ một chút gì hay là sức đuối trước, thì mình nắm phần thắng. Chắc chắn người mau đuối sức hơn. Vì cọp đè trên mình, lại phải dùng sức hai cánh tay thái quá, có giỏi chịu đựng, chẳng qua độ nửa giờ đồng hồ nữa cũng được tự nhiên kiệt quệ, rời rã, để cọp phân thây xé xác cách nào tùy ý.

Nhất là cọp ta càng đau miệng, cái đau to như thúng cái, lại càng lắc lư để mong tháo gỡ, không chịu để yên giây phút nào. Lưỡi nó thè lè, nhểu cả nhớt rãi xuống mặt tráng sĩ; tiếng gầm hét ú ớ trong họng không phát ra được, tỏ vẻ giận uất kêu rên, nghe đủ lạnh tóc gáy.

Cọp muốn tháo gỡ miệng nó bao nhiêu, tráng sĩ phải dùng hết gân tay căng lên; tay ghì xuống bấy nhiêu, thành ra càng tốn hơi sức.

Quả thật, một chặp sau, tráng sĩ cảm giác gân sức mình đuối dần, mặc dầu khí phách vẫn hùng hồn, tâm trí vẫn tỉnh táo. Sự sống chết xem ra chỉ còn cách nhau gang tấc.

- Chết cha mi! Tao không giết được mi, không còn phải là hảo hớn ở đời!

Tráng sĩ tuy nghiến răng trợn mắt, thét lên những tiếng gắt gao hùng dùng với cọp như thế, nhưng thật sự mồ hôi đã đẫm ướt khắp mình, gân tay đã thấy mỗi phút suy nhược đi một vài phần, tự biết hơi sức không còn cầm cự dai dẳng được bao lâu.

Phút đồng hồ cuối cùng sắp sửa đến nơi, thắng lợi cho cọp, nguy hiểm cho người.

Hình như cọp nghe chừng người đã yếu sức, lại cựa quậy già. Bây giờ nó dụng lực cả đầu cổ, chân tay, mình mẩy; ý muốn cố kinh một vài hơn sức nữa là đủ kểt liễu tranh đấu, xơi ngon miếng mồi.

Tráng sĩ nghe hai cánh tay mình đã rời rã, không chịu vâng mạng lệnh của khí phách nữa; cơn phẫn uất bốc lên, tràn ngập trong lòng, muốn lừa miếng sau cùng, làm sao luồn được hai bàn chân vào dưới bụng cọp, tung hất nó văng ra, rồi mình vùng dậy rút gươm đấu võ với nó một phen, có chết cũng hả.

Nhưng cọp khôn lắm, không để cho địch thủ mình chơi được miếng hiểm ấy; nó ngồi thu vén đề phòng phía sau, trong khi hai hàm răng cố xoay đảo lấy lại tự do, còn hai bàn tay thì cố vấu mạnh vào vai người. Tráng sĩ thấy móng nhọn đã xuyên qua áo giáp mà cắm sâu vào da thịt, đau buốt cả người. Bấy giờ hai cánh tay thật là hoàn toàn mất hết gân sức, tráng sĩ chỉ còn có nước buông ra, đành phải chịu thua, chịu chết.

Giữa phút thiên nguy vạn hiểm, thập tử nhất sinh ấy, tráng sĩ nghe vun vút như từng luồng gió mạnh, kế tiếp thổi qua trên đầu mình; nhìn lên thì ra ba mũi tên thông luôn, từ đâu bắn lại không biết, đâm phập vào giữa miệng cọp mà không thấy động chạm gì đến bàn tay mình.

Cọp ta ằng ặc trong cổ, rú lên một tiếng nghe kinh khủng, rung chuyển cả thân thể, đồng thời máu trào ra miệng, rồi tự vật mình ngã lăn dưới đất, giãy giụa dữ tợn...

Tráng sĩ thoát thân, liền đứng phắt dậy, rút gươm cầm tay để giao chiến với cọp nếu nó còn có sức chồm lên vồ chụp mình. Giống ác thú này lúc bị thương gần chết vẫn còn sức mạnh đáng sợ.

Nhưng tráng sĩ đứng lên, chỉ vừa kịp tay rút thanh gươm, mắt trông ra phía trước xa xa thấy một người đang ghì ngựa từ trên sườn núi chạy xuống; thể là hai mắt hoa lên, chân tay bải hoải, muốn cố gượng mà không sao gượng được, mình lắc lư lảo đảo mấy vòng như người say rượu, rồi ngã nằm sóng sượt, bất tỉnh nhân sự.

Cầm cự với cọp lâu quá, tráng sĩ mệt đuối, không thế tự chủ được nữa.

Lúc ấy người cỡi ngựa mà tráng sĩ đã trông rõ từ trên núi chạy xuống, vừa vặn đến nơi.

***

Người cỡi ngựa là một chàng thiếu niên tuấn tú, nai nịt gọn ghẽ, bộ dạng trông như học trò, có vẻ con nhà quý phái, không đen đủi gân guốc như một người sinh trưởng ở chốn sơn lâm.

Chiều hôm, chàng theo lệ quen, quần ngựa chơi trong thung lũng Thạch Bi, Đại phế và Hải hồ; chú ý là tập cỡi ngựa, nhưng bao giờ cũng đem theo nỏ với đoản đao, hễ gặp chim muông thích ý thì săn bắn lấy thịt đem về ăn.

Lúc nãy, chàng buông cương cho ngựa đi bước một bên sườn núi gập ghềnh, bỗng nghe cách không xa, rõ ràng có tiếng cọp gầm gừ gióng một, như lúc nó đang ăn con nai con mền mà bị xương mắc cố vậy. Người quen ở rừng, nghe những tiếng ấy, chẳng những không sợ hãi tránh xa, lại còn tò mò mạnh bạo tìm đến; có khi vớ được cả cọp lẫn mồi của nó.

Thiếu niên dừng ngựa lại, nhìn quanh nhìn quất để tìm xem cọp ở chỗ nào; tới chừng đưa mắt xuống chân núi, nhận thấy phân minh một con cọp hình thể khá lớn, đang đè một người nằm dài trên cỏ, cái đầu thì hếch lên cao vì bị hai tay người chống thẳng. Cách xa trăm bước, một con ngựa bạch thà lỏng, quay cuồng ở bên lùm cây, rít lên từng hồi, dường như kêu cứu hộ ông chủ vậy.

Chẳng biết kẻ mắc nạn kia là ai, chỉ biết rằng người có hiệp khí lại mang ít nhiều võ nghệ trong mình, thà không bắt gặp thì thôi, đã trông thấy đồng loại đang bị ác thú áp đảo và lăm le cắn xé như thế, nghĩa phải ra tay cứu giúp, dù nguy hiểm đến mình cũng không từ. Thiếu niên nghĩ vậy, sát khí bốc lên mặt phừng phừng, lập tức thúc ngựa xuống núi.

Chính lúc ấy tráng sĩ nghe cánh tay mình đuối sức lắm rồi, sắp phải buông ra đến nơi.

Thiếu niên càng xuống gần, càng nhận thấy rõ hơn, trong trí suy tính:

- Sẵn nó há hốc miệng thế kia, ta tống ngay vài mũi tên vào đấy mà giải cứu người bị nạn, có lẽ nhanh hơn!

Nghĩ liền làm liền, chàng kềm ngựa đứng lại, đặt luôn ba phát tên vào cây nỏ, giương hết sức mạnh và nhắm rất trúng đích.

Cọp bị trọng thương, ngã ngay.

Mừng rỡ, đắc ý, chàng tế ngựa như bay đến chỗ ấy. Việc thứ nhất là cầm dao đâm bồi mấy phát cho cọp chết rốt, vì sợ giống thú dữ này thường có sức phản động ghê gớm, bị thương gần chết mà nó còn có thể chồm dậy vồ cắn người ta.

Muốn chắc dạ hơn, chàng lại vác mấy tảng đá to nện cọp vỡ đầu văng óc, bấy giờ mới để ý trên trán cọp có một đám lông trắng muột, lớn bằng hai bàn tay; dấu vết ấy khiến chàng gợi lại trí nhớ, bất giác tươi cười hớn hở, nói lầm rầm một mình.

- Hừ! Con bạch diện hổ đây mà! Tao theo dõi mi hèn lâu, không ngờ hôm nay gặp nhau ở chỗ này!

Thì ra mấy tháng nay, chàng với nhiều bạn đồng môn rình bắt con cọp này, nhưng nó đều vượt khỏi.

Xử trí con vật xong, vội vã chạy lại thăm nom người nằm nhoài cách đó chừng mười lăm thước.

Người vẫn nằm thiêm thiếp như người ngủ say.

Thiếu niên nâng đầu tráng sĩ nhẹ nhàng đặt trên gói hành lý cho êm. Thấy động đến mình, tráng sĩ mở bừng mắt ra, muốn nói nhưng còn mệt lả chưa nói được, chỉ nhìn thiếu niên bằng cặp mắt đăm đăm, tỏ vẻ cám ơn cứu mạng, và đưa một ngón tay tự trỏ vào miệng.

Thiếu niên hiểu ý, lập tức cầm cái nón lá chạy đi múc đầy nước suối đem đến cho tráng sĩ uống một hơi và xấp khăn ướt lau mặt, bấy giờ người thấy tỉnh táo khỏe khoắn trở lại ngay.

Tráng sĩ từ từ đứng lên, vươn vai mấy cái, cho giãn gân cốt rồi nắm lấy hai bàn tay thiếu niên, vồn vã nói:

- Đa tạ ân nhân!... Đa tạ ba mũi tên tiêu tai cứu khổ của ân nhân!

- Có gì mà ông phái khách khí quá thế! Thiếu niên vừa kéo tay ra vừa trả lời, có dáng không được mạnh bạo tự nhiên. Có gì mà gọi là ơn? Người ta ở đời cứu nguy giải ách cho nhau là sự rất thường.

- Chà! Con chó chết kia làm tôi phải cầm cự lâu quá!.., Tráng sĩ trỏ cái xác con cọp nằm dài gần đấy.

- Thế mà ông chẳng có thương tích sây sát tí nào, thật là anh hùng!

- Ồ! Tất cả móng nhọn của hai tay nó làm như đóng đinh vào vai tôi, nhưng may không đến nỗi tổn thương gì đáng kể! Tráng sĩ nói và chỉ vai áo cho thiếu niên xem. Có điều, nếu không nhờ ba mũi tên thần tình của ân nhân đến nơi vừa vặn giải thoát, thì chắc tôi sắp phải buông hai tay, để cho nó nhai ngấu tôi rồi. Một lần nữa tôi đa tạ anh... Mặc đầu bèo nước gặp nhau, anh cho phép tôi gọi bằng anh, cho được tỏ hết lòng thân thiết và biết ơn... Tôi rất mong đời tôi sẽ có dịp báo đền về cái đại ân cứu mạng hôm nay.

Thiếu niên đứng ngần người, làm thinh, chăm chú nhắm nhía giây lát, rồi nói với vẻ mặt tươi cười, dường như tìm ra một điều gì trong trí nhớ;

- Nếu tôi không lầm, thì tôi nên thôi xưng hô anh bằng tiếng ông như vừa rồi, mà anh thì phải gọi tôi là em mới đúng.

- Sao thế?... Sao thế?... Tráng sĩ hỏi dồn hai ba lần, sửng sốt.

- Anh hỏi tại sao? Thiếu niên trả lời. Tại anh là bực sư huynh của tôi, tôi đoán chắc như thế.

- Sư huynh?

- Phải, chúng ta cùng thụ nghiệp một thầy mà anh là hạng tiền bối của chúng tôi ngày nay. Trông mặt mà bắt hình dung, tôi tưởng tôi không sai lầm thì phải. Mà anh đến đây hôm nay là cốt đến thăm thầy.

Tráng sĩ nghe lấy làm kinh dị, chưa kịp hỏi lại, thiếu niên đã nhanh nhảu nói tiếp:

- Để tôi thuật chuyện cho anh nghe, vì sao tôi dám đoán già như thế. Sáng sớm hôm qua, thầy đang ngồi giảng nghĩa binh thư cho chúng tôi, bỗng có con chim khách đến đậu trên giàn hoa, kêu hót ríu rít. Thày xúc cảnh động tâm thế nào không biết, liền bảo tôi lấy Kinh Dịch đem lại cho thầy bói một quẻ. Thầy bói được quẻ “Mào quỷ động”, ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi, “Bẩm thầy, quẻ bói xấu hay tốt?”, chúng tôi đồng thanh hỏi, vì tính hiếu kỳ. - “Quẻ này xấu, nhưng nó động lại hóa tốt, thầy trả lời. Ta đoán chỉ sớm tối ngày mai, thể nào cũng có người đến đây, nhưng không phải lính tráng ở động Phú Yên đến rình mò rắc rối như mọi khi, mà ta phải đề phòng, e ngại; người sắp đến tất là người thân và đưa tin quan hệ thì phải!” Giây lát, thầy chắt lưỡi và nói thêm: Cứ theo quẻ ứng mà đoán, thì người ấy đi dọc đường phải mắc một cái nạn thế nào, rồi mới đến nơi.” - “Bẩm thầy, liệu chừng tai nạn có nguy hiểm gì không?” Chúng tôi lại hỏi, có ý muốn biết sự lạ kỳ cùng. - “Không nguy hiểm gì, bởi có người tình cờ giải thoát hộ”, thày ung dung đáp. Ấy là câu chuyện từ sáng hôm qua... Nay gặp anh trong trường hợp này, lại chợt nhớ thầy và xem tướng mạo anh, tôi định chắc là học trò cũ. Không phải thế, thì không ai dám đơn thân độc mã đen núi này làm gì!...

Tráng sĩ ngửa mặt lên núi, chắp tay xá vọng thinh không và nói:

- Lạy thầy! Thầy quả là bực thiên hạ kỳ tài ngày nay!

Đoạn, dạy lại thiếu niên:

- Phải, em đoán trúng đấy. Tôi là Trần Quang Diệu, môn sinh của thầy mấy năm về trước.

- À, thế thì em biết rồi! Thiếu niên nói và cúi đầu xá hai xá, tỏ ý kính phục. Bình nhật thầy nhắc đến tài năng anh luôn; thầy bảo chúng tôi rằng anh có tướng tài và dũng cảm lạ thường, có thể xông vào đám quân nghìn vạn người, lấy đầu thượng tướng như thò tay vào túi vậy... Hôm nay được trông thấy anh cam cự với con hổ to thế kia thì đủ biết.

Quang Diệu - vì chính là tên tráng sĩ - lắc đầu, nói giọng khiêm nhường:

- Thầy có lòng quá yêu mà nói thế thôi, tôi có tài cán nào dám đương những lời tán mỹ ấy. Chứng cớ là hôm nay không có em giải cứu, thì tôi bỏ đời vì hổ rồi! Em đến thụ nghiệp thầy từ bao lâu?

- Mới ngót hai năm.

- Trời ơi! Chưa đầy hai năm mà có bản lĩnh thế à? Vậy thì tương lai biết đâu mà hạn lượng... À quên tôi mải nghe chuyện mà quên hỏi quý danh.

- Em tên là Phùng Xuân, họ Bùi; thiếu niên nói nho nhỏ, như hơi có vẻ bẽn lẽn.

- Phùng Xuân?

- Vâng, Phùng Xuân, tên thầy đặt cho em đấy.

- Cái tên hay quá, nghe có vẻ yểu điệu như người... Ai thoạt nhìn có thể tưởng em là con gái...

- Thế à? Phùng Xuân hởi gượng, muốn đỏ ửng hai gò má, nhưng cố tự chế được ngay.

- Hay thật! Phùng Xuân nghĩa là gặp xuân; cây cỏ gặp xuân thi tươi tốt, cũng như người có bản lĩnh gặp thời loạn thì phải xông ra cứu dân giúp nước, dựng lên sự nghiệp oanh liệt ở đời... Em là người có bản lĩnh đồng môn, vừa có ơn cứu mệnh, vậy chuyến này em nên theo tôi xuống núi, tôi sẽ tiến cử cho...

- Đa tạ anh có hảo ý, nhưng còn tùy ở quyền thầy có cho mới được. Vả lại ý em còn muốn học thêm ít năm nữa cho giỏi, sẽ hay.

Quang Diệu trừng mắt, vỗ tay trên vai Phùng Xuân, khiến Phùng Xuân có cảm giác như luồng điện chạy khắp mình:

- Hừ! Thời thế này mà anh em ta không ra vẫy vùng oanh liệt thì còn đến bao giờ?... Em không đi, tôi cũng lôi em đi! Để tôi xin phép thầy cho. Thôi, bây giờ chúng ta lên núi, kẻo trời tối mất... Còn con vật kia thì vứt đi chứ?

- Ấy chết! Của quý sao lại vứt đi? Để tôi đem về lấy thịt cho anh em cùng ăn...

Phùng Xuân nói rồi nhờ Quang Diệu phụ lực với mình khiêng xác cọp để nằm vắt ngang trên lưng ngựa, tìm dây sắn buộc lại chặt chẽ.

- Anh lên ngựa đi, em xin hướng đạo, Phùng Xuân nói.

- Vậy chúng ta ngồi chung ngựa với nhau có được không? Quang Diệu kéo tay Phùng Xuân và nói. Con Thần phong của tôi khỏe lắm, cõng hai chúng ta thừa sức.

- Cám ơn anh, để tôi đi bộ. Tôi không quen ngồi chung ngựa, anh ạ!

Phùng Xuân nói và mỉm cười, đoạn nắm dây cương dắt con ngựa chở cọp, phăng phăng đi bộ trước dẫn đường, Quang Diệu cưỡi ngựa thủng thẳng theo sau.

Một chặp sau, hai người lên đến sơn trại.

Ông giáo Hiến vui mừng và cảm động, thấy một người môn sinh ở ấp Yên Thái ngày trước, đã chịu khó bạt thiệp vất vả, đến đây thăm thầy.

Học trò loan báo nhau, rồi cùng gia nhân tức khắc tụ tập ở nhà học, đổ xem người mới đến và nghe chuyện giết cọp. Họ tự nhốt mình trên núi đã mấy năm, cách tuyệt hẳn với thế gian, nay nghe có một người ở thế gian lên, mà người ấy lại là bạn đồng môn tiền bối, thêm có thủ đoạn cao cường như ta vừa thấy; tự nhiên ai cũng động lòng hiếu kỳ, kính mộ, thân ái, muốn đến chào hỏi trước, nhân tiện thăm dò nghe ngóng tin tức thế gian.

Trước khi vào bái yết thầy, Quang Diệu đã bị chào đón xúm xít tận cổng ngoài, và phải trả lời tứ phía, đủ thứ câu hỏi:

- Mùa màng vùng ngoài thế nào?

- Dân tình mấy năm nay có bớt khổ sở đói kém không?

- Thằng gian thần họ Trương đã chết chưa, hay nó vẫn còn sống để làm khổ dân?

- Thế nào, anh Võ Tòng đánh nhau với cọp nửa buổi mới hạ được nó à?

- Nghe nói ngoài ta gần đây có “giặc ó” nổi lên, là giặc gì thế? v.v.

Chính ông giáo Hiến cùng chạy ra sân, tươi cười vồn vã, ôm lấy Quang Diệu, thân mật như người cha cách biệt con lâu ngày mới gặp, rồi cầm tay chàng mà dắt vào trong nhà.

Quang cảnh nhà học lúc ấy tưởng tượng như một tiểu triều đình mà ông giáo Hiến là vua; mọi người đứng lố nhố, như bá quan văn võ thị lập bênh cạnh vua để tiếp kiến một vị sứ thần ngoại quốc đến dâng lễ cống.

Sự thật, Quang Diệu đến Thạch Bi Sơn với chức vụ gần như sứ thân.

Chàng mở tay nải, lấy ra năm tấm vải, bốn bao trà Tàu thượng phẩm, mười nén bạc, bày trên mâm gồ, trân trọng đặt trước mặt thầy, sụp xuống lại hay lạy, rồi hai tay nâng ngang mày, kính cẩn trình một bức thư. Cử chỉ ấy tỏ hết tinh thần lễ giáo phương đông, một người học trò kính trọng thầy học đến thế nào?

Ông giáo Hiến xem xong bức thư, nét mặt nở nang, hớn hở:

Ồ, giỏi nhỉ! Ông nói. Thế ra anh em Biện Nhạc đã xuất binh đánh ra miền ngoài rồi ư? Ta ở tít trong thâm sơn cùng cốc này, chỉ được nghe tin phảng phất.

- Dạ, bẩm thầy, đại binh Tây Sơn đã hạ được thành Quy Nhơn làm nơi căn bản; Quang Diệu đáp. Sau khi lấy xong Quy Nhơn thì đệ tử vâng tướng lệnh tức tốc vào đây báo tin với thầy. Hiện nay đại binh chắc đang giao chiến với quân triều ở khoảng Quảng Nghĩa Quảng Nam.

- Binh lực có khá không?

- Thưa, lúc đầu chỉ có chừng dăm nghìn, nhưng sau khi hạ thành Quy Nhơn, số quân tinh nhuệ tăng lên dư vạn, đã chia ra trung quân và tiền hậu tả hữu tất cả năm dinh. Dân tâm hưởng ứng như sấm vang nước chảy. Lại có quân khách “tàu ô” quy phụ nữa. Bởi vậy, thanh thể Tây Sơn rất mạnh, đại binh tiến đến đâu, có thể như quét lá chẻ tre đến đấy.

Việc nước thù nhà, tự ông giáo Hiến không làm được, nhưng bấy lâu ổng xuất lực đào luyện người khác làm; nay thấy chính học trò mình có thủ đoạn anh hùng như thế, ông đắc ý mừng thầm, vuốt râu cười ha há:

- Ừ, ta vẫn biết anh em Biện Nhạc có chí to lớn, nay thấy hiển nhiên, ta vui mừng lắm! Sự nghiệp tranh bá đồ vương của họ tất được thành tựu phen này, mà chính nhà ngươi sẽ dự một phần vẻ vang trong ấy, Quang Diệu ạ! Nhà ngươi cố lên.

Sau mấy lời cảm tạ thầy có lòng khuyến khích, Quang Diệu nói tới sử mệnh của mình:

- Bẩm thầy, chủ tướng Tây Sơn vì quân sự ràng buộc, giữa lúc nhất sơ, không thể rời bỏ mà đi. Bởi vậy đệ tử thay mặt lặn lội vào đây, trước là kính thăm thầy, sau là thành thật mời thầy hạ sơn để dạy bảo và giúp đỡ anh em chúng tôi, thì mới chắc làm nên được đại sự.

Ông giáo Hiến lắc đầu:

- Các ngươi đều là hạng thiếu niên anh tài, thừa sức làm nên đại sự, không phải phiền đến ai!... Ta là người thợ rèn đúc con dao, nhưng không thế tự mình làm con dao. Môn đồ ta làm nên việc lớn thế là vẻ vang cho thầy; còn sự xuống núi thì ta chịu thôi.

Quang Diệu ân cần nài nỉ đôi ba lần, ông cứ một mực từ chối:

- Nhà ngươi nên biết ta bây giờ tuổi già sức kém, bao nhiêu lòng công danh thế sự đã nguội lạnh lâu rồi. Sống chết ở núi Thạch Bi này, không có gì đánh đối được cái thú sống ẩn cư giảng học của ta... Này, trí khôn của Nhạc, anh dũng của Huệ, thêm những tay phò trợ cao cường như nhà ngươi, ta thấy trước đại sự tất thành. Có điều ta muốn nhà ngươi trở về, nhớ nói cho anh em Biện Nhạc biết rằng: thầy khuyên họ nên giữ tình huynh đệ tương thân, chớ vì lợi danh nghi kỵ mà sinh ra xích mích; hễ cốt nhục tổn thương ngờ vực lẫn nhau thì quân địch thừa cơ làm hại cho việc lớn của mình đấy...

Bỗng dưng ông ngừng lại, trầm ngâm giây lát, thở dài và nói tiếp:

- Nguyễn Huệ! Đáng tiếc cho Nguyễn Huệ! Con người anh tài cái thế, mà số không được thọ, buồn thay!

Quang Diệu thừa dịp, xin thầy chỉ bảo cho một hai câu về số mạng mình; ông giáo chạy đi lấy tập số tử vi những học trò cũ mà ông đã soạn ngày trước, mở lá số Quang Diệu ra xem, mỉm cười và nói:

- Số anh thì có vợ nay mai đấy, thầy mừng cho!

- Bẩm thầy, giữa lúc binh nhung bất trắc, con đâu dám mong tưởng sự lạ ấy? Quang Diệu đáp.

Mọi người đứng chung quanh, cười chúm chím, đưa mắt nhìn nhau, dường như muốn nói: “Con người thế kia thiếu gì con gái cầu lấy”.

Trừ ra Phùng Xuân vẫn đứng lặng lẽ nghiêm trang, không động thanh sắc.

- Thầy bảo thật đấy! Ông giáo nói. Dù anh không mong tưởng, nhưng duyên số đã định, ngay giữa lúc binh nhung, cũng vẫn thực hiện như thường... Vả lại, số anh có vợ cũng là anh hùng, chứ không phải là người tầm thường đâu!

- Thưa thầy, hậu vận con thế nào? Quang Diệu hởi.

- Hậu vận anh ư?...

Ông giáo nói mấy tiếng ấy rồi thôi, không muốn nói thêm nữa. Quang Diệu nài xin chỉ thị minh bạch, ông trả lời lảng ra:

- Ôi! Đại trượng phu đã có chí khí làm việc đời thì cứ hăng hái làm tới, cần biết hậu vận làm quái gì!

Đoạn, day lại nói với học trò:

- Sẵn có thời cơ, anh nào muốn tùy thế lập công thì đi!... Không thể chính mình đem tâm lực xuống giúp đỡ Tây Sơn, ta giúp cho nhiều ít nhân tài cũng thế.

Hôm sau cả thảy bảy người lạy tạ thầy rồi theo Trần Quang Diệu từ giã Thạch Bi Sơn; trong số ấy, Bùi Phùng Xuân là một.