- V - Chiếc cũi có ma!
Nửa đêm vào khoảng tháng 10 năm Tân Mão (1771), ở nhà thờ họ Hồ, ấp Kiên Thánh, huyện Phù Ly, thuộc Quy Nhân phủ có cuộc mật nghị bảy người: ba anh em họ Hồ là Nhạc, Lữ, Huệ và Khê, Thung, Lê, Toại, bốn tay thổ hào trong vùng.
Trên chiếc giường tre, bên đĩa dầu lạc thắp bấc leo lét, năm người trước đang ngồi uống trà Huế, nói chuyện mùa màng; Lê và Toại lững thững đến sau cùng, miệng cười hề hà chào hỏi mọi người và nói:
- Hôm nay chắc ông tuần biện được bạc, cho nên nửa đêm cũng cố mời kéo anh em đến đánh chén ăn khao, chứ gì?
- Vâng, người ta mới cho một cái đùi nai, tôi muốn họp anh em làm vui, nhân dịp để cho tôi từ biệt luôn thể! Nhạc trả lời, vì tuần biện lại Vân đồn là biện chức của mình.
- Tiễn biệt à? Lê sửng sốt hỏi lại. Ông nói bỡn anh em đấy chứ.
- Nói thật, thì phải nói là vĩnh biệt nhau mới đúng, Nhạc đáp.
- Gì mà to chuyện lắm thế?
- Vâng, chuyện to đến nỗi các ông không thể tưởng tượng nổi kia.
Rồi đó mâm rượu thịt nai bưng lên, bảy người quây quần, chén thù chén tạc rất vui vẻ. Ai giục hỏi chuyện gì mà tiễn biệt với vĩnh biệt, Nhạc chỉ cười gằn một cách bí mật mà không chịu nói ngay; hứa hẹn sau tiệc rượu sẽ hay, không thì nhạt mất hứng thú.
Nhạc là người hào ấm nhất đám, ăn cực khỏe, uống cực nhiều, mà thần thái vẫn tỉnh táo như thường.
Đến chén rượu cuối cùng, Nhạc rót thật đầy, tay nâng chén, mắt nhìn quanh mọi người và nói:
- Tôi xin uống chén này để vĩnh biệt tất cả anh em, vì sáng mai nhất định lên phủ để nộp mình vào ngục đây! Mà vào ngục nghĩa là tất chết, từ mai trở đi, chúng ta không trông thấy mặt nhau nữa.
Nói đoạn Nhạc uống một hơi cạn chén rượu to, nét mặt đầy vẻ buồn rầu cảm khái.
- Việc gì mà dữ dội thế? Khê và Thung đồng thanh hỏi. Bất quá là việc tiền thuế Vân Đồn, phải không?
- Phải, tôi thua bạc mất sạch cả rồi. Nguy quá! Nhạc nói và thở dài.
- Ừ, hèn nào hôm qua có thủ hạ của đốc trưng Đằng về ấp ta dò tầm xem bác có về đây không? Toại nói với giọng rên rỉ, tỏ vẻ rất thương hại Nhạc.
Khê, hay Huyền Khê, nhà giàu nhất vùng, vỗ vai Nhạc, hỏi:
- Số ấy bao nhiêu?
- Ngót năm nghìn quan, nghĩa là tất cả tiền thuế Vân Đồn mùa này! Nhạc đáp:
- Ồ, tưởng là gì?... Năm nghìn quan?... Đồ bỏ!... Để tôi trả đậy cho, việc quái gì mà sợ?
- Nhưng trả đậy thì tôi cũng vẫn phải tù, vẫn có tội, vì là chậm trễ tiền thuế của triều đình... Mà ông trả đậy cho tôi, có lẽ ông cũng bị liên lụy nữa; người ta sẽ buộc cho ông là đồng lõa xâm đoạt công ngân thì khốn!... Với quan Quốc phó Trương Phúc Loan, đừng nói chuyện chơi.
Nhạc vừa nói vừa đưa mắt xem xét thần sắc của mỗi người.
Không phải hẹn ước, cả Khê, Thung, Lê, Toại cùng lắc đầu và đồng thanh:
- Thế thì bây giờ biết làm sao?
- Làm sao à?... Thì làm giặc chứ còn sao nữa?
Ấy là tiếng nói rắn rỏi của Huệ, người em thứ ba của Nhạc, nãy giờ vẫn ngồi làm thỉnh.
Nhạc vội vàng bưng lấy miệng em:
- Ấy chết!... Em chớ nói càn! Phải nhớ rằng họ Hồ nhà ta bị chúa Nguyễn bắt làm tù dân, đày vô đây trải bốn đời rồi. Nếu vỡ chuyện này ra, chúng ta diệt tộc mất.
Huệ dằng tay anh ra, đứng phắt dậy, biện thuyết dõng dạc, tiếng sang sảng như chuông:
- Phải, tôi nói làm giặc! Nhất là có tiền trả đủ, cũng không khỏi tội, vậy thì không làm giặc còn đợi gì?... Vả lại, thời thế hiện nay, triều đình thì chia bè tôi gian, kỷ cương đổ nát, dân chúng thì sưu cao thuế nặng khốn khổ lầm than, chính là lúc những người thảo dã anh hùng như chúng ta phải tuốt gươm phất cờ nhảy ra kiến công lập nghiệp, tranh bá đồ vương.
Nhạc làm bộ ngăn can em, và chắp tay van lạy:
Thôi đi! Tôi van chú, nói càn rỡ vừa vừa chứ, tai vách mạch rừng, lỡ ra thì chết!... Mình là bọn dân đen áo vải, cứ cam số phận cho xong!
- Ô hay! Anh bảo phường áo vải thì không được xuất đầu lộ diện với đời à? Huệ trừng mắt cãi lại. Tôi xin hỏi tất cả các ông có ai cấm phường áo vải thì không được dấy lên, đảm đương cứu vớt sinh linh và làm nên thiên hạ đại sự? Cổ lai, thiếu gì phường áo vải có tài năng, chí khí, biết nhân thế thừa thời, chẳng lập nên đại nghiệp, hoàng bào long cổn đấy ư? Há Cao tổ nguyên là một anh đình trưởng đất Sái; dựng lên Minh triều là một thầy tu ở chùa Hoàng giác, cũng như là Lê Thái tổ nước ta chính là một bác nông dân ở Lam Sơn; xưa nay dựng được công to, lập nên nghiệp lớn ở đời, phần nhiều do hạng bố y vô lại như thế cả,... Ngày nay, thiên hạ tao loạn, những người có thao lược tài trí như đại huynh, có ít nhiều cơ mưu vũ nghệ như anh Lữ và tôi, có thanh danh lực lượng như bốn ông bạn thân chúng ta đây, không đồng tâm hiệp lực, mưu đồ đại sự với nhau thì còn đợi lúc nào nữa?...
Huệ còn muốn nói nữa, nhưng Nhạc thấy chỗ mình muốn đợi chờ đã đến nơi rồi, cho nên khoác tay ra hiệu bảo em hãy nhường lời cho mình:
- Ừ, chú ba nói cũng có lẽ phải lắm đấy... Nhưng anh em ta ví bằng có vì sự thế bức bách, mà phải khởi binh làm liều chăng nữa, chỉ là việc riêng của anh em nhà ta, được ăn thua chịu, chứ sao lại nói gắp cả bốn ông bạn đây vào, biết các ông có đồng tâm hiệp lực với mình hay không?
Bốn người bạn ngẩng mặt nhìn nhau, trong khi Huệ trả lời anh nhưng kỳ thật là buộc họ vào phe một cách gián tiếp:
- Xin anh đừng lo. Em biết chắc bốn ông bạn thế nào cũng đồng tâm hiệp lực với ta, vì có hai lẽ cốt yếu. Một là thuở nay các ông vẫn đi lại thân mật với anh em ta, khắp làng xóm và cả địa phương này càng biết. Nhất đán chúng ta khởi binh, phản đối triều đình, dù các ông theo ta hay không theo, thì trước mắt hương lý quan lại, các ông cũng là đồng lõa: Chừng đó người ta tìm kiếm xem Biện, Nhạc ngày thường bạn bè với ai, đố khỏi các ông bị bắt bớ lôi thôi, tù tội chắc chắn, vì giữa đời tao loạn này, người ta có kể công lý là gì? Không theo, để chịu lấy tai vạ như thế, chăng thà đem tài góp sức cùng mưu đồ đại sự với chúng ta, để mai sau chia hưởng phú quý với nhau còn hơn. Các ông đều là người thông minh, hắn đã hiểu rõ chỗ lợi hại ấy.
Khê, Thung, Lê, Toại ngồi nghe Huệ nói cùng toát mồ hôi, trong trí biết rằng anh em họ mưu phản, định gắp cả bọn mình vào.
- Còn lẽ thứ hai thế nào, chú phân giải nốt cho nghe? Nhạc hỏi.
Huệ chậm rãi nói tiếp:
- Lẽ thứ hai là chúng ta xử sự, phải có danh chính ngôn thuận thì dân chúng mới theo. Việc gian thần Trương Phúc Loan mạo chữa di chiếu, bỏ Hoàng tôn Dương mà lập Định vương còn bé cho dễ chuyên quyền, thiên hạ đều biết. Mấy năm nay, Phúc Loan tham lam, bạo ngược, bóc lột của dân, khiến cho lòng người cừu oán lắm rồi. Nay chúng ta lấy cái danh nghĩa phù lập Hoàng tôn Dương và trừ diệt Trương Phúc Loan, mà dấy lên, thì trúng vào sở nguyện của dân. Mà làm như thế, tức là vì quốc gia, vì triều đình, nào phải là phản loạn gì đâu. Các ông bạn đây cùng ta đồng tâm hiệp lực, sẽ được tiếng trung thần nghĩa sĩ thì có, cho nên em biết thế nào mà các ông cũng hết sức giúp ta, cùng ta cộng sự.
Nghe đến đây, bọn Khê bốn người, thấy vững dạ, hết lo; ban nãy hồi hộp chừng nào, bây giờ sốt sắng tán thành chừng ấy, có ý thúc giục thêm:
- Ngẫm cho kỹ, anh ba Huệ nói phải lắm, ông tuần biện nên quyết định đi!
- Các ông giúp tôi một tay nhé? Nhạc hỏi và cười thầm, vì biết bọn này mám mồi công danh, trúng kế mình rồi.
- Vâng, ông cứ làm đi, chúng tôi xin tận lực giúp đỡ! Khẽ trả lời thay cho cả ba người kia. Nhưng phải tìm một chỗ địa lợi nào, chứ sờ sờ ở giữa đồng bằng này ư?
- Cố nhiên, tôi đã có chủ trương rồi: Nhạc nói. Chúng ta phải lên thượng đạo Tây Sơn, lấy đó làm căn cứ mới được.
- Ô! Thế là vạn toàn rồi còn gì nữa? Khê cười nói hể hả, một phần vì hơi men nồng nàn, một phần vì ý nghĩ công danh cám dỗ. Phải, thế là vạn toàn! Anh em mình có của, có người lại được cả nhân hòa, địa lợi thì việc tất thành!... ừ, làm đi! Ta làm ngay đi!... Chúng tôi vui lòng khuynh gia phá sản, để mộ quân, sắm khí giới, và xin tôn ông tuần biện làm minh chủ!...
Sự thật Nhạc đã có chủ trương khởi nghĩa sắp sẵn trong trí và bàn định với hai em rồi. Tiêu hết cả một vụ thuế Vân Đồn, Nhạc sợ bị tù tội, nghĩ không có cách gì hơn là vào núi làm giặc, chống lại triều đình. Nhưng còn lo mình không có tài sản để dùng vào việc binh lương khí giới, nhân thể làm cho to chuyện, thì chung quy là một tên lâu la vô nghĩa. Nhạc có chí khí thừa thời làm to, cho nên muốn gắp cả bọn Khê vào, bởi họ có địa vị danh vọng trong vùng, kẻ này là thổ hào sẵn có gia đinh, thủ hạ, người kia là cự phú, trong tay lắm thóc nhiều tiền, có thế giúp mình mưu đồ đa sự được.
Song, mặc dầu bình nhật giao tình, biết họ có sẵn lòng quên bỏ thân gia tài sản đi theo sở chí của mình không?
Nhạc bèn vận dụng mưu trí, bày ra tiệc rượu thịt nai, nói chuyện vĩnh biệt, rồi cho em là Huệ đứng lên nhập đề nói khích, trước thì dọa nạt bóng bẩy với mặt luật đồng lõa, sau thì nhử mồi công danh lợi lộc bằng việc tôn phù Hoàng tôn Dương; khiến cho bọn Khê hớn hở đưa đầu vào tròng, chứa chan hy vọng.
Một khi thấy họ đã tán thành nhập lõa rồi, Nhạc vừa tươi cười vừa móc trong túi áo lấy ra một tờ giấy đã viết sẵn từ hồi nào, đưa cho bọn Khê xem và nói:
- Ban nãy tôi muốn thử lòng các ông thế thôi, chứ đại trượng phu như chúng ta không thừa lúc này làm việc oanh liệt ở đời, chẳng uổng lắm ư?
Khê đưa gần đèn xem, rõ là tờ lộ bá do Nhạc thảo sẵn, định nay mai khởi binh thì truyền tống khắp các thôn ấp phủ huyện, hiệu triệu nhân tâm. Bên trong, đại ý kể tội Trương Phúc Loan hại dân loạn nước, rồi bày tỏ mục đích xướng nghĩa là tôn phù Hoàng Tôn Dương v.v... Dưới đứng tên cả bảy người: ba anh em Nhạc và bọn Khê, Thung, Lê, Toại.
Nhưng Khê lấy làm lạ:
- Quái, ba anh em ông họ Hồ, còn chúng tôi thì trừ ra ông Thung chính thật họ Nguyễn, người này họ Lê, người kia họ Trần, sao ông lại để họ Nguyễn tất cả thế này?
Không trả lời thẳng vào câu hỏi, Nhạc ung dung nói:
- Các ông có nhớ chúa ta họ gì không?
- Họ Nguyễn chứ gì! Toại và Lê cùng trả lời.
- Đất này ai mở mang làm chủ, đố các ông biết?
- Không chúa Nguyễn thì còn ai!
- Ấy đấy, sở dĩ tôi để ba anh em nhà tôi và các ông cùng họ Nguyễn cả, là muốn chỉ tỏ ra chúng ta ăn cây nào, rào cây ấy, người trong họ, lo việc chung, có thế dân chúng mới nô nức theo mình. Cái thuật chiêu dụ lòng người, phải thế mới được.
Cả bọn Khê gật gù khen mãi Nhạc là người thâm mưu cao kiến. Họ càng quyết tâm nhập đảng và giúp sức.
Bắt đầu ngay hôm sau, anh em Nhạc bỏ ấp Kiên Thành, kéo lên thượng đạo Tây Sơn, bí mật tạo lập dinh trại, xếp đặt quân sự; còn bọn Khê thì chuyên việc vận lương mộ người đưa lên.
Công cuộc tổ chức không đầy bốn tháng, nghĩa là bước qua tháng hai năm Thìn, ở thượng đạo Tây Sơn đã thành một căn cứ cách mạng, do Nhạc làm đầu. Lúc này, thủ hạ chưa có bao nhiêu, chỉ độ dăm sáu trăm người, nhưng do tay Huệ khéo luyện tập, dăm sáu trăm người ấy đều trở nên chiến sĩ không thể coi thường.
Mặc dầu lương thực quân gia, nhất nhất còn kém, Nhạc công nhiên truyền hịch đi các nơi, lên tiếng kêu gọi dân chúng và ra mặt kháng cự triều đình. Vì Nhạc tự tin vào tài trí anh em nhà mình, và lại triều đình hồi bấy giờ, dưới tay bạo tàn phá hoại của gian thần Trương Phúc Loan, đã tiêu hao mất cả nguyên khí thực lực, dù muốn đàn áp mình cũng chẳng đàn áp nổi.
Nghe tiếng Tây Sơn hiệu triệu dân chúng từ Quảng Nam vào Bình Thuận tìm đến quy phục mỗi ngày một đông. Nhất là Nhạc khéo mua chuộc nhân tâm bằng những thủ đoạn lấy của nhà giàu - hạng giàu bất nhân cho vay cắt cổ - giúp cho nhà nghèo, thành ra bọn này mang ơn cảm đức, rủ nhau đi theo như nước, hoặc làm tai mắt do thám hộ quân Tây Sơn.
Tiếng hào hiệp nhân nghĩa của Nhạc đồn khắp xa gần. Dân nghèo đói nội vùng, coi như một vị phúc tinh. Giờ họ tôn Nhạc là ông chúa trại Tây Sơn, chứ không dám gọi là Biện - Nhạc xách mé như trước.
Suốt năm Thìn, anh em Nhạc lo huấn luyện quân sĩ, tích tụ binh lương, chiêu nạp hào kiệt. Tiền thuế của Triều đình thu ở các tỉnh miền trong giải nạp ra kinh đô, thường bị quân Tây Sơn đón đường cướp mất.
Bọn vong mệnh bốn phương nghe tiếng, tìm đến theo càng ngày càng nhiều. Bạn đồng môn như Trần Quang Diệu, Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh, Lê Đức Bảo, những tay lục lâm kiện tướng như Sơn quân, Kiều mộc, Tứ linh, Nhòng bay, người đem tài năng, kẻ góp thủ hạ, làm cho thanh thế Tây Sơn nổi dậy như sấm vang sóng cồn.
Binh triều đánh trận nào thua trận ấy. Quan địa phương lại sợ bóng vía Trương Phúc Loan, không dám tâu báo sự thật về triều, thành ra quân Tây Sơn cứ việc tung hoành và xây dựng thế lực một ngày một to, mà triều đình tuyệt nhiên không ngờ. Nếu có phong văn đến kinh sư, Phúc Loan cũng chỉ tưởng tượng anh em Biện - Nhạc vì sợ tội mà tụ bạ làm giặc cỏ thế thôi, không cần giới ý.
Dần dà đến cuối năm, cả mấy phố huyện xung quanh như Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viên, trở nên thuộc hạt của Tây Sơn cai trị và thu thuế bấy giờ triều đình mới xanh mặt đâm lo, thì lực lượng giặc đã hùng hậu lắm rồi, không chế ngự được nữa. Nhất là Nhạc khéo đánh vào chỗ tâm lý dân chúng là khởi binh để phù lập Hoàng Tôn Dương, thành ra có danh chính ngôn thuận được phần đông dân chúng cho là đạo binh trung nghĩa của nhà Chúa. Rất đỗi có nhiều toán binh triều vâng lệnh đi đánh giặc mà lại cuốn gói và đem cả khí giới theo về Tây Sơn.
Bước sang năm Tỵ, Nhạc tự nhận thấy nhân tài và thực lực trong tay mình có thể công nhiên đối đầu với triều đình được rồi, bèn dời cả dinh trại từ thượng đạo xuống hạ đạo, nghĩa là bỏ rừng núi mà xuống đồng bằng, và định kế hạ thành Quy Nhơn để làm căn bản.
Thành này là nơi xung yếu, cả bộ lẫn thủy, nhà dùng binh cần phải tranh đoạt trước hết, để mở đường ra Phú Xuân. Sau này năm bảy phen chúa Nguyễn Ánh và Tây Sơn huyết chiến ở Quy Nhơn chính vì lẽ ấy.
Hồi đó, thành trì Quy Nhơn rộng lớn và kiên cố, binh lực cùng nhiều. Nhạc nghĩ nếu đường trường tiến đánh thì e hao tổn công phu ngày giờ, không chắc trong năm ngày đã hạ được, mà triều đình phái viện binh đến, thủy bộ cùng đánh ập vào sau lưng mình và quan trong thành thừa thế đánh ra, thì mình nguy khốn. Chi bằng dùng mẹo thể nào mà lấy thành, như sấm vang chớp nhoáng, kẻ địch không kịp xoay trở, mới thật là thu công vạn toàn.
Lại dò biết quan Lưu thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên vốn người dũng mãnh thiện chiến, nhưng vô mưu và hay khinh địch, như vậy càng nên lấy mưu thắng hơn là lực thắng.
Nhạc ngồi trầm ngâm suy nghĩ chốc lát, gật gù cười nói một mình, đắc ý.
- Thôi, ta có mẹo bỏ thành Quy Nhơn vào trong túi rồi.
Lập tức sai quân đi chặt tre đóng ngay một chiếc cũi thật to; một mặt, đánh trống chiêu tập chư tướng họp ở đại trại nghe lệnh.
Nhạc ngồi giữa, trước mặt có thanh kiếm nạm sà cừ, và lá cờ vàng nho, một bên viết chữ “Quân lệnh” một bên chữ “Tiết chế” tức là chức vị của Nhạc do chư tướng đã suy tôn, để cầm đầu việc quân, quyền hành sinh sát như ý. Hơn hai mươi vị đốc chiến và giám quân lớn nhỏ đứng hàng dài hai bên, ai nấy đều mặc áo vải xanh, đao gươm cạnh sườn, trông rất nghiêm trang uy võ.
- Từ nay về trước, chúng ta không khỏi mang tiếng thảo khấu, nhưng từ nay trở đi, chúng ta là một đại quân: Nhạc nói một cách hùng dũng, có oai, rõ ràng một vị Thống tướng. Từ nay trở đi, chúng ta sẽ phải giao chiến với kẻ địch, một sống một chết, một mất một còn. Vậy ba quân lui tới, được thua quan hệ ở người làm tướng; các ngươi đã phó thác cái trách nhiệm nặng nề ấy cho ta, thì nhất nhất phải theo ta hiệu lệnh nghe!
- Xin vâng! Chư tướng đồng thanh đáp.
- Hôm nay là hôm chúng ta bắt đầu công nhiên xuất binh đối kháng triều đình, vậy tất cả anh em cùng nên gắng sức vì công việc chung, cho được thắng lợi ngay từ buổi đầu, để lấy sự may mắn cho toàn quân và lập uy danh với thiên hạ. Chính ta sẽ đem thân chịu phần nguy hiểm trước nhất, chứ không phải ta đây là ông tiết chế gan thỏ, chỉ biết đấy anh em ra trận, còn mình thì lủi lại sau đâu?
Nhạc nói và cười, nhìn quanh mọi người. Chưa ai kịp thốt lời nào, ông đã nói tiếp:
- Anh em nên biết thành Quy Nhơn như cái đầu con nai của binh triều, mà Đạm Thủy và Càn Dương tức là cặp nhung rất tốt, vì tiền bạc thóc gạo tích tụ ở hai nơi đó nhiều lắm. Trong chư tướng có ai tình nguyện đi lấy Càn Dương và Đạm Thủy hộ ta nào?
Nguyễn Thung và Trần Quang Diệu cùng xin đi. Nhạc bảo hai người gắp thăm, ai trúng nơi nào thì đánh nơi ấy.
Thung gắp trúng Càn Dương, còn Đạm Thúy về phần Diệu.
- Hai người muốn đi, phải lập quân lệnh trạng mới được; Nhạc nghiêm chỉnh nói. Hễ lấy không được thì phải chịu quân pháp đấy. Vì hai nơi ấy đối với Quy Nhơn có hình thế rất trọng yếu về mặt quân sự. Nhất ta có thể cản trở binh triều từ đại dinh Quảng Nam kéo vào. Thế, hai người có dám viết quân lệnh trạng không?
- Tôi xin ký cá hai tay! Diệu hăng hái nói.
Thung có vẻ hơi ngần ngại, nhưng thấy Diệu mạnh bạo nhận lời, tự nhiên mình cũng buộc phải nhận theo, chả lẽ lại tỏ ra mình yếu bóng vía.
Sau khi Trần Văn Ký, làm quân chính kỳ lục, thảo xong quân lệnh trạng cho Thung và Diệu ký tên rồi, Nhạc chi bảo cơ nghi tiến hành:
- Một người dẫn 200 quân...
- Chết nỗi, 200 quân thì đánh chác thế nào? Thung giựt mình, hỏi.
- Ồ! bằng ấy là nhiều lắm rồi; Nhạc mím cười và đáp. To đến như thành Quy Nhơn, mà đánh lấy nó cũng không cần tới bằng ấy quân kia mà! Rồi các ông xem tôi nói có thật không? Cứ nghe kế hoạch tôi dặn dò thì lấy được Càn Dương, Đạm Thủy như bỡn, có lẽ không phải đánh chác gì cả cũng nên. Mỗi người dẫn 200 thủ hạ, chặp tối nay lén đi rải rác theo đường tắt, đến ngoài thành Càn Dương và Đạm Thủy, tìm chỗ ẩn nấp kín đáo. Chờ tới đêm khuya, hễ trông về Quy Nhơn thấy đốt lửa làm hiệu, thì bấy giờ tất cả nổi dậy vừa tiến vào thành, vừa kêu cho to, hét cho lớn, làm như có mấy nghìn người vậy: “Bớ bà con! Bớ bà con!... Giặc Tây Sơn lấy mất Quy Nhơn rồi!.., Chúng nó đến kia kìa!.., Chạy mau kẻo chết!...” Tự nhiên binh triều đồn thủ trong thành phải kinh hoàng chạy ráo; dù có tốp nào chống cự, cũng chỉ vừa đánh vừa đào tẩu đấy thôi... Cốt nhất là sấn sổ tiến vào và kêu la cho lớn, sự thành công quan hệ ở đó... Rồi hai người phân binh giữ lấy thành trì kho tàng, đợi sáng hôm sau ta đến nghe chưa?
Diệu vẫn thản nhiên, trả lời đã nghe rõ; còn Thung thì hơi lo, vì nghe nói Càn Dương là đồn hiểm yếu nhất, binh triều thường đông nhiều, mà vô phúc cho mình lại gắp thăm trúng nó.
Thung lại sốt ruột, vì không nghe Nhạc nói gì đến sự đánh Quy Nhơn, chỉ thấy phân phát mình và Diệu đi lấy hai thành ở phía ngoài, cho nên muốn ở lại giây lát để hỏi cho rõ hắc bạch. Vả lại, Thung nghĩ bây giờ mới có xế trưa, công việc mình nhận làm, phải đợi chặp tối mới dẫn binh đi kia. Nhạc trông thấy, hỏi:
- Sao ông chưa về trại điểm binh và dự bị các thứ sẵn sàng?
- Tôi còn muốn lưu lại để xem quan Tiết chế điều độ việc đánh lấy Quy Nhơn ra thế nào? Thung trả lời.
Nhạc biến sắc, vì nghe những tiếng “để xem quan Tiết chế điều độ việc đánh lấy Quy Nhơn ra thế nào?”. Trong ý cho Thung nói thế là khinh mạn chủ tướng và nghi ngờ cả mưu lược tài năng của mình, là Nhạc, mà tướng sĩ đã tôn lên làm đầu. Ông muốn giết Thung ngay, nhưng chợt nghĩ lại hắn ta là người đồng chí buổi đầu, cho nên đành tạm nén giận, chờ mai sau có tội sẽ trừ đi cũng không phải muộn. Bởi vậy, ông cố hòa nhã sắc mặt và cười nói vui vẻ:
- À! Ông muốn chứng kiến tôi cắt đặt công việc đánh thành Quy Nhơn ư? Được lắm!... Ông xem tôi đã đóng sẵn cái cũi để nhốt tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên kia kìa?
Lúc ấy, lính vừa khiêng chiếc cũi đóng xong, đặt ở trước thềm.
Nội chư tướng không ai hiểu Nhạc dụng ý thế nào, trừ ra hai ba người đã lĩnh mật kế.
Cùng như đã dặn dò Thung và Diệu ban nãy, Nhạc truyền cho Huệ cùng hai viên phó tướng dẫn 100 quân cảm tử, giả làm dân buôn bán, nhưng trong bồ trong thúng đựng toàn gươm đao cùng các vật liệu dẫn hỏa, độ gần nửa đêm, lục tục kéo đến trước cửa thành, làm như thường dân chăm chỉ buôn bán chầu chực gà gáy hai dạo thì lính mở cửa thành cho mà vào vậy. Tuy nhiên, đêm nay họ sẽ thấy khác hẳn thường lệ: độ già nửa đêm, thấy cửa thành mở toang ra và có hiệu pháo, thì cứ việc xông vào, một mặt đốt lửa cháy bùng nhiều nơi, một mặt chia nhau đánh phá các dinh thự, kho trại; cũng phải vừa đánh vừa hò hét cho lớn, để đoạt hết khí phách binh triều, tự nhiên tan vỡ tẩu tán.
- Bẩm quan Tiết chế: người lĩnh trách nhiệm mở cửa thành cho quân ta vào, là ai? Thung hỏi có giọng thắc mắc.
- Thì tôi đây chứ còn ai? Nhạc trả lời rắn rỏi.
- Nhưng ngài phải làm sao vào thành trước để nửa đêm mở cổng cho quân ta tiến công chứ?
- Điều ấy cố nhiên!,.. Nhưng đó là việc quân cơ bí mật, về sau tự khắc các ông biết, giờ không thế nói trước. Chỉ biết rằng hiện tại ai có phận sự nấy phải lo, dù mạo hiểm hy sinh mấy cũng phải chịu... Tôi đã nói rằng tôi xin mạo hiểm hy sinh trước cả các ông, vì các ông đến chặp tối mới tiến binh, còn tôi thì tôi phải đi ra trận ngay bây giờ...
Nhạc nói đoạn tất tả vào hậu đường, giây lát trở ra với y phục bộ dạng khiến cho mọi người ngơ ngác, khó hiểu. Chủ tướng nói rằng phải đi trước ra trận ngay bây giờ, mà không mặc giáp trụ, không mang khí giới gì cả, trái lại, vấn khăn đầu rìu, áo cộc rách tả tơi, với chiếc quần thượng đẳng cháo lòng, trông rất ghê tởm.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, chưa hiểu ra sao, bỗng thấy Nhạc đứng dậy đi và nói:
- Thôi, các ông ở lại đi sau, việc tôi cần kíp, vậy xin đi trước, nghe!
- Quân đâu? Dắt ngựa ra cho quan Tiết chế? một viên tiểu tướng nhanh nhảu truyền lệnh.
Nhạc khoát tay ra hiệu bảo thôi:
- Không! Tôi không cần voi ngựa gì cả!
Thế rồi, trước vẻ kinh ngạc vô cùng của tướng sĩ, ông ung dung đi xuống thềm, chui vào ngồi bó gối trong cũi, và truyền mệnh lệnh cho mười mấy người đang đứng chầu chực xung quanh:
- Khiêng ta lên phủ lỵ Quy Nhơn!... Đi cho mau!
Hơn một năm nay, quan quân khổ sở về việc đánh Tây Sơn, tổn hao vất vả mà không thu được công trạng gì cả. Nhất là quan quân ở phú lỵ Quy Nhơn, vì Tây Sơn là đất thuộc hạt. Triều đình đã bổ ông Nguyễn Khắc Tuyên, chức tuần phủ, vào làm tướng lưu thủ thành Quy Nhơn, là trông cậy việc trừ diệt Tây Sơn, vì ông có tiếng dũng mãnh, thiện chiến. Nhưng ông cũng chẳng thu được kết quả gì hơn hai viên tướng lưu thủ trước, đã bị triệt hồi.
Còn tệ hơn nữa, là dưới trách nhiệm ông, quân Tây Sơn lại tràn lan thế lực to thêm và rộng thêm; mỗi lần ông đem binh đi tiểu phủ, là một lần tước lấy con số tốn hao, tiếng tăm bại trận.
Quan trấn thủ Quảng Nam dinh (lúc bấy giờ Quy Nhơn thuộc về dinh Quảng Nam thống hạt) thường tư giấy trách móc và đe dọa đủ điều khiến ông cảm thấy khó chịu như ngồi trên đệm nhồi đinh; hơn nữa, như người đã trót cưỡi trên lưng cọp, không thể nhảy xuống được nữa.
Mỗi khi nghe ai nhắc đến tên Biện Nhạc - mà hàng ngày có dịp nghe nhắc đến không biết mấy lần - ông giựt mình thon thót. Đến đỗi chưa tối, ông đã bắt đóng hết các cổng thành và sai lính canh phòng rất nghiêm mật, chính ông đêm đêm phải thân hành đi tuần, chỉ sợ quân Tây Sơn đến đánh thì khổ to!
Luôn ba tháng nay ông truyền rao treo thưởng cho quân dân sĩ thứ khắp vùng, hễ ai bắt sống hoặc chặt đầu Biện Nhạc đem tới nộp ông, sẽ được thưởng 2 nghìn quan tiền và ông tâu xin triều đình đặc cách bổ làm ký lục hay khám lý một dinh trấn. Khoản tiền 2 nghìn quan ở đời bấy giờ là tư sản một nhà giàu khá! Số tiền to ấy không phải của triều đình, mà là tiền của ông, vì ông là con nhà cự phú. Muốn cho khỏi bị quan trên luôn luôn trách vấn, nhân thế lập công to với triều đình, cho nên ông không ngần ngại vác tiền túi ra treo món thưởng to ấy, để khuyến khích những người mộ danh hám lợi sẽ cày cục bắt được Biện Nhạc hộ ông.
Buổi trưa hôm ấy, lính phủ đã đem tin phong văn bởi những bá tính đi chợ búa, đồn rầm lên rằng Biện Nhạc đã bị bắt hồi sáng; ông Nguyễn Khắc Tuyên khấp khởi mừng thầm, nhưng cũng còn bán nghi bán tín. Ông sai hai ba thủ hạ cưỡi ngựa đi thăm dò tin tức, chốc lát họ trở về đều bấm như nhau: Biện Nhạc quả bị quân dân ở Phù Ly lập kế bắt sống được ở một làng gần huyện lỵ, hiện đang giải lên phủ, chỉ nội buổi chiều đến nơi.
Giờ mùi, ông ra công đường ngồi chưa nóng chỗ, bỗng có tên lính từ ngoài cổng phủ, hớt hải chạy vào, vừa nói vừa thở:
- Bẩm... Bẩm quan lớn, hương lý và tuần đinh phường Đông An đóng cũi Biện Nhạc, giải đến phú rồi!
Mừng quá, ông nhảy đứng lên, hất đổ cả điếu tráp và khay nước trà Tàu mới pha chưa uống, không kịp xỏ chân vào giày, chạy hộc tốc ra ngoài công phủ lúc ấy, bọn người gọi là hương lý và tuần đinh phường Đông an (huyện Phủ Ly), kẻ khiêng cũi, người áp giải, lố nhố, đến mươi người, vừa vặn đến nơi. Sáu người áp giải, bộ dạng ra phết. Thầy lý và hương tuần trong tay đều cầm dao quắm, dáo mác, đế phòng bất trắc. Trông thấy quan phủ chạy ra, ai nấy vội vàng ngả nón, chắp tay vái chào sát đất.
Quan chạy lại bên cũi, nhìn vào trong rất kỹ lưỡng, rồi nổ cười như pháo:
- Ừ, thằng này chính phải Biện Nhạc đây mà!... Mi còn trốn lánh làm giặc nữa thôi?
- Bẩm lạy quan lớn, chúng con hết thời và biết tội nhiều lắm! Nhạc ngồi trong cũi làm bộ sợ sệt, trật khăn đầu rìu xuống, chắp tay vái lạy quan phủ và nói rất mực cung kính - Trăm sự nhờ quan lớn thương tình châm chước cho chúng con, được phận nào hay phận ấy.
- Tội mi dù có mấy đầu lâu, chết chém cũng vừa, chứ châm chước gì? Ông Tuyên bĩu môi trả lời Nhạc, rồi day lại hỏi bọn áp giải. À, thầy lý và mấy cha trương tuần giỏi lắm, ta khen cho; làm sao mà bắt được nó thế?
- Bẩm cụ lớn (người mặc áo địa, đội nón lông, tự nhận là thầy lý, chắp tay và nói),.. Bẩm cụ lớn, nhân thấycụ lớn hết lòng vì dân, trao thưởng rất hậu, anh em con vì phận sự mà cũng vì ham danh vụ lợi, bàn nhau đánh lừa Biện Nhạc vào phường chúng con, rồi chúng con bố vây, bắt được cả mấy thầy trò nó...
- Ủa, còn mấy đứa nữa kia ư, sao không giải lên một thể? Quan phủ hỏi.
- Bẩm vâng, còn bốn đứa thủ hạ nữa; thầy lý đáp. Nhưng trong lúc thảng thốt, anh em không kịp đóng cũi mà giải lên một lần, cốt giải tên thủ phạm lên trước. Còn bốn đứa kia hiện giam ở trong làng, canh giữ rất kỹ, xin để ngày mai giải nốt!... Bẩm cụ lớn, thày trò nó giỏi võ quá, trai tráng làng con họp lại bốn năm chục người, tử trận và bị thương đến ngoài chục mới bắt nổi thầy trò nó...
- Có thế, càng tỏ ra các người xứng đáng món tiền thưởng ta treo, và rồi xứng đáng chức vị triều đình sẽ ban cho, quan phủ vỗ vai thầy lý và nói. Thôi, bây giờ các ngươi khiêng cũi vào trại giam và ở chơi đây một đêm, ta khao thưởng cho. Công lao các ngươi đáng khen vô cùng!...
Nói đoạn, ông Tuyên đi kèm bên cũi, đưa vào trại giam, cắt hai chục tên lính canh phòng cẩn mật; lại truyền để riêng một gian buồng cạnh đó làm chỗ nghỉ ngơi cho bọn áp giải, và dặn lính hầu đối đãi họ tử tế.
Trở về công đường, ông trò chuyện rốt rít với nha lại, tỏ ý vui mừng vô hạn, vì trong trí ông cầm chắc, với sự bắt được Biện Nhạc, chẳng những từ nay nha lại binh lính ở thành Quy Nhơn có thể ăn ngon ngủ yên, mà về phần ông thì thăng quan tiến chức đến nơi. Cái gì chứ tổng trấn một dinh là việc nắm lỏng trong tay; đã có công to thế, lại thêm ít vàng bạc hối lộ Quốc phó Trương Thúc Loan, thì muốn nhảy một bước dài, về làm quan triều cũng được.
Ông khoa chân múa tay, nói cười hể hởi, gọi bọn hương lý tuần tráng phường Đông An lên lĩnh món tiền thưởng đã hứa, bảo họ ở lại dự tiệc khao quân tối nay; rồi truyền lệnh giục giã tất cả bộc dịch trong phủ, người thì mổ lợn vật bò làm tiệc, người thì phi ngựa đi đón phường tuồng hay nhất về phủ hát mừng. Ông nói tíu tít:
-Ta khao thưởng tất cả nha lại lính tráng một bữa thật hể hả say sưa... Ai uống được bao nhiêu, cho uống. Hứ, đời người được mấy găng tay, tội gì có dịp đáng khoái lạc thế này lại không tận hưởng cho thích!
- Bẩm quan, việc phòng bị vẫn nên cẩn mật; một viên thơ lại nói. Đồ đảng chúng nó có thể đánh thành cướp tù không chừng.
- Hừ, ngày mai thì giải tù đi ra kinh, lo gì? Ông Tuyên hất hàm và đáp. Vả lại, bên giặc có Biện Nhạc bày mưu lập kế mới đáng sợ; bây giờ bắt được thằng quỷ quái này rồi thì chúng nó chỉ còn là cái xác không hồn, muốn chôn lúc nào được lúc ấy... Nhưng đấy là chuyện ngày mai, hôm nay thì ta bảo đảm cho các ngươi cứ việc đánh chén thật say rồi trùm chăn ngủ kỹ.
Chiều tối hôm ấy, trong dinh quan ngoài trại lính, cỗ bàn linh đình; cứ bốn năm người một mâm, rượu ngon đồ nhắm tốt, người nào người nấy ngất ngưởng đánh chén, rất mực thống khoái.
Quan phủ vừa cầm chầu hát bội vừa uống rượu gật gù, vẻ tự kiêu tự đắc của ngài hiện ra từ cái nụ cười, ngón tay vuốt râu cho đến tiếng gọi quân hầu châm điếu. Thâm tâm ngài tự cho mình bắt được Biện Nhạc ngày nay, đối với quốc gia cũng có đại công như Hưng Đạo Vương dẹp giặc Nguyên hay Lê Thái Tổ bình định quân Minh, khôi phục xã tắc vậy.
Trong lúc đó, ở trại giam Biện Nhạc, bọn người áp giải, gọi là hương lý tuần tráng phường Đông An, hiệp với các thầy cai đội và lính canh, ngồi quây quần nhau sáu bảy mâm cỗ, chén chú chén anh, uống rượu hình như uống nước.
Bọn áp giải lại khéo nói chuyện ba hoa, thách đố các cậu lính uống thật say:
- Ô! Mấy khi dân làng với lính phủ được dịp họp nhau đánh chén vui vẻ như thế này?... Quan lớn đã ban cho, chúng ta cứ uống thả cửa, có chết cũng sướng đời.
- Uống rượu khi nào tới chết? Một cậu lính canh nói. Chỉ có say quá thì không ai gác tù cho!
- Các cậu cứ uống, có say thì chúng tôi canh gác hộ cho. Chính tay chúng tôi bắt sống đóng cũi Biện Nhạc giải lên cửa quan giam vào chỗ này, dù nó có ba đầu sáu tay, mọc lông mọc cánh, cũng không bay đi đàng nào được với chúng tôi!
Mấy thầy hương lý Đông An nói bè nhè và chuốc chén mời các cậu lính uống mãi. Đến cuối canh một, thì chén mâm bữa bãi, cả chủ lẫn khách ở trong trại giam đều say nằm ngổn ngang, như từng đống thịt mất hết tri giác. Có ba bốn cậu lính biết giữ gìn chức vụ, tự tin mình uống ít và tỉnh nhất thì cũng mắt hoa đom đóm, trông một người thành hai, đi thì chân nam đá chân chiêu, đến nỗi cầm khóa đi khóa buồng giam Biện Nhạc lại khóa trật ra ngoài.
Nhưng, sự thật, duy có chủ say, chứ khách chẳng say tí nào, hoặc khách chỉ giả đò say, như người giả chết bắt quạ vậy.
Nửa đêm, họ bấm nhau chỗi dậy, đi mở cũi cho Nhạc ra, trói ghì quân cánh lại, rồi chạy thẳng ra cổng thành đốt pháo làm hiệu, mở tung hai cửa cho binh Tây Sơn vào. Lúc ấy, lính gác thành môn cũng say mềm, không biết gì cả.
Nhạc, Huệ dẫn đầu toán quân cảm tử, hợp với bọn gọi là thần lý và thần đinh phường Đông An, đánh thốc vào đại dinh. Họ vừa đánh, vừa reo hò, vừa khua chiêng nổ pháo, vừa đốt lửa cháy lung tung, nhất thời làm rầm rĩ chấn động trong thành, quân dân không biết là giặc nhiều ít, chỉ có việc vờ lờ chạy trốn. Dân nghe giặc Tây Sơn vào thành là đủ khiếp vía, còn quân lính thì dở say, muốn đánh cũng chẳng đánh nổi.
- Thôi chết rồi! Ta mắc mưu thằng Biện Nhạc!
- Quan phủ Nguyễn Khắc Tuyên vẫn đang ngất ngưỡng cầm chầu hát bội, nghe tin cấp báo, chỉ vừa kịp tỉnh ngộ, nói câu tri bỉ tri kỳ ấy rồi bỏ chạy bán sống bán chết, thoát ra cửa hậu.
Nếu ngài không mau chân, tất bị Biện Nhạc nhốt vào cũi hắn còn ngồi ban nãy.
Không đầy một phần ba trống canh, toàn thành Quy Nhơn vô tay quân Tây Sơn chiếm lĩnh, dễ thường không tốn một giọt máu nào. Quá nửa đêm, cờ Tây Sơn phấp phới trên bốn cửa thành, và tiếng loa kế tiếp réo gọi bá tánh hồi gia yên nghiệp, vì quân Tây Sơn tơ hào vô phạm, cốt đến cứu dân.
Trước lúc đó, Trần Quang Diệu và 200 thủ hạ đã nấp sẵn ngoài đồn Đạm Thủy, nhìn thấy hiệu lửa ở phía Quy Nhơn, liền hô quân nhất tề sấn sổ đánh vào trong đồn, bắt sống được viên chủ tướng là Khâm sai Lượng, chém giết quá nửa binh triều trong cơn bất ngờ, mà thủ hạ mình chỉ có vài chục người tử thương.
Lấy xong Đạm Thủy, Diệu lên mặt thành trông sang Càn Dương (vì hai nơi gần nhau), vẫn thấy đuốc sáng lập lòe và nghe vẳng những tiếng reo hò dữ tợn, định chắc Nguyễn Thung đang phải giao chiến, chưa hạ được thành. Lập tức, Diệu đem một nửa quân chạy sang cứu viện.
Quả thật, Nguyễn Thung hành binh có hơi sai hiệu lệnh, khiến cho Đốc trưng Đang kíp gọi quân lính công ra cự chiến. Hai bên đánh sáp lá cà. Quân Đằng dùng rơm và đuốc tẩm dầu ném vãi như mưa, làm cho quân Thung chết cháy và bị thương đến quá nửa, tiếng kêu rên nghe thảm thiết. Thung toan rút tàn quân chạy trốn, bỗng thấy sau lưng quân Đằng xôn xao rối rít, lại nhận rõ tiếng reo hò là tiếng quân nhà, bèn liều chết đánh sấn tới, chuyển bại thành thắng. Thì ra Diệu đem cứu binh đến vừa kịp, đánh bọc phía sau binh triều một cách bất ngờ, bắt sống Đốc trưng Đằng và giúp Thung lấy được Càn Dương. Không có Diệu thì hẳn Thung phải bỏ chạy, tức thì quân Tây Sơn không chiếm được thành ấy theo như kế hoạch Nhạc định.
Bởi vậy, qua hôm sau Nhạc đến Đạm Thủy và Càn Dương để biên số tiền gạo quân mình đã lấy được, nhân dịp muốn hỏi tội làm sai tướng lệnh, chém Nguyễn Thung một lượt với bọn Khâm sai Lượng, Đốc trưng Đằng, may nhờ chư tướng xin hộ, Nhạc mới tha cho, nhưng hậm hực đe dọa:
- Nhà ngươi liệu hồn! Lần này ta hãy gửi cái đầu nhà ngươi ở trên cổ đấy, nếu sau còn vi phạm thì đừng có trách.
Lời nói giằn mặt ấy rồi trở nên thực sự, khi Nguyễn Thung lại trái tướng lệnh mà bại binh ở vùng Bình Thuận.
Nhưng đó là chuyện sau, giờ ta hãy biết Quy Nhơn, một nơi quân sự trọng yếu đã thành ra căn cứ vừng chãi của quân Tây Sơn, từ đấy họ dùng làm chỗ đạp chân mà đi ra, ngót ba chục năm hoành hành vô địch thiên hạ.
Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành chạy trốn về kinh lạy lục đút lót Trương Phúc Loan, kiếm chuyện nói gỡ tội rằng: trại giam có ma, ban đêm nó mở cũi cho Biện Nhạc thoát thân, rồi quân Tây Sơn nội ứng ngoại công mà hạ được thành, mặc dầu quan quân tử chiến - Thuở ấy người ta lấy chuyện cái cũi có ma làm một giai thoại. Nó không hạ chức hay buộc tội ông Tuyên chút nào, còn làm cho ông thăng thưởng là khác.