Chương Mười
Sau cùng chúng tôi cũng trở lại được Saigon, trở lại căn nhà trong khu Mã Lạng, con hẻm hẹp hôi hám và nhớp nhúa.
Chuyến về thăm nhà của tôi để đưa người anh đến nơi an nghỉ sau cùng không ngờ là chuyến đi đầy nước mắt.
Khi đưa tôi lên xe đò, chị Thúc nói:
“Chú đừng buồn, không có chú, nó cũng lấy nhà tôi, nó nhắm lâu lắm rồi, trước sau gì nó cũng chiếm thôi.”
Tôi nghĩ là chị an ủi tôi. Quỳnh thì không nói năng chi. Suốt những ngày còn lại ở Nha Trang, cô bế con ra biển ngồi trên bờ cát nhìn màu xanh của trời và nước. Lần đầu tiên khi Quỳnh nói muốn đi biển, tôi theo cô thả bộ xuống bãi. Tôi chỉ cho Quỳnh biết những nơi ngày xưa tôi thường hay đến. Cây dừa này hình như lúc nào cũng vậy, không có vẻ gì như bị già đi vì năm tháng. Những lùm cây này cũng vậy hình như mới vừa hôm qua tôi chui vào trong đó núp trốn những thằng bạn học ở trường về réo gọi tên tôi vì bị thầy giáo nhắc trong lớp học. Nhà “dây thép” này thì có vẻ như nhỏ hơn, cọ đơn nữa. Nó đứng một mình. Xung quanh trống trơn không thấy nhà cửa cây cối nào để che đỡ. Sau lưng là biển. Trước mặt là con đường trải hắc ín vắng tanh. Tôi nói cho Quỳnh nghe những kỷ niệm của tôi về cái quán ăn mang tên Fregate, nơi tôi và Bouquet Odette chui dưới gậm bàn nhìn những người lớn nhảy nhót. Và bụi dương, cái khách sạn Hotel Beau Rivage này, trường hải quân, Cầu Ðá, hải học viện, Ðồng Ðế… chỗ nào tôi cũng thấy có chút dấu vết tôi… Quỳnh đã nghe tôi nói với một nỗi lạnh lùng mà trước đây chưa bao giờ tôi nhìn thấy. Những lần sau Quỳnh đi biển một mình. Tôi để cô tự do với thiên nhiên. Quỳnh nói đứng bên bờ biển tâm hồn mình rộng lượn hơn.
Cô trầm lặng suốt những ngày còn lại ở Nha Trang cho đến khi trở về. Chúng tôi như bị ngăn lại bởi một tấm màn voan mỏng. Tại sao? Tôi chưa hiểu. Tôi đi tìm ông Công. Tôi muốn xuống Bạc Liêu xem tình hình ra sao. Bác Ngô trước nhà cho biết ông Công có đến tìm tôi mấy lần. Có lẽ sắp có chuyến đi. Ông Công có hứa với tôi là bao giờ ông cho hai đứa con ông đi, ông sẽ dành cho gia đình tôi một chỗ thôi, số còn lại cứ đóng vàng tính theo đầu người.
Tôi ra quán cà phê vỉa hè trước nhà bà Luật Sư Ðại. Nơi đây tôi chắc chắn thế nào cũng sẽ gặp mấy “đệ tử” của ông Công. Nhưng khi đến nơi, tôi mới biết là không có đứa nào cả, mặc dù quán vẫn đông khách như thường lệ. Những người trẻ và cả những người sồn sồn mỗi người trước mặt một ly cà phê đang nói về những người khác hiện đã đến được bến bờ tự do. Một người kể chuyện tiếu lâm thời đại. Ông ta nói nhỏ cho vừa đủ mấy bàn nghe. Và cả đám cười. Những câu chuyện tôi đã từng được nghe, nhưng lần nào nghe lại cũng phải cười cay đắng. Mỗi lần tôi như thấy câu chuyện có thay đổi thêm bớt. cắt xén đôi chút… nhưng nội dung thì vẫn là một. Ðại khái một đoàn xe chở đám cán bộ cao cấp trong đó có Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng trên đường đi Long An, Gần tới cầu Bến Lức thì thấy một người nằm giữa đường xe không cách nào lách qua được. Công an áo vàng xách súng chạy tới, kể cả đám du kích đang gác cầu, dí súng vào đầu người đàn ông nằm giữa đường bắt tránh cho xe thủ tướng đi. Nhưng người kia sau khi ngước mắt lên nhìn mấy tên công an và đoàn xe, lại gục đầu xuống bám chặt chân tay lên mặt đường.
“Con người là vốn quý nhất! Phải trọng con người!” Thủ tướng thường dặn cán bộ công nhân viên như vậy. Không ai dám làm mạnh người nằm dưới đường kia. Sau cùng tên công an xếp sòng đến bên xe Phạm Văn Ðồng: “Báo cáo đồng chí thủ tướng, chúng tôi đã nói hết lời nhưng tên phản động kia không chịu đứng dậy đi. Xin đồng chí thủ tướng cho phép dùng “bạo lực cách mạng” để triệt tiêu bọn phản động dám ngăn cản con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của chúng ta.” Thủ Tướng Ðồng, sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, mở cửa xe bước ra, từ từ đến chỗ người đàn ông nằm. Và mọi người ngạc nhiên không hiểu thủ tướng nói gì mà người đàn ông vụt đứng dậy chạy một mạch băng qua ruộng, xuống dưới chân cầu, mất hút. Tên xếp sòng công an ngơ ngác. Sau khi mở cửa xe cho thủ tướng ngồi vào, hắn hỏi: “Báo cáo đồng chí thủ tướng, xin đồng chí thủ tướng cho biết đã nói gì khiến tên phản động phải bỏ chạy?” Thủ Tướng Ðồng ngó và mặt tên công an cười: “Tôi nói nếu anh không đứng dậy đi tôi coi như kể từ nay anh đã chính thức được kết nạp vào đảng cộng sản Việt Nam.”
Tôi ngồi nhâm nhi ly cà phê. Tôi nhớ lại mấy ngày ở Nha Trang. Cái chết của ông anh tôi. Bọn ruồi xanh ruồi vàng nhảy vào chiếm đoạt ngôi nhà của một người vừa mới nằm xuống. Chị dâu tôi và chữ ký trên tờ giấy viết sẵn của tên công an. Từ sau ngày mẹ tôi khuất núi, chị như một bà mẹ.
Tôi biết chị lo sợ tôi bị tù tội. Nếu không có chuyện tôi bị bọn công an bắt làm con tin, chắc gì chị đã chịu thua. Nhưng chị cứu tôi mà chị không nghĩ là chị còn ba đứa con đang nằm trong các trại cải tạo. Những giọt máu của chị đang sống trong cảnh tù đầy và bầy con nheo nhóc của chị đang chờ ăn từng bữa.
“Thưa thầy.”
Một người trẻ tuổi dựng vội chiếc xe đạp ở lề đường gọi chào tôi.
“Kiệt! Trời ơi, lâu dữ. Sao nghe nói em về dưới quê? Ngồi xuống đây!”
Kiệt kéo ghế ngồi cạnh tôi. Mới có mấy năm mà Kiệt đã lớn hẳn.
“Em ở dưới mới lên chừng tuần nay. Em vượt biên bị bắt ngã Mỹ Tho. Bị giam cả sáu tháng trời.”
“Rồi lên trên này em ở đâu?”
“Em ở nhà dì em, ở khu Nancy. Mà lâu nay thầy có vô trường không?”
“Không. Tại sao?”
“Em cũng không vô trường, nhưng đứa em con bà dì của em nói trường cũng đã thay đổi thêm mấy đợt. Nhiều thầy, cô đã xin nghỉ hoặc vượt biên. Ông Hiên hiệu trưởng cách mạng cũng thôi rồi, thấy có biết không?”
“Ông Hiên bị mất chức sao?” Tôi ngạc nhiên.
“Dạ không. Người ta nói ông Hiên đã đổi ngành xin làm công tác sở giáo dục quận.”
“Cô Loan dạy sử địa là em ông Hiên có chồng làm tới đại úy quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã vượt biên với cả nhà. Người ta nói ông Hiên che chở cho chồng cô Loan khai gian không học tập, bây giờ trốn luôn.”
“Thiệt vậy sao?”
“Ðó là người ta nói vậy. Chớ em thì em nghe bà dì em nói bà vợ ông Hiên mới đây đã tự tử. Thành ra ông
Hiên tuyệt vọng, không còn tha thiết cách mạng nữa.”
“Tự tử. Bà vợ ông Hiên tự tử?”
“Dạ, dì em nói bả tự tử vì bên thành ủy được bên công an báo cáo rằng trong thời gian ông Hiên bị tù Côn Ðảo, bà Hiên ra vô Tổng Nha Cảnh Sát khai báo điềm chỉ chỗ ở của cán bộ nằm vùng để mong cứu chồng ra sớm. Hồ sơ đó vẫn còn nguyên trong Tổng Nha nên bên công an nắm được. Bà Hiên nói đó là vu cáo. Và bà tự tử. Ông Hiên bị hạ tầng công tác.”
“Không thể hiểu nổi!”
Tôi nhớ lại cái hình ảnh Hiên gọi tôi vào văn phòng hiệu trưởng. Ðó là một người đàn ông trung niên gầy ốm xanh xao. Hiên có dáng đi của một người lúc nào cũng như sắp ngã. Ðôi mắt luôn luôn nhấp nháy như sợ ánh sáng. Bàn tay trái hay sờ lên lỗ tai. Hút thuốc nhiều và không biết cười. Hiên thuộc loại người có cái bề ngoài đau khổ. Tiếng nói nhỏ gần như mất hết sức sống. Ðiểm đặc biệt: y là người trầm tĩnh.
Tôi nhớ lời phê của Hiên trên tờ giấy xin nghỉ của tôi mà sau này vô tình hay cố ý Sự đã cho tôi một bản.
Hiên xem tôi là một người phóng đãng trong một xã hội đồi trụy và phản động. Phóng đãng không phải là phóng khoáng. Tôi hiểu điều đó.
“Hạ tầng công tác?” như vậy là hạ tầng công tác sao?
Phóng khoáng hay phóng đãng, trắng hay đen, rốt cuộc rồi cũng vậy thôi.
“Chừng nào Kiệt về dưới?”
“Thưa thầy, cuối tháng.”
“Em có tính đi nữa không?”
Kiệt mở to mắt nhìn tôi dò hỏi. Ði hay ở là chuyện bình thường của người Sài Gòn. Vấn đề là có nên nói thật chuyện này với người đối diện hay không mới là điều đáng suy nghĩ. Bất cứ thứ gì ở Sài Gòn lúc này cũng có thể xảy ra. Người ta yêu nhau vội vàng, sống vội vàng, giành giựt vội vàng… Người ta tố nhau, lường gạt nhau, đâm chém nhau… chỉ vì một lý do rất tầm thường. Người ta sống như thể chút nữa đây người ta không còn có mặt trên cõi đời này. Những lời trăn -> trăng trối không nói ra nhưng ai cũng hiểu.
“Thưa thầy,” Kiệt hơi ngần ngừ, “em có chuyến đi vào cuối tháng, ngõ Rạch Sỏi, Thầy có muốn đi với em không?”
“Tôi cũng đang tính. Một người quen hứa cho một chỗ. Ngã Bạc Liêu. Nhưng mấy hôm nay không gặp ông ta. Ðiều kiện trong chuyến đi của Kiệt ra sao?”
“Em nghĩ là em có thể dành cho thầy một chỗ được. Nếu cô và em bé cùng đi thì em có thể bàn với chủ ghe. Có thể không đòi hỏi gì thêm đâu. Em bảo đảm mà!”
Kiệt ngập ngừng bưng ly cà phê lên uống ực một hơi như uống nước lạnh.
“Có lẽ em phải đi mua thêm mấy thứ lặt vặt. Thầy suy nghĩ. Chủ nhật em sẽ đến nhà thầy.”
Kiệt đứng dậy. Tôi đưa tay bắt. Kiệt nói đúng. Tôi cần phải suy nghĩ giữa hai chuyến đi. Ông Công hay Kiệt? Tôi sẽ lựa chọn nơi nào tôi tin hơn cả, và tất nhiên là phải rẻ hơn. Chuyến đi Nha Trang, Quỳnh đã mất hết mấy chỉ vàng phụ giúp cho chị Thúc. Quỳnh và tôi cũng đã thăm nuôi ông ngoại của con tôi. Ông gầy hẳn, da xanh mướt. Tôi ít có dịp gặp gỡ và nói chuyện với ba của Quỳnh. Trước khi lấy nhau đã thế, sau ngày lấy nhau tôi càng ít gặp ông hơn. Có vẻ như ông không ưa tôi. Phần tôi, tôi cũng không mặn mòi gì với ông lắm. Nhiều khi tôi tự hỏi là tôi có biết rằng mình có một gia đình và Quỳnh cũng đang có một gia đình không. Có chớ. Tôi có chữ trả lời, nhưng không có ý nghĩ trả lời. Tôi tự xa lánh mọi người trong ý nghĩ của mình. Kiểm điểm lại tôi thấy hình như mình luôn luôn sai trong mọi quyết định. Thành ra như một cách tự biện hộ tôi cứ để cho mọi việc lấp lửng. Thế mà hay! Không quyết định thì không bị sai gì cả.
Tôi cứ nghĩ lan man như thế vì không biết mình sẽ làm gì cho hết ngày hôm nay. Cà phê đâu có ngon lành gì. Chỗ ngồi tuy thoáng mát, nhưng cũng đâu có an toàn.
“Không nơi ẩn nấp.” Tôi bật cười khi nhớ tới tên cuốn tiểu thuyết của Hà Nội in hiện đang bày bán ở các tiệm sách. Ðể giết thì giờ trong những ngày theo ông Công đi công trường Bạc Liêu, thỉnh thoảng tôi có mua một số tiểu thuyết mới của Hà Nội in. Nói chung cuốn nào cũng như cuốn nấy, giống như thuốc lá hiệu Phù Ðổng vậy, giấy vấn và cọng thuốc rời rạc, bập một hơi đã thấy trống rỗng.
Tiểu thuyết quanh đi quẩn lại chỉ khai thác rặt đề tài “Chống Mỹ Cứu Nước,” đến như Nguyễn Tuân, tác giả Vang Bóng Một Thời, Chùa Ðàn, mà cũng chỉ viết được “Hà Nội Ta Bắn Mỹ Giỏi”… Thơ tình thì không mấy khi gặp được một bài hay trên báo. Nếu có thì đó là thứ thơ tình chiến đấu. Chỗ nào cũng vậy:
Chiến đấu! Chiến đấu! Và chiến đấu! Thơ văn đầy sắt, thép và máu. Tôi có cảm tưởng như nếu đem toàn bộ đống thơ văn ấy mà giũ xuống thế nào cũng làm được vô số súng ống xe pháo tàu chiến… “Ê, Thăng.
Chờ ai vậy?”
Tâm “khô khốc Thiền Sư” kéo ghế ngồi cạnh tôi.
“Ông đến hồi nào mà tôi không biết?”
“Tao ngồi đằng kia. Mày đi đâu biến mất cả tuần nay?”
“Tao đi Nha Trang.”
“À, à, tao nhớ rồi. Ông anh mày bệnh phải không?”
“Phải. Nhưng mà xong rồi. Chỉ có người sống là không khá thôi.”
Tâm không nói. Anh cúi xuống, cầm cái muỗng quậy quậy ly cà phê của tôi. Tôi chợt nhận ra khi mình nói về cái chết của anh Thúc vô tình đã làm Tâm nhớ lại sự ra đi không vọng lại chút tăm hơi nào của vợ con anh.
Một lúc, Tâm ngẩng đầu lên:
“Tao ngồi đằng kia với đám thằng Ðình. Tao vừa viết xong một truyện ngắn.”
“Mày viết truyện? Ðăng ở đâu? Ở đâu đăng truyện mày?”
Tôi ngạc nhiên thật sự. Một phần vì Tâm trước đây là tay chuyên viết phê bình văn học chớ không phải là tay sáng tác; phần nữa báo chí của chế độ cộng sản Hà Nội vốn là một công cụ của chính quyền, đâu phải ai cũng viết mà đăng được. Ai viết? Viết cái gì? Ðó là những câu hỏi cửa ải, coi vậy mà khó qua nổi.
“Mày không hiểu gì hết. Tao viết trong đầu tao chớ đâu phải viết ra giấy. Ðứa nào muốn biết thì tao kể cho nghe, chớ khỏi đọc. Mày muốn biết không?”
“Thì cứ kể nghe coi!”
“Uống cà phê mà kể chuyện thì chán chết. Tụi mình tới quán Cây Lý lai rai đi. Tao mới bán được mấy trăm cuốn sách.”
“Mày kêu thằng Ðình đi luôn thể.” Tôi nhắc.
“Không. Thằng Ðình chỉ cà phê thôi. Rượu là không có nó. Mày quên rồi sao?”
Quán nhỏ, kê chừng bốn cái bàn thấp. Tất cả dựa lưng vào vách. Sàn nhà gạch, nhưng mặt vách bẩn. Khách ngồi chật. Tâm đi thẳng vào bên trong tự nhiên như người nhà, bê ra một chiếc bàn nhỏ.
“Mày lấy ghế đi!” Tâm chỉ tôi một chồng ghế ở sát chân quầy.
“Sao mày rành chỗ này quá vậy?”
“Thì ngày nào không đóng góp với chủ nhà này mà không rành.”
“Mày với thằng Ðình mà bỏ đi thì quán Cái Chùa coi như Chùa Bà Ðanh rồi còn gì!”
Tâm không trả lời. Tôi nhìn bạn. Trước kia Tâm vốn đã xanh xao gầy nhom gầy nhách. Giờ đây anh còn tệ hơn nữa. Mặt sạm đen. Hai con mắt sâu. Mái tóc xơ xác. Những ngón tay gầy khẳng khiu. Quần áo nhớp nhúa tả tơi. Người chủ quán mang ra hai xị rượu, hai cái ly, một dĩa òng và nước chấm.
“Ông uống với tụi này một ly!” Tâm mời người chủ giọng thành thực.
“Tôi làm mấy trận rồi ông ơi. Cha nào tới đây cũng bắt tôi làm một ly. Sức đâu mà uống. Thôi cám ơn. Bữa nào tôi đóng cửa tiệm nhậu riêng với ông một bữa…”
“Rượu bất khả ép!” Tôi nói.
“Thằng cha này tên Thăng. Nó là bạn thân của tôi. Còn ông này là ông Cường, chủ quán.”
Tôi bắt tay người đàn ông.
“In hình tôi đã gặp ông ở đâu một lần rồi.” Người chủ quán nói.
“Tôi cũng vậy. Anh trông quen lắm. Chắc là mình có gặp nhau ở đâu rồi.”
“Ê, ông chủ, cho mấy xị nữa coi!”
Tiếng một người khách gọi. Người đàn ông cầm tay tôi lắc lắc.
“Xin lỗi! Xin lỗi!”
Và ông ta quay vào nhà trong lấy rượu.
“Tay này uống dữ lắm!” Tâm giới thiệu.
“Bằng mày không?”
“Tao thì nhằm nhò gì. Cỡ Tạ Ký, Lê Tấn Lộc chớ không phải tay vừa đâu.”
“Mày nhắc tao mới nhớ. Thằng Lộc bây giờ ở đâu?”
“Ở đâu? Nó bị đi cải tạo từ hồi nào tới giờ. Bộ mày không biết hả?”
“Sao không biết. Ký và Lộc bị gọi đi trình diện từ đợt đầu mà. Nhưng tao tưởng thầy giáo thì ra sớm chớ!”
“Thì cũng tại hai chữ biệt phái. Mấy tay quân quản cho rằng biệt phái là ghê gớm lắm. Chắc là nhân viên đặc biệt phái tới để theo dõi cô giáo thầy giáo trong trường nên phải giam lâu.”
“Bộ mày với tao không phải là đám biệt phái sao?”
“Thì cũng biệt phái, nhưng tụi mình binh nhì. Học quân sự chín tuần ở Quang Trung thì đâu được sĩ quan. Thằng Lộc và ông Ký đi Thủ Ðức, đều lên đại úy cả. Mà mày chưa nhận được giấy thăng cấp binh nhất à?”
“Hồi nào?”
“Tao nhận giấy đúng đầu năm bẩy lăm.”
“Trường tao không thấy đưa. Mà như vậy là sao?”
“Là sao? Binh nhì hay binh nhất thì ăn nhậu cái mẹ gì. Cho nên mấy chả lờ. Chớ sĩ quan như Lộc với Ký thì nó ghim. Mà sĩ quan gì kiểu Lộc và Ký chớ. Có bao giờ được bóp cò súng đâu. Ít nhất cũng đụng trận vài ba lần chớ, đằng này…”
“Mày có hiểu đạo đức mới là gì không?”
“Sao tự nhiên nói chuyện đạo đức?”
“Tao nhiều lúc ngẫm nghĩ trong khi bạn bè mình thằng nào cũng tù tội, biệt tích, mà mình lại nhởn nhơ như thế này, thiệt là vô đạo đức.”
“Tao cũng nghĩ vậy, nhưng có thiệt là mình đang nhởn nhơ không. Nhiều khi tìm cớ ngụy biện cho lương tâm yên ổn. Cứ cho là tụi nó ở trong một nhà tù nhỏ, còn bọn mình chẳng phải ở trong một nhà tù lớn sao? Cũng chỉ là tù, mà tù trong hay tù ngoài. Thế thôi!”
“Ờ, thì nói để mà nói vậy thôi. Bây giờ mày làm gì?”
“Tao lái xe ủi đất dưới Bạc Liêu. Còn mày?”
“Tao làm ở xưởng phim.”
“Mày biết mẹ gì phim ảnh mà làm.”
“Vợ con tao mày biết đã mất tích ngoài biển rồi. Ông già bà già tao cũng đã chết. Sách vở là tài sản của tao đã đem hết ra đường Bùi Quang Chiêu bán đổ bán tháo… Nếu tao có thể làm nghề chợ trời…”
“Nhưng mày biết mẹ gì phim ảnh mà làm.”
“Thì cũng nhờ người này người nọ quen biết trong đó giới thiệu. Không biết cầm máy quay phim thì cũng xách đèn chiếu cho thằng ca-mê-ra-men. Nó hỏi tao viết truyện phim được không. Tao nói được. Nhưng mày biết được là được thế nào?”
“Vậy mày được cái gì?”
“Tao được phiếu mua gạo và nhu yếu phẩm hàng tháng. Bả đi còn để lại tao một đứa. Nhiều bữa hai cho con nhìn nhau chỉ có cơm và nước mắm kho quẹt.”
“Tụi nó nói là hồi này mày nhậu dữ lắm. Phải không?”
“Tụi nó đãi. Phần tao chỉ biết uống. Chớ mày nghĩ tao phải làm sao bây giờ?”
Phải làm sao bây giờ? Tôi nghe câu hỏi ấy của Tâm sao mà giống câu hỏi trong đầu của tôi quá chừng chừng. Phải làm sao bây giờ? Nhìn trước, nhìn sau, nhìn quanh, nhìn quẩn, tôi thấy mình như một con heo trong rọ. Nhưng con heo còn có thể đem cân bán, chớ nhu mình quá không đáng một xu. Tôi chợt nhớ tới câu chuyện Tâm hứa sẽ kể. Tôi nhắc:
“Mày kể chuyện cái truyện gì của mày coi.”
“À. Kể thì kể. Nhưng dzô cái đẹp mắt coi.”
Rượu thuốc đục ngầu. Mùi khó thở. Tôi nhắm mắt uống ực như uống thuốc. Tâm cười.
“Mày nhất định không chịu bỏ nghề sao?”
“Bỏ nghề gì? Tao nghỉ dạy rồi mà!”
“Bỏ nghề phá-mồi. Bộ mày tưởng thời buổi này dư dả lắm sao mà chỉ phá-mồi?”
“Thôi cha. Kể chuyện nghe coi.”
“Ờ, chuyện thì chuyện. Theo mày thấy thì lúc này làm nghề gì dễ sống nhất?”
“Sao mày cứ nói lảng?”
“Thể thao và văn nghệ. Ðúng không?”
“Ðúng. Nhưng nói rõ thể thao là đá banh, còn văn nghệ là âm nhạc.”
“Ừ. Coi bộ lái xe ủi đất mà cũng rành sáu câu dữ. Tao viết một truyện ngắn về âm nhạc.”
“Âm nhạc? Càng ngày càng làm tao chới với. Hết làm phim, bây giờ lại làm nhạc. Mày học nhạc hồi nào?”
“Thôi, đừng có giả mù sa mưa cha. Truyện tao viết đại khái vầy: Có một thằng cha đó năm nay bốn mươi hơn. Tóc đã bắt đầu muối tiêu. Thằng chả giàu nhờ mở một nhà hàng ăn bên bờ sông. Khách khứa ra vào nườm nượp. Ðời chả chỉ biết tối tối đếm tiền. Càng giàu, càng đổ tật. Không biết mắc chứng gì mà chả mê âm nhạc. Chả thích chơi hồ cầm. Thích đứng giữa một dàn đại hợp xướng trên sân khấu. Chả suy đi tính lại, nhất quyết phải trở thành một tay hồ cầm có cỡ. Bạn bè nghe chả nói ý định ai cũng can. Lớn rồi, học nhạc phải học từ nhỏ, chớ từng tuổi, tay chân cứng đơ, âm nhạc gì. Chả không nghe, ghi danh đi học. Tiệm ăn thiếu người trông coi, mỗi ngày một mất khách, sa sút dần. Ðến khi chả ra trường thì tiệm ăn coi như sụp. Không còn tiền bạc, không còn tài sản, chả bán nhà bán cửa, đi lang thang, cố xin một chân trong ban đại hòa tấu. Nhưng ở đâu người ta cũng từ chối. Nói là ngón đàn chưa ngọt, không đủ điêu luyện để hòa nhập vào ban đại hòa tấu. Cuộc sống chả ngày càng thê thảm. Chả rách rưới nghèo khổ, bẩn thỉu, lang thang, lếch thếch như một hành khất. Nhưng tấm lòng yêu âm nhạc của chả là thực. Chả cứ lui tới ở mấy nơi có các ban đại hòa tấu lớn chơi. Chả xin việc. Người ta nói ban nhạc đã đủ người. Sau cùng để thỏa lòng yêu âm nhạc, chả xin làm người dắt chỗ cho khách thưởng ngoạn…”
“Nhân viên dẫn chỗ ngồi?”
“Ừ, đúng. Chả làm nhân viên dẫn chỗ ngồi. Nhưng mà đừng tưởng làm nhân viên dẫn chỗ ngồi là dễ đâu nghe!”
“Mày muốn nói cái gì vậy?”
“Mày thông minh có thừa. Mày dư biết tao muốn nói gì rồi. Tuổi tụi mình đâu phải là tuổi bắt đầu đi làm cách mạng. Phải không? Vả lại…”
Tôi hiểu tâm sự bạn.
Tôi cầm đũa gắp một miếng lòng. Mùi rượu thuốc làm tôi khó chịu.
Tâm tựa lưng vào vách. Khuôn mặt anh bỗng nhiên nguội lạnh bất ngờ hai con mắt ướt như sắp khóc. Anh lặng thinh, bất động như một bức tượng.