Phần Thứ Hai - I - Bà lớn Đại đô đốc
Phủ Đại đô đốc xứ Nghệ An mới xây dựng xong ít lâu, quy mô rộng lớn: công đường, tư thất, cơ tào, binh trại, ngang dọc đến hai chục tòa nhà liền nhau, trông rất uy nghi hùng tráng. Cửa chính đối diện thành nội Phụng hoàng cũng mới kiến trúc toàn bằng đá ong; cổng sau tiếp giáp phố phường dân cư, suốt ngày đông đảo, vui vẻ.
Không ai đi ngang qua phủ mà không cố ý chậm bước lại, để nhìn những mái nhà kiểu mới, hoặc xem quân gia, các thầy tớ thuộc, cùng là nội nhân trong phủ đi ra đi vào tấp nập. Phủ này có đủ vẻ làm đại biểu cho tất cả triều đại mới lên, uy quyền mới đặt, nhân vật mới nổi, chẳng trách thiên hạ tò mò dòm ngó.
Bởi vậy, nhất cử nhất động trong phủ, thường khó lọt qua tai mắt phường phố và người qua đường.
Sau phủ, cách xa cổng cái độ mươi thước, có một cửa nách nhỏ, khuất một góc tường và cây đa to che lắp; lại đóng kín mít đêm ngày, không mấy khi thấy mở đến, hầu như một cửa vô dụng vậy.
Nhưng luôn năm sáu hôm nay, hàng phố nhận thấy có sự lạ ở ngay cửa ấy.
Hôm nào cũng thế, vào lúc chiều hôm chạng vạng, một người trông còn trai trẻ, chỉ độ ba mươi tuổi trở lại, đầu đội nón lá rách, quần áo lam lũ, vai khoác một cái bị, hình dáng nửa như ăn mày nhà nghề, nửa như hàn sĩ lỡ bước, từ đâu đến không biết, ngồi co ro dưới gốc cây đa, hai mắt chăm chú nhìn về phía cửa nách. Người này là người lạ, vì quanh đây có bao nhiêu ăn mày nhà nghề, thiên hạ đã nhẵn mặt cả.
Giây lát, cửa kẹt mở, một người ra tay cầm nắm cơm trao cho người lạ kia rồi quay gót trở vào, đóng cửa lại ngay, không nói không rằng gì hết. Người lạ cũng thế, nhận lấy nắm cơm rồi từ từ đi, chẳng cúi đầu chào hay nói một tiếng cám ơn.
Hai người như đã ước hẹn nhau mỗi ngày cứ khoảng giờ khắc ấy, thì người nọ đến chờ dưới gốc đa, người kia đem nắm cơm ra cho; rồi ai đi đàng nấy, không nghe trao đổi một tiếng nói bao giờ. Hay là họ trao đổi bằng giấy tờ bí mật với nhau thì không biết.
Hôm nào cũng như hôm nào, khiến những người phường phố bắt gặp thông luôn năm sáu lần, không khỏi cho là sự lạ, cùng nhau bàn tán dị nghị.
- Này, các anh có thấy không? Độ này cô Mười trong phủ nhân đức quá, chiều nào cũng cho kẻ khó một nắm cơm.
- Có, tôi cũng thấy thế... Nhưng người đàn bà ấy là cô Mười đấy à?
- Chứ còn ai!
- Tuyệt sắc nhỉ! Anh chàng ăn mày nào đó mỗi chiều được nhìn cái sắc đẹp âu cũng đủ no, chả cần ăn cơm.
- Lại còn phải nói! Ai có mắt mà không biết cô Mười là đẹp thì là kẻ mù; hoặc ngu dại không biết sự đẹp là gì.
- Cô là người thế nào ở trong phủ, các anh nhỉ?
- Người nói là ái thiếp, người bảo là con nuôi quan Đô đốc, chả biết thế nào... Chỉ biết rằng cô ở Bắc Hà mới vô chừng vài năm nay.
- Nhưng có một chỗ lạ đáo để, chả hiểu bà con có nhận thấy không?
- Chỗ lạ gì?
- Thử nghĩ xem!
- Xin chịu.
- Thế mà các bác hay khoe tinh mắt!...
- Này nhé, chiều nào cũng là kẻ khó ấy đến xin mà cũng là cô Mười đem cơm ra cho, như thế không phải là một việc lạ ư?
- Phải đấy, kể cũng lạ lùng. Làm sao cả ngày không thấy cô ta làm phúc thí cơm cho kẻ khó nào, chỉ đến chạng vạng mới thò mặt ra thí cơm cho một kẻ khó ấy thôi?
- Có lẽ nó là bà con họ hàng gì của cô ta, thất cơ lỡ vận, nên cô thương hại bố thí chăng?
- Hay là nhân tình của ả không chừng? Một người trong bọn vừa cười vừa nói.
- Bậy nà! Người khác cãi lại. Khi nào một người mặt hoa da ngọc như thế, lại tự tình với một kẻ ăn mày?... Tôi không thể tin ở đời có chuyện ấy được.
- Anh không tin mặc anh, chứ ở đời vẫn có con nhà giàu sang dòng dõi mà phải lòng một kẻ hàn nho cùng sĩ là sự thường thấy.
- Ừ, nói có lẽ!... Hai ba lần tôi nhìn giáp mặt kẻ khó ấy, trông có vẻ sáng sủa, lanh lợi, nhất là cặp mắt trung hậu mà đen nhánh; ý chừng là người cùng đồ lạc phách thế nào đó, quyết nhiên không phải ăn mày nhà nghề.
Mỗi người nói một câu, đưa ra một giả thuyết, chứng tỏ lòng dân hiếu kỳ, muốn dòm hành xem xét mỗi việc lạ xảy ra trong những nhà quý tộc quyền môn để làm trò cười với nhau, hoặc là phê bình, chỉ trích.
Cách dăm hôm sau, họ lại có dịp tụ họp trước tô nước chè xanh và chiếc điếu cày, rồi trở lại bàn tán chuyện cũ:
- Thế nào? Trong bọn ta có chú mô đi qua cổng phủ lúc nãy, vẫn thấy tấn tuồng cô nàng và kẻ khó còn diễn đấy chứ? Một người gọi chuyện và hỏi.
- Vãn trò rồi!... Vãn trò rồi, anh em ạ! Người kia đáp và cười ha hà.
- Sao thế?
- Không có kép chứ sao!
- Ồ! Chú này khéo nói giả ngộ hoài; chuyện thật thấy thế nào, kể rõ cho anh em nghe với?...
- Thì tôi nói không có kép, đào còn hát với ai!
- Đó, vẫn là chuyện bịt mắt bắt chim mãi!... Nghĩa là chiều nay anh đi qua, không thấy người lạ kia chờ cô Mười cho cơm nữa, có phải thế không?
- Có!... Có!... Tấn tuồng vẫn diễn hồi đầu như mọi khi, cũng đào ấy, kép ấy, nhưng qua đến hồi thứ hai thì khác...
- Khác thế nào?... Nói chuyện nhát gừng, làm người ta sốt cả ruột.
- Hồi thứ hai là hồi người lạ nhận xong nắm cơm rồi đi... Mọi lần anh chàng đi thẳng một mạch, bình yên vô sự... Nhưng mà lần này, chàng từ giã gốc đa lên đường, lủi thủi đi chừng mười lăm bước, thì hai chú lính nấp ở góc tường hồi nào không rõ, nhảy sổ tới cùng thộp ngực chàng mà điệu vào trong phủ...
- Trời ơi! Tội nghiệp người ta đói thì đi xin, có tội gì mà bắt?
- Nào ai biết tổ con chuồn chuồn? Tôi nghe giọng lưỡi của hai chú lính mà đoán, thì anh chàng nọ không cốt vì đói mà xin, không phải ăn mày gì đâu, chỉ là tay sai của các ông Cố Lê chư thần, đội lốt kẻ khó đến do thám binh lính trong phủ Đại đô đốc...
- Ừ, có lẽ thế thật!... Trông mặt anh chàng rõ ràng khôi ngô, tỉnh táo, chẳng ra vẻ đói khát đi xin tí nào!
- Khoan, để tôi nói hết rồi tự các anh suy xét thế nào tùy ý... Tôi nghe bọn lính nói cử chỉ anh chàng khả nghi, cho nên bà lớn truyền lệnh cho họ bắt đưa vào phủ xét hỏi...
Câu chuyện mấy người hàng phố nói với nhau trên đầu ghế một quán nước. Hai người khách lạ cưỡi ngựa ghé vào quán ngồi nghỉ từ nãy, vẫn lóng tai nghe chuyện, bây giờ một trong hai người cất tiếng, góp vào cuộc bàn phiến, hướng mặt về phía người hàng phố vừa mới nói xong:
- Chắc ông định nói quan lớn truyền lệnh bắt giải vào phủ xét hỏi, nhưng ông nhịu lưỡi ra nói bà lớn, phải không?
- Không, tôi nói bà lớn rõ ràng, chứ không phải nhịu lưỡi mà lầm đâu! Người hàng phố trả lời, tỏ ra mình nói chắc chắn và thạo chuyện thời thế.
- Sao lại bà lớn xét hỏi, thế thì quan lớn đâu? Người khách hỏi lại.
- Quan lớn đi vô kinh triều kiến chưa về; nhất thiết công việc quân cơ chính sự ở trấn ta đây, bà lớn thay mặt xử phân được cả.
- Vậy ư?... Thời thế đổi mới có khác, đúng như câu tục ngữ “gái ngoan là quan cho chồng”, các ông nhỉ? Người khách nói và đưa mắt nhìn bạn mình, hai người khẽ gật đầu, tỏ dấu hiệu riêng với nhau.
- Phải, cứ nói cho ngay, bà lớn này có tính cách dễ dãi, thân dân, lại giỏi cả võ nghệ, cưỡi ngựa chạy đi quanh thành như bay, không phải hạng bà lớn khệnh khạng, hách dịch như thời cũ... Nghe đâu cùng là một chiến tướng có nhiều công trận với bản triều.
Người ngồi bên cạnh, cùng bạn hàng phố với nhau, nói phụ thêm:
- Người anh em ta nói đúng sự thật đấy!... Hạng đàn bà ấy đáo để, chớ ai trên ghẹo vào mà khổ. Những ngữ có bắp thịt rắn rỏi như bà con mình đây, chưa chắc kham nổi một quả đấm. Chẳng thế mà một mình thay chồng phủ trị cả một trấn; các ông phản đối không dám nhóc nhách.
Hai người khách không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn nhau, trả tiền nước rồi lên ngựa đi.
Bọn ngồi lại trông theo, giây lát một người nói:
- Theo ý tôi, hai thằng cha vừa mới cưỡi ngựa đi, có lẽ đáng bắt hơn là chú ăn mày nọ... Các anh có để ý bâu áo của họ có mang “tín bài” gì đâu?
Trong lúc ấy, hai người lính dẫn chú ăn mày đến trước mặt bà lớn Đô đốc.
Thoạt tiên, bà nhìn với nét mặt giận dữ, nghiêm khắc. Nội người trong phủ đều tin thế nào chú nọ cũng bị tra tấn cực hình y như những kẻ tình nghi do thám bị bắt mấy lâu. Đến khi bảo lính khám xét trong bị và khắp người chú, ngoài bộ quần áo rách, không có vật gì khác hơn là một miếng giấy nhỏ viết bốn câu thơ; bà xem đi xem lại kỹ lưỡng, nhìn mãi nét chữ rồi thấy nhan sắc trở lại hòa nhã, hỏi chú ăn mày với giọng điềm tĩnh:
- Tên gì?
- Bẩm, tên là Nhữ Hùng.
- Năm nay bao nhiêu tuổi?
- Bẩm, đúng ba mươi.
- Quê ở Bắc Hà?
- Vâng, ở Sơn Nam hạ trấn.
Bà truyền cho lính đưa chú xuống ở tại trại giam, dặn dò đối đãi tử tế, rồi day lại gọi một thị nữ và nói:
- Cô Mười đâu? Đi tìm lại đây!
Đến chỗ này, độc giả tất đã nóng ruột muốn biết bà lớn Đề đốc là ai mà được người sở tại xem ra kính phục, và trước mặt kẻ tình nghi do thám, lại có thái độ đột ngột khó hiểu như thế?
Chúng ta đã nhảy qua bốn năm mấy tháng trên đường lịch sử tiến phát của Tây Sơn mà đến câu chuyện lạ này. Trong thời gian bốn năm mấy tháng ấy, nghĩa là từ tháng 5 năm Bính Ngọ (1786) đến đầu năm Canh Tuất (1790) cuộc diện nước ta đã thay đổi nhiều: hai chiếc ngai thế truyền hàng mấy trăm năm bỗng bị lật đổ, một người áo vải thứ hai tự khoác long cổn vào mình nhờ có những võ công oanh liệt chưa kể mấy vạn chú khách đem thân sang nhờ đất Việt Nam chôn vùi.
Giữa năm Bính Ngọ, chiếm được Phú Xuân rồi, Nguyễn Huệ nghe mưu cống Chỉnh, tiến binh thẳng ra Bắc Hà, diệt Trịnh phù Lê; nhân đó ông được gia phong là Bắc bình vương, nhưng bị Thái Đức hoàng đế nghi kỵ, anh em thành ra hiềm khích. Đến nỗi ông phải đem binh uy hiếp Quy Nhơn, khiến anh trèo lên mặt thành than thở nồi da xáo thịt, hạ mình năn nỉ mới thôi. Qua tháng mười một năm Mậu thân ông lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, kỷ nguyên Quang Trung, rồi kéo binh ra Bắc, phá tan mấy vạn quân Thanh, lập nên võ công oanh liệt nhất trong lịch sử nước ta. Nhất nhất đúng câu “nội huỵch vu tường, ngoại ngữ kỳ vũ ”, mà tôn sư giáo Hiến đã đoán số cho ông từ mười năm trước.
Từ Mậu Thân cho đến khi trấn Nghệ An có câu chuyện chúng tôi kể trong chương này, là năm Canh tuất, bản đồ Việt Nam phân ra Tam quốc rõ ràng.
Nguyễn vương Phúc Ánh như Hán trung vương Lưu Bị muốn khôi phục nhà Hán, đã chiếm được toàn cõi Gia Định làm căn bản mà dựng lên nước Thục. Nhờ dân tâm quy phục, nhờ có nhiều mưu thần võ tướng lại nhờ vì em Nguyễn Nhạc là Đông Định vương Nguyễn Lữ nhu nhược bất tài, cho nên Nguyễn vương Phúc Ánh mới lấy lại được Gia Định. Đại khái cũng như ngày xưa Lưu Chương, Trương Lỗ đều là kẻ ngu hèn, thành ra Đông, Tây Xuyên mới về tay Lưu Bị mà nước Thục dựng lên vậy,
Không khác gì Tôn Quyền nhờ công tạo lập của cha anh (Tôn Kiên và Tôn Sách) để lại cho mà được ung dung làm chủ đất Giang Đông, Nguyễn Nhạc ta lên ngôi Thái Đức hoàng đế, thống trị từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, tọa hưởng thái bình, cực điểm phú quý, phần nhiều là nhờ sức chiến đấu khó nhọc của hai em cùng chiến sĩ. Nhiều nhất là sức chiến đấu Nguyễn Huệ. Ấy là nước Ngô.
Còn Nguyễn Huệ thì hùng tài đại lược giống như Tào Tháo, vận dụng tài làm tất cả, không lúc nào nghỉ xuất thân chinh trải hơn mười năm, lập thành nước Ngô suốt từ đèo Hải Vân trở ra, qua Phú Xuân đến suốt cả Bắc Hà. Có người bảo rằng hậu thế vẫn trách họ Tào cướp đất nhà Hán, nghĩ thật là oan. Hồi ấy nhà Hán đã suy, quần hùng cát cứ mỗi người một nơi, không còn thuộc quyền của Hán giá ngự nữa. Họ Tào phải chịu xuất mưu cơ tài lực đi đánh đông, dẹp bắc hàng mấy chục năm, quét hết những lũ Lữ Bố, Viên Thiệu hàng mấy chục tay cường địch, mới lấy lại được những đất nhà Hán đã mất chủ quyền mà dựng lên nước Ngụy, có phải trỏ tay năm ngón, tự nhiên tọa hưởng đâu?
Nguyễn Huệ cũng vậy, không phải lấy Phú Xuân của chúa Nguyễn mà là đoạt lại trong tay họ Trịnh, vì quân Trịnh chiếm giữ Phú Xuân đã hơn 10 năm. Cũng không phải lấy Bắc Hà của vua Lê mà là đoạt lại trong tay quân Thanh; vì vua Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem đại binh sang, cốt thừa cơ chiếm lấy Bắc Hà làm quận huyện, chứ không thực tâm cứu vua Chiêu Thống! Huống chi Nguyễn Huệ đã một lần ra diệt trừ họ Trịnh, trả hết đất đai quyền hành lại cho vua Chiêu Thống, mà vua Chiêu Thống không biết gìn giữ?
Bởi thế, ta phải nhìn nhận cho ông rằng: từ Hải Vân ra suốt Bắc Hà mà ông cầm quyền thống trị với cái tôn hiệu Quang Trung hoàng đế, là do tài năng, tâm huyết của ông xây dựng lên; chẳng trách, có lẽ chư thần không muốn phục quyền thống trị ấy, ông được phép coi là ngoan dân, là kẻ thù, mà thẳng tay đàn áp.
Từ cái điểm ấy chúng ta sẽ đi tới bà lớn Đại đô đốc.
Sau khi đuổi xong quân Tàu rồi, vua Quang Trung đặt quan cai trị xứ Bắc rồi trở về Phủ Xuân là nơi đã chọn làm kinh đô bắt đầu sửa sang công việc toàn quốc.
Chúng ta hãy bỏ những chuyện ngoại không nói, để cùng nhau đi ngay đến câu chuyện cần biết là hơn.
Một hôm, xong buổi chầu, nhà vua cho mấy chục vị văn võ đại thần từng theo chinh chiến, như hạng Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Phạm Công Hưng, Trần Văn Kỷ, Nội Hầu Tử v.v... vào trong tiền điện hầu cơm. Ngài phán:
- Tiếc quá, cuộc vui ở đời thật có thú vị, thường không đem đến cho con người ta hai lần!... Ví dụ, ngày nay ta muốn cũng chẳng được cùng chư khanh ăn những bữa cơm thân mật, giản tiện như khi ở chiến trường. Là vì bức tường lễ nghĩa của ông thánh xây dựng kia phiền phức vô cùng... Dù ta có muốn dẹp tạm nó sang một bên, có lẽ chư khanh cũng thủ lễ, không ưng.
Đại thần cùng cúi đầu cảm tạ mấy lời nhà vua vừa nói, rồi quan Trung hư lệnh Trần Văn Kỷ tâu:
- Bệ hạ có lòng chí nhân, thương tưởng công thần mà phán dạy như vậy, chứ lễ nghĩa khi nào bỏ được. Thánh nhân đặt ra lễ nghĩa là để phân tôn ti, định trật tự; nước có giữ lễ nghĩa thì nước mới còn được lâu dài.
Vua Quang Trung mỉm cười.
Đoạn, vua tôi cùng ngồi vào tiệc. Đồng thời, ở trong nội điện, Tây cung hoàng hậu (bà vợ từ thuở hàn vi, sinh mẫu Thái tử Quang Toản) và Bắc cung hoàng hậu tức Ngọc Hân công chúa, con vua Lê Hiển tôn) cũng ban yến cho các bà mệnh phụ.
Nhà vua sai cung nữ luôn phiên chuốc rượu cho các quan uống thật say. Cung nữ đều trẻ măng, sắc đẹp, y phục tha thướt chế theo kiểu riêng, trông rất lạ mắt. Vua ngà ngà say, cười và nói:
- Ta cho phép các ngươi tha hồ mà uống đứt giải mũ!
Câu nói của vua Quang Trung nhắc lại điển cổ “Tuyệt anh Đại hội” ở đời Sở Trang vương, hồi Xuân Thu.
Nguyên là Sở Trang vương đi đánh trận toàn thắng trở về, mở tiệc thết đài bách quan, uống mãi tối mịt còn thấy cơn hứng bèn sai thắp đèn uống nữa. Lại sai Hứa Cơ là nàng hầu được yêu mến đệ nhất, ra rót rượu mời các quan. Một vị quan trông thấy nhan sắc Hứa Cơ mà thèm, nhân lúc gió thổi tắt phụt cả đèn trong tiệc, liền thò tay nắm lấy vạt áo Hứa Cơ. Nhanh trí, Hứa Cơ dằng đứt giải mũ của vị quan ấy rồi chạy lên bên Trang vương mà mách. Giá lúc bấy giờ thắp đèn mà tìm vị quan vô lễ nào đó thì ra ngay; nhưng Trang vương không làm thế. Ông suy nghĩ người ta chén say vào sinh cuồng hứng, là chuyện thường tình, ta không thể vì một người đàn bà mà làm mếch lòng hiền sĩ trong nước. Đoạn, ông truyền lệnh khoan thắp đèn và nói với các quan:
- Đêm nay quả nhân muốn cùng chư khanh uống thật say mới thôi, vậy ta cùng xé giải mũ vứt đi cho được thong thả mà uống rượu. Ai không làm thế là không tận tình mua vui với quả nhân.
Tức thời các quan làm theo lời vua dạy. Đến lúc thắp đèn trở lại, thì không còn biết ông quan nào mất giải mũ hầu tìm ra người đã ghẹo Hứa Cơ.
Nhân thế, bữa tiệc của Sở Trang vương, có tên là “Tuyệt anh đại hội”. Giờ vua Quang Trung cũng đài bách quan, cũng sai cung nữ ra chuốc rượu, bỗng nhớ lại câu chuyện lý thú đời xưa, ngài bảo các quan: “Trẫm cho phép chư khanh tha hồ uống đứt giải mũ”, khác nào là bảo: “Cung nữ xinh đẹp nhởn nhơ trước mắt đấy, chư khanh chén say, muốn níu áo con nào cứ việc!”. Nghĩa là vua Quang Trung muốn tỏ mình cũng có độ lượng như Sở Trang vương, biết quý người tài hơn là nhan sắc vậy.
Ngài lại khéo gợi chuyện vui hỏi các quan, nhưng tựu trung có ngụ một thâm ý:
- Con chim có biết nhớ sào huyệt nó không, chư khanh?
- Tâu Hoàng thượng, có! Thị trung ngự sử Nguyễn Văn Huấn đáp. Một con chim không nhớ ổ của nó, không phải là con chim.
- Giả tỉ người ta nhốt nó trong lồng son lâu ngày, rồi một đêm thả cho tự do, phỏng nó còn nhận được sào huyệt cũ mà về chăng?
- Bẩm, dù được người ta hoạn dưỡng sung sướng đến đâu mặc lòng, hễ có một phút tự do, là nó vỗ cánh bay thẳng về rừng rậm non xanh, quê quán sinh trưởng, không khi nào quên!
- Như thế đáng gọi là một lòng không vong bản, phải không?
- Dạ, chính thế. Hoàng thượng đã phán dạy không sai.
Nhà vua vui vẻ, đắc ý, nói tiếp theo câu chuyện:
- Ấy thế mà loài người có nhiều kẻ không biết nghĩ như loài chim... Ta nhớ mãi câu chuyện người ta đã kể năm nọ, về một lão quận công chi chi đây, - tức quá, quên bẵng mất tên, - gốc người Hoan Châu, ra Bắc Hà làm quan. Bố quận công, hai con tham tụng, rể tổng trấn, đều khéo nịnh hót chúa Trịnh,, thành ra uy danh phú quý chung đúc vào một nhà, khắp thành Thăng Long phải kiêng sợ. Tuy vậy người ta khinh bỉ thầm, là vì bố con nhà nó làm nên hiển hách rồi thì quên hẳn quê hương, bạc bẽo đối với thân tộc... Người ta cho bố con nhà nó vong bản, thế nào cũng chẳng được hưởng phúc lâu bền. Quả nhiên, không bao lâu thời thể thay đổi, nếu bình Tam Phủ nổi lên, cả nhà lão quận công vong bản đó đều gặp ác báo, kẻ thì mất chức, kẻ thì bị giết, gia tài đều bị mất sạch... Thiên hạ không thương hại chút nào, lại còn cho là một khoái sự.
Nghĩ một lát, nhà vua nói tiếp:
- Bởi vậy, ta nghĩ làm người phải biết nhớ gốc công như con phải biết có nhà, dân phải biết có nước; chư khanh nên theo ý đó của ta mà thời thường răn đe lẽ thứ.
Bấy giờ, ai nấy mới hiểu thâm ý nhà vua từ khi lên ngôi, lo ngay đến việc sửa sang trấn Nghệ An, tức là tỏ mình không vong bản. Hôm nay đem chuyện con chim nhớ ổ ra hỏi, là cốt cho chư thần hiểu rõ cái thâm ý đó.
Nhân tiện cuộc yến vừa xong, chư thần đứng dây vòng tay cùng nói:
Bệ hạ lấy đạo nhớ gốc làm bài học dạy bảo thần dân, thật là một điều phúc lớn của nhà nước.
Vua Quang Trung chỉ đưa tay lên, mỉm cười, không nói gì.
Thật thế, lúc đánh đuổi quân Thanh rồi từ Thăng Long đem binh khải ca trở về, qua trấn Nghệ An, vua ở lại mấy hôm, để bái yết tổ mộ ở Hưng Nguyên và chu cấp gạo vải cho bô lão bần dân trong hạt. Như ai nấy đã biết, anh em nhà Tây Sơn vốn họ Hồ gốc tích ở huyện Hưng Nguyên, xứ Nghệ, đồng tông với Hồ Quý Ly ở đời Trần. Giữa thế kỷ 17, chúa Trịnh và chúa Nguyễn đánh nhau, một người trong họ Hồ ấy tòng chinh bên hàng ngũ quân Trịnh, bị quân Nguyễn bắt làm tù binh, đưa về an trí ở ấp Tây Sơn trong Quy Nhơn, thành ra một chi họ Hồ ở đấy. Sau anh em khởi binh mới đổi ra họ Nguyễn, để hiệu triệu nhân tâm cho dễ. Vì nhớ tổ tích xa xôi như thế, cho nên vua Quang Trung mới ruổi xa giá về tới Hưng Nguyên, muốn tỏ cho thiên hạ biết mình phú quý không quên cố hương vậy.
Cử chỉ của nhà vua khiến cho dân chúng sở tại hết sức cảm động.
Và nhân đấy cả trấn Nghệ An được chú ý đặc biệt trong công cuộc sửa sang.
Vua thấy Nghệ An là đất ở chính giữa nước, lại là quê hương tiền nhân mình, bèn sai quan ra tận nơi giám đốc công việc xây dựng đền đài cung điện. Đá, gỗ, gạch, ngói, nhất nhất từ trong Phú Xuân tải ra.
Các thợ chuyên môn cũng vậy.
Dụng công hơn nữa, nhà vua cho lấy đá ong từ Đàng trong chở thuyền đem ra Nghệ An để xây vòng thành nội, đặt tên là “Phụng hoàng trung đô ”, để làm ly cung cho xa giá những khi có việc đi lại xứ Bắc.
Lúc đãi yến đại thần vừa kể trên đây là lúc “Phụng hoàng trung đô” xây dựng chưa được hoàn thành đúng theo sở nguyện, lại thêm có những tin mật báo về kinh luôn luôn quan hệ về chuyện Cố Lê chư thần rục rịch phản đối, càng ngày càng nhiều.
Vua Quang Trung đang băn khoăn lo nghĩ, cân nhắc, định chọn một người khác làm trấn thủ Nghệ An thay đô đốc Bảo mà tìm chưa ra; một người có vô lược đã đành, nhưng phải có tài chính trị nữa mới được. Vì sự đối phó với Cố Lê chư thần, không nên tiểu trừ bằng binh lực; dùng binh lực lại gây ra nội chiến làm khổ dân, ấy là một việc nhà vua không muốn tí nào; chỉ nên xử trí bằng cơ mưu làm sao vừa cương quyết vừa ôn hòa, khiến phe phản đối phải phục tòng, hay không quật cường được nữa, là điều quý hóa nhất. Đô đốc Bảo thô lỗ, chỉ giỏi chém giết, thế là người không hợp với tình thế xứ Nghệ, cho nên phải thay.
Nhưng người thay là ai bây giờ?
Cái dấu hỏi ấy hiện đang múa rối ở trong đầu óc nhà vua.
Sau cuộc ban yến đại thần, vua ngự về Bắc cung.
Bắc cung Hoàng hậu cùng vừa đãi các bà mệnh phụ xong, thấy cung nữ tâu có Ngài ngự đến, hớn hở chạy ra đón tiếp theo Lê. Vua Quang Trung tạm gác trí nghĩ quốc sự qua một bên, niềm nở hỏi chuyện:
- Tây cung Hoàng hậu đâu rồi?
- Bẩm, vừa mới ra ngự uyển! Bắc cung Hoàng hậu đáp. Chắc là chọn hái mấy thứ hoa đẹp, để dâng ngự án.
- Thế nào? Hôm nay hai Hậu ban yến cho mệnh phụ, họ đến có đông đủ không hử? Vua Quang Trung hỏi tiếp.
- Bẩm, đông lắm! Bắc cung Hoàng hậu đáp. Có lẽ đến bốn chục người.
- Những ai nào? Hậu thử kể cho ta nghe xem có đúng không?
- Tâu Ngài ngự, thiếp không biết mặt nhớ tên mỗi người, nhưng dễ thường đủ mặt các bà vợ đại thần trong triều... Có cả bà Đại đô đốc Trần Quang Diệu, tức là nữ tướng Bùi Thị Xuân, mà bình nhật Ngài ngự đã kể chuyện cho thiếp nghe là một tay bắn giỏi, đánh giặc giỏi lắm... Hôm nay thiếp được thấy người tận mắt: trẻ trung, xinh xắn, nói năng dịu dàng lịch thiệp đáo để. Nhưng xem bộ tịch cũng yếu đuối, lượt thượt, trói gà không chặt, bảo là người cử chỉ đoan trang, xứng đáng một bà mệnh phụ thì phải, chứ bảo là nữ tướng thì thiếp xin phép ngờ vực...
Bắc cung Hoàng hậu nói tới đó thì phá ra cười ngất, tỏ ra thật tình không tin Bùi Thị Xuân có thể vác nổi cái gậy tre - khoan nói gươm đao nặng nề - mà ra trận đánh giặc, như tiếng tăm đồn dậy bấy lâu.
Vua Quang Trung hiểu ý, để cho Bắc cung cười chán rồi kéo ngồi lại một bên, vuốt ve và nói:
- Hậu chớ xét người ở bề ngoài! Thị Xuân trông lượt thượt trói gà không chặt thế mà từng giết chết cọp và chặt đầu không biết bao nhiêu quân Trịnh đấy!
Bắc cung Hoàng hậu chưa kịp nói gì; bỗng một ý nghĩ chợt nảy ra trong trí nhà vua, thấy ngài tự vỗ trán, vui cười hể hả, lầm rầm tự nói những câu nhát gừng, dường như chẳng ăn nhập vào đâu, khiến cho Hoàng hậu ngẩn người, không hiểu gì cả:
- Ồ! Ta thấy rồi!... Vậy mà đi tìm mãi!... Té ra ở ngay trước mắt!... ừ, được lắm, được lắm!... Võ lược khác, thêm có tài năng chính trị!... Và lại, một người mà được cả hai!
Nhà vua nói đi nói lại mãi mấy câu trên, nét mặt hớn hở, nụ cười nở luôn trên môi... Rồi truyền gọi thượng khẩn một tên Thị vệ:
- Mau, mau cầm kim bài này đi với Đô đốc Diệu vô chầu lập tức!... Cho phép không bịt khăn, không áo thụng, hay là không mang cả giày nữa cũng được, miễn là vô chầu tức tốc, nghe!
Ngài vừa nói vừa cười và trao kim bài cho người Thị vệ.
Thị vệ phụng mệnh đi rồi, Hoàng hậu nghiêm trang, nói:
- Thần thiếp được chầu hầu đã mấy năm, chưa bao giờ thấy Ngài ngự có trạng thái buồn cười như hôm nay!... Thưa, có chuyện gì mà lạ thế?
- Ấy, nhờ ái khanh nhắc tới Bùi Thị Xuân mà ta chợt nghĩ ra một việc quốc gia chính sự có ích lợi đấy! Vua Quang Trung cười và đáp.
Giữa lúc ấy, Trần Quang Diệu theo chân Thị vệ vào chầu, khăn áo tề chỉnh. Vua chụp nói ngay:
- Trẫm cho khanh thăng chức Đại đô đốc, kể từ giây phút này.
- Đa tạ thánh ân! Quang Diệu cúi mình và đáp.
- Nhưng khanh phải thu xếp hành trang, để kịp lên đường nội ngày mai. Trẫm cho phép dùng chiếc tàu Hải Long của thủy sư mà đi cho được mau chóng.
- Hoàng thượng định sai hạ thần đi đâu? Quang Diệu hỏi với tất cả ý nghĩ lo sợ hồi hộp, tưởng chừng như mình sắp bị phóng trục vậy.
- Sai khanh ra trấn thủ Nghệ An.
- Bẩm, hiện có Đô đốc Bảo?
- Khanh sẽ mang thủ sắc ra trừu hắn về kinh cung chức. Tình hình rạo rực ở Hoan Châu, phải có một tay sắc sảo như khanh chế ngự mới được.
- Bẩm, xin lấy hai chữ ân và uy, châm chước thi hành, có được chăng?
- Được lắm! Đó là bản ý trẫm. Vì thế trẫm phó thác công việc xứ Nghệ cho khanh đảm đương.
- Thần xin phụng mạng! Nhân vì việc quan khẩn bách, thần về thu xếp ngay, kịp ngày mai một mình lên đường đáo nhậm.
- Một mình?
- Dạ, thần ra Nghệ một mình, để gia quyến ở lại kinh đô.
- Không thể được! Vua Quang Trung khoát tay và nói. Trẫm truyền cho khanh phải thu xếp cho cả gia quyến đi theo. Vì trong công việc phủ dụ dân tình, Xuân sẽ là một tay phụ tá khanh rất đắc lực!... Con người ấy đủ cả trí dũng, trẫm đã biết. Nhất là ba tháng, khanh phải về kinh diện tấu công việc một lần; vậy mỗi lần khanh vắng mặt ở trấn, tính ra nửa tháng là ít, không có người tin cẩn thân thiết như Xuân thay khanh đối phó mọi việc, thì làm thế nào?... Thế là trẫm phú thác trấn Nghệ cho một người mà tức là hai đấy!
Một lát, vua lại nói tiếp:
- Huống chi triều đình sửa soạn thi hành “Tín bàn” khắp các châu quận có lẽ ở xử Nghệ sẽ khó khăn trắc trở hơn các nơi, khanh liệu thi hành làm sao cho được chu đáo, khỏi phụ lòng trẫm tin cậy.
- Thần nguyện đem hết tâm lực để báo đáp ơn sâu tri ngộ của bệ hạ.
Quang Diệu bái tạ Quang Trung Hoàng đế cùng Hoàng hậu rồi đi ra, không dám kêu nài gì hơn nữa; vì xưa nay đã biết tính nhà vua thân yêu bày tôi, nhưng rất nghiêm nghị, thường hay độc đoán, hễ đã quyết định việc gì làm là làm, không để ai có thể can ngăn hoặc trái lệnh. Lúc bấy giờ Bùi Thị Xuân vừa mới ở cữ xong, trong ý Quang Diệu muốn để vợ con lưu lại kinh đô dưỡng sức, không thích cho theo mình đi xa; ngặt vì lệnh vua bắt buộc phải tuân, đủ muốn kêu nài cùng không dám nói.
Ba hôm sau, ở thành Nghệ An, đã có quan Trấn thủ mới, từ trong kinh đề huề ra nhận chức; ấy là Đại đô đốc Trần Quang Diệu và phu nhân Bùi Thị Xuân.
Ra đây, Thị Xuân đem hết khôn ngoan sẵn có và thiên tính mềm mỏng của người đàn bà, đối đãi với ai cũng được lòng. Nhất là người ta thấy nàng là một võ tướng, mà không hung bạo; tuy là bà lớn mà không hách dịch khệnh khạng như các bà lớn từ trước; lại thường có dịp thay chồng xử trí nhiều việc rất thích đáng, công bằng, thành ra tiếng đồn khắp địa phương, ai cũng kính nể.