← Quay lại trang sách

- II - Cô Mười và chàng ăn mày lạ

Bẩm, bà lớn gọi con? Cô Mười tiến đến, lễ phép hỏi, dáng rất tự nhiên.

- À, chị Mười đấy ư?... Phải, tôi sai đi tìm chị lên có chút việc... Chị kéo cái ghế đẩu mà ngồi.

Bà lớn Đại đô đốc - tức là Thị Xuân, chúng ta đã biết - vừa nói vừa chăm chú nhìn sắc mặt cô Mười xem có lộ vẻ gì lo lắng sợ hãi không? Nhưng sắc mặt nàng vẫn tươi như hoa hồng mới nở, chẳng thấy biến thái gì tỏ ra lo sợ, lại còn có dáng vui vẻ là khác, hình như người mới có chuyện đắc ý âm thầm vậy.

- Không dám, bà lớn có việc gì sai bảo, con đứng hầu cũng được, đâu dám vô lễ! Cô Mười nói và đứng nguyên chỗ cũ.

- Chị cứ tự nhiên! Việc tôi cần dùng chị giúp, chị phải ngồi mới được... Cái ghế có sẵn kia kìa! Thị Xuân thúc giục.

- Thưa là việc gì, bà lớn cứ dạy cho biết.

- À, trước hết chị đi lấy giấy bút, giây lát trở lại; Thị Xuân niềm nở hỏi:

- Hình như chị Mười biết viết chữ đấy hỉ? Tôi nhớ như thế.

- Dạ, con biết võ vẽ gọi là thôi! Cô Mười trả lời, nét mặt bắt đầu sửng sốt, vì lần này mới nghe bà lớn hỏi đột ngột đến chuyện ấy là lần thứ nhất.

- Chị viết chữ nôm cũng được chớ?

- Bẩm bà lớn, chữ nôm thì con biết nhiều hơn chữ nho.

- Ồ! Vậy thì càng hay! Chị cứ viết chữ nôm giúp tôi, không cần viết bằng chữ nho... Đức Kim thượng ta chuộng chữ nôm hơn ngài đã hạ chiếu dùng toàn chữ nôm trong giấy tờ việc quan, cho đến tấu sớ cũng vậy; lại truyền lệnh cho quan trường ra đầu bài thi cử bằng chữ nôm. Sĩ tử làm bài cũng thế, không được dùng chữ nho nữa. Ý ngài muốn dân chúng học cho mau biết vả lại cổ nhân mình, đã đặt ra nôm là thứ chữ riêng, can gì không dùng, phải đi học mượn chữ Tàu mãi?

Nghe cô Mười nói những câu xét ra trung hậu, thành thực, khiến cho Thị Xuân phải suy nghĩ, trong mười phần có đến năm sáu tin rằng cô chắc vô tội. Nghĩa là cô đã vô tình thế nào, chứ không phải dụng tâm tư thông với đảng phản đối theo như ý nghĩ của nàng lúc đầu.

Tuy nhiên, còn có nhiều chỗ lù mù như đám khói đen che án trước mắt, nàng còn cần lấy quạt xét đoán thông minh để xua tan đám khói ấy đi cho được trông thấy ánh sáng hoàn toàn.

Nhữ Hùng là ai? Sao hôm nào cũng đến cổng phủ chầu chực xin cơm mà người đem cơm ra cho tất là cô Mười?

Bốn câu thơ trên miếng giấy kia là nghĩa thế nào? Có phải là ám hiệu chăng?

Ấy đó là những đám khói lù mù nàng đang muốn xua đuổi.

Bây giờ, nàng bước thẳng dần dần vào giữa màn bí mật để vén nó lên.

- Này, chị Mười ạ, chị không nghe nói lâu nay bọn phản đối thường sai người đến dò dẫm chung quanh phủ ta ư?

- Bẩm, không! Cô Mười trả lời. Việc đó thật con không nghe.

- Có đó, chị ạ! Đã hai ba bận, lính vệ sĩ bẩm tôi rằng cứ vào buổi chiều hôm nhá nhem, cách vài hôm lại có người cưỡi ngựa từ đâu lại không biết, đến ngồi lê la ở những hàng quán đối diện cổng sau phủ ta, gọi là nghỉ ngơi uống nước, nhưng xem ý là nghe lóng chuyện gẫu của người hàng phố, một chập lâu mới đi... Hình tích họ xem ra đáng ngờ!... Nhất là ở bâu áo dường như không có “Tín bài”. Chị nên biết lúc này ai không mang “Tín bài” theo lệnh triều đình, tức là kẻ phản đối... Tôi e hai người ấy là thủ hạ của bọn tiến sĩ, hương cống đang tụ tập ở dưới Hồng Lĩnh mưu mô khởi loạn gì đó. Sào huyệt bọn này tôi biết cả rồi, nay mai sẽ đem binh đi nã tróc!... Ấy thế mà vừa rồi chị ngỏ ý tin tưởng rằng bản trấn bình an vô sự?...

- Vâng, con nói như vậy là nói chung cả đại thể! Cô Mười đáp. Hoặc giả cũng còn có ít nhiều kẻ bất bình, tụ họp chòm nhóm ở tận thâm sơn cùng cốc, nhưng dám chắc không có lực lượng gì đáng kể. Bà lớn hà tất phải nhọc hơi tự dẫn binh đi, chỉ sai một tiểu đội đem dây thừng đi trói cổ điệu về lúc nào xong lúc ấy, chả cần phải lo.

- Tuy vậy, chúng cứ rình mò chung quanh phủ ta, không biết định giở trò trống gì?... Lại còn thằng ăn mày chiều nào cũng đến cổng sau xin cơm, hình như chiều nào chị cũng đem cơm bố thí đó!... Theo con mắt, chị là người thế nào?

- Bẩm.. Bẩm..., con nhận... nhận thấy là một người nghèo đi xin ăn, chứ không có gì là đáng... đáng nghi! Cô Mười trả lời hơi lúng túng, nhịu lưỡi, mà thần sắc cũng biến đổi, chứ không còn vẻ thản nhiên như trước.

- Làm sao chị biết chắc? Thị Xuân hỏi vặn lại, cặp mắt nhanh sáng như điện, không rời nét mặt cô Mười.

- Thưa, con thấy ngực áo có dính miếng vải “Tín bài” cho nên mới bố thí cơm thừa mỗi chiều.

- Ồ! Chị nghĩ “Tín bài” mà chắc à? Nó đeo “Tín bài” che mắt bề ngoài, nhưng bề trong cứ âm mưu phản đối, giả vờ ăn mày làm việc do thám, ai cấm?... Thằng ăn mày ấy tuy lam lũ mà gương mặt rắn rỏi, khôi ngô, hai mắt rất tinh anh, cho nên hình tích nó rất khá nghi...

Cô Mười cúi mặt làm thinh, Thị Xuân nói tiếp:

- Bởi thấy hình tích nó khả nghi quá, cho nên tôi đã hạ lệnh bắt giam lại rồi.

- Bà lớn đã bắt giam? Cô Mười hỏi mà hơi can mặt, tiếng nói run, Thị Xuân tinh ý nhận thấy cả.

- Ừ, bắt giam lại rồi! Thị Xuân đáp. Mà quái lạ, khám trong mình nó, thấy có mảnh giấy rách, trên viết bốn câu thơ, lại là chữ của chị mới kỳ!... Tôi độ chừng là chị vớ quanh lấy miếng giấy lộn, gói cơm đưa cho nó một buổi chiều nào đó... Có phải vậy không?

Cô Mười vẫn cúi gầm, không nói gì sắc mặt hồng hào bắt đầu tái nhợt.

Sự làm thinh tức là thú mình có tội. Huống chi, mặt bỗng tái đi, là nghĩa thế nào?

Thị Xuân bắt được thóp ấy càng đi riết tới, muốn chóng đến chỗ bắt buộc. Mười phải tự thú mình có tư thông với người đảng nghịch, vì sự làm thinh và tái mặt ấy nên nàng cầm chắc cô Mười quả có phạm vào tội lỗi mà ban nãy nàng đã thác gờ nghi tình cho già phần nửa.

- Thằng ấy tất phải chém đầu mới được! Thị Xuân nói giọng nghiêm nghị, hằn học. Nó là người Bắc Hà, chiều nào cũng đến cổng phụ ta xin ăn, mà thật là nghịch đảng giả trang ăn mày đến do thám binh tình, phải chém để lập uy cho bọn nó sợ! Tôi thương hại cho chị, có miếng giấy kia tất phải liên can. Vậy sự thực thế nào, chị cứ nói đi; nay mai quan về, tôi liệu năn nỉ với ngài châm chước dung thứ cho.

Tới đây, cô Mười ngước mắt lên, đầy hai hồ lệ, nhìn Thị Xuân mà thở dài.

- Ủa, chị này khóc à? Thị Xuân hỏi. Chị hối hận phải không? Con người ta lầm lỗi mà biết hối hận tự thú, là sự đáng khen!

- Bẩm bà lớn không? Cô Mười lau nước mắt và đáp. Con không làm điều gì lầm lỗi hay là mảy may trái với lương tâm mà phải hối hận. Con nghĩ thương giùm một người nghèo khó, nếu bà lớn chém người ta, tức là giết một tên dân thật là vô tội.

- Chị dám chắc nó vô tội?

- Vâng, con dám chắc như hai năm là mười. Vì con biết người ấy gia thế khá, chẳng qua gặp cảnh loạn ly mà phải lưu lạc vào đây, cơ nhỡ, đói khổ, bất đắc dĩ mà xin ăn qua ngày, chờ dịp xây dựng lại cuộc đời lương thiện, chứ không hề có ý phản nghịch gì cả...

- Sao chị biết rõ lắm thế?

- Thưa, người ấy chẳng những không phản nghịch bản triều, lại coi bọn phản nghịch như cừu thù là khác.

- Quái! Chị này hiểu cả tâm lý người ta đến thế kia à?

- Con không dám khoe mình hiểu tâm lý thiên hạ, nhưng đến tâm lý Nhữ Hùng thì con hiểu rõ như trông vào trong gương.

- Ồ, lại biết cả tên nữa?

- Cố nhiên, con phải biết cả tên chàng... Con biết chàng là người có gia thế, có học thức, có tài năng, chỉ vì hoạn nạn mà phải lưu lạc, cùng khốn... Con biết chàng không đồng ý với những kẻ phản nghịch bán triều... Sở dĩ con biết rõ như thế là vì...

Cô Mười nói đến đó, ngập ngừng rồi thôi, Thị Xuân hối thúc:

- Là vì... Là vì thế nào, chị Mười?

- Thưa, bà lớn, là vì người ăn mày ấy với con không phải người xa lạ... Chính là chồng con...

Cô Mười nói rồi òa lên khóc, gục mặt trên án thư, trong lòng xót xa cảm động quá, càng khóc càng thảm.

Thị Xuân sững sốt vô cùng. Nàng tiên đoán đủ cả, chỉ trừ có sự bất mãn lạ lùng ấy.

Chợt nhớ lại mảnh giấy viết bốn câu thơ còn để trong túi, nàng lấy ra xem, trong khi cô Mười khóc nức, khóc nở.

Tấc lòng quỳ hoắc âu trời biết

Giấc mộng gia hương cách núi xa

Thiếp dựa hầu mân, chàng lỡ bước

Bao giờ lại họp lứa đôi ta?

(đến số này - 125 năm 1945 thì đình bản vì CMT8)

Chú Thích

[1] Hoàng Đình Thể vốn là bộ tướng của Hoàng Ngũ Phúc, theo đại quân vào đánh Thuận Hóa từ trước, nhưng Ngũ Phúc có việc quân cơ đã sai ra Bắc cách sáu bảy tháng, nhân nghe tin Ngũ Phúc ốm nặng, chúa Trịnh vội sai Đình Thể trở vào Thuận Hóa.

[2] Kiêu binh: là lính ở hai xứ Thanh Hóa, Nghệ An có công giúp họ Trịnh phù Lê trung hưng và dựng nên nghiệp chúa... Nhưng sau họ cậy công nổi loạn, chém giết đại thần, nhân đó lịch sử gọi bọn là Kiêu binh.