← Quay lại trang sách

Chương Mười Một

Chiếc xe đò đi Rạch Giá chật ních người. Kiệt đã lấy cho tôi một chỗ khá tốt: ghế đầu ngồi cạnh bác tài. Trong túi tôi đang có một tấm giấy công tác giả do ông Công cấp, ghi là tôi đi công trường An Biên nghiên cứu đào giếng.

Trước mặt tôi, trên đùi tôi, là tờ báo Quân Ðội Nhân Dân mô tả một trận đánh ở vùng biên giới Việt Nam-Cam Bốt. Tôi đọc thấy lời khai của một ten Khmer Ðỏ: nay mai người Khmer sẽ chiếm lại Saigon, vì Saigon là của dân tộc Khmer. Thế là thế nào? Khmer Ðỏ là cộng sản, Hà Nội cũng là cộng sản. Trên một tờ báo ảnh của Hà Nội mà tôi tình cờ đọc thấy sau ngày mất Saigon có hình Pol Pot bắt tay Trường Chinh, trang trước đó nữa Sihanouk ôm hôn Phạm Văn Ðồng… Thế là thế nào? Tôi xếp tờ báo lại. Tôi không cách nào hiểu được thời sự thời thế thời cuộc. Ðối với tôi, những thứ ấy luôn luôn làm tôi rối trí. Bao giờ trong đầu tôi cũng nghĩ đến một chuyến đi. Ði để trốn thoát cái không khí trước đây vốn không cho tôi đủ khí trời để thở, và giờ đây phải đi vì không khí ngục tù và rờn rợn. Tôi mơ hồ cảm thấy có một tấm lưới lớn đang từ từ chụp xuống những con người Saigon, không khí không những đang bị rút dần mà sự đe dọa vô hình in hình như mỗi lúc một gần hơn, nặng nề hơn. Saigon đối với tôi giờ đây chỉ là những quán cà phê vỉa hè, những chiếc ghế bằng gỗ tạp thấp tè đóng vội vàng, và cơm nguội bắp rang, vỏ măng cụt trộn lẫn với cà phê tạo nên một thứ mùi kỳ quái. Chúng tôi sống trong thế giới của những tin đồn. Người đang bị tù thì tưởng đã đi rồi. Còn người đi rồi đôi khi cứ tưởng như còn lẩn quẩn đâu đây.

“Thầy nên đi coi ghe trước khi quyết định.” Kiệt đã nói với tôi như vậy. Và cậu đã lấy vé chợ đen cho tôi, vẽ địa điểm sẽ gặp nhau ở chợ Rạch Giá, “ăn cái gì rồi mình đón xe Lam đi Rạch Sỏi, ghe ở đó.”

Tôi nói với Quỳnh có lẽ tôi sẽ đi trong ba ngày: một ngày đi, một ngày coi ghe, một ngày về.

Buổi sáng dậy sớm, tôi bỏ theo trong túi xách một bộ quần áo, bàn chải và kem đánh răng, một cuốn sách… và lên đường một mình. Ðó là lần đầu tiên tôi đi Rạch Giá.

Xếp tờ báo lại, để dưới chân, tôi hỏi người lái xe bao giờ thì sẽ đến bến. Ông ta nhìn tôi cười khi tay vừa đẩy cần sang số:

“Vượt biên sao mà nôn nóng dữ cha nội!”

“Ðừng nói giỡn, tù mọt xương ông à!”

“Thì nói giỡn mà! Ðất nước độc lập thống nhất rồi ai ngu dại gì bỏ đi đâu chi cho nó cực.” Ông ta vừa nói vừa nheo mắt nhìn tôi cười mỉm. “Nè, tui hỏi thiệt,” giọng ông nhỏ hẳn lại, “đi Rạch Giá chi vậy?”

“Tôi đi công trường An Biên, đào giếng.”

“Bộ ông là cán bộ à?”

“Không…” Tôi ấp úng.

“Tướng ông khó làm cán bộ lắm. Nhưng…” Ông ta lại cười.

Tôi thấy ông có chiếc răng cửa bị gẫy, khuôn mặt sạm đen, da sần sùi, chiếc cổ bạnh, bàn tay đặt trên vô lăng to bè. Tôi không muốn nói chuyện với ông ta. Tôi đoán ra ông ta định ám chỉ cái gì, nhưng tôi không tin lắm. Tốt hơn hết là đừng nói, kệ ông ta muốn gợi chuyện gì thì gợi. Ai biết đâu có công an giả dạng thường dân ngồi ở mấy ghế sau. Tôi đưa mắt lơ đãng ngó cảnh tượng trước mắt đang bị chiếc xe nuốt dần. Và tôi chợt thấy cái vẻ đẹp kỳ lạ vô cùng giữa thiên nhiên và con người. Cả một cánh đồng lớn đang chạy lùi dần là những ngôi mộ và trên mỗi ngôi mộ là những tờ giấy (hay vải?) ngũ sắc cắt dài như những cái tua bay phất phới.

Một bức tranh hoành tráng với những màu nóng phơi dưới một mặt trời chiều đỏ ối. Nơi yên nghỉ của người chết cũng đẹp đâu thua gì lâu đài của những người sống. Tôi nghĩ vậy. Ðẹp. Trời ơi, sao tôi cứ bị cái đẹp theo đuổi hoài.

Nhưng mà đẹp thì giải quyết được cái gì chớ? Bỗng nhiên tôi nhớ Ðăng và Mai. Tôi đã đồng ý ký giấy để mẹ chúng nó được phép mang cả hai đi Pháp. Cho đến khi Saigon thất thủ, mẹ chúng nó vẫn còn giữ quốc tịch Pháp và bây giờ bà ta đang làm thủ tục xin hồi hương. Nếu tôi không vượt biên được, coi như từ nay vĩnh viễn không bao giờ cha con tôi sẽ gặp lại nhau. Chưa bước chân xuống thuyền mà sao tôi cứ tưởng cô em út tôi ở Virginia đang chờ tôi ở phi trường, Tôi tưởng như thấy tay mình đang vốc từng nụm tuyết tung lên trời, há cổ nuốt cái lạnh lẽo chỉ thấy trong tiểu thuyết. Tôi nghe tiếng hành khách trong xe chộn rộn. Xe đã vào bến. Tôi mở cửa bước xuống, Lẫn phía sau những người phu xích lô đón khách, tôi thấy Kiệt đưa tay ngoắc tôi.

“Ðể em đưa thầy đến nhà chú Chín, ngủ qua đêm. Chú Chín người miền Trung nhưng làm nghề biển, theo gia đình vào Nam sống gần chục năm nay. Chú có ghe nhưng không tính vượt biên. Chú nói còn làm ăn được, nên không vội. Chú đã giới thiệu em với một người chủ ghe khác. Ghe đó hiện ở Rạch Sỏi. Sáng mai anh Hiệp tài công sẽ gặp mình ở quán này, rồi cả ba người sẽ đi Rạch Sỏi.”

Có lẽ hàng quán ở bến xe đò nơi nào cũng giống nhau. Cái vẻ tạm bợ thấy rõ trên từng tấm bạt căng trên các “cọng” cây xiêu vẹo. Một tấm phản làm bàn kê trên mấy hòn gạch nung. Chén bát ly tách bẩn thỉu bụi bặm. Người đàn bà chủ quán pha cà phê bít tất đổ vào cái ly nhựa màu ngà sần sùi. Tôi hớp một ngụm, ho sặc sụa. Tôi đói bụng. Tôi muốn tìm cái gì để ăn. Kiệt nói cậu cũng đói. Và cậu dẫn tôi đi luồn ra bến xe, băng qua một chiếc cầu làm bằng xi măng. Chiếc cầu nhỏ có lan can. Nước dưới cầu có vẻ cạn, chảy nhẹ nhàng lấp lánh chút màu vàng ối của mặt trời sắp lặn. Chúng tôi bước vào thành phố. Những tiệm buôn nhỏ. Tiệm thuốc Bắc, tiệm vàng, tiệm vải. Kiệt kéo tôi vào một tiệm mì.

“Coi ghe xong, tuần tới là mình đi. Thầy tính sao?” Kiệt châm thuốc, thở khói sau câu hỏi.

Tôi nhìn cậu học trò xuất sắc nhất trong lớp của năm cuối cùng trong đời dạy học. Tôi không thể tưởng tượng Kiệt đã thay đổi và trưởng thành nhanh chóng đến như vậy. Khuôn mặt Kiệt không còn cái vẻ thư sinh mà tôi từng thấy. Tóc Kiệt hơi quăn, cắt ngắn sát da đầu, hai con mắt sáng nhìn thẳng, gò má nhô xương, da sạm đen vạm vỡ, mạnh khỏe, vai ngang, tay gân guốc.

“Em làm ruộng.” Kiệt nói khi nhìn thấy mắt tôi đang ngó chăm cậu.

“Làm ruộng thì đã sao?” Tôi hỏi lại.

“Nếu đi được, chắc em sẽ tiếp tục học cho xong. Em thích khoa học hơn…”

“Tôi thì không thấy chút hy vọng nào về chuyện đi hay ở. Ði, tôi không biết cái gì đang chờ đợi tôi, mà ở, tôi cũng không thấy một đốm sáng nào trong cuộc đời đen tối của tôi.”

“Em thì khác. Ðối với em chỉ có sự đi chớ không có sự ở. Em nhìn thấy tương lai em ở bên kia bờ biển. Còn ở đây không có chỗ cho em.”

“Nghĩa là…?”

“Nghĩa là em chỉ có một con đường là đi. Năm mươi phần trăm thoát, năm mươi phần trăm cho cá mập hay đồn công an, em biết vậy, nhưng mà… thà bị chết còn hơn là tự giết mình lần mòn trong cái lý lịch của mình. Em không thấy ba em sai. Em không bao giờ nghĩ rằng ba em đã sai. Em hãnh diện có một người cha chọn cái chết cao cả của một quân nhân bại trận. Sống cũng như chết, ba em đều để lại cho em cái hình ảnh hào hùng của một con người.”

Tôi nhìn chăm vào mắt Kiệt. Tôi đọc được sự cương quyết đến dứt khoát của người trẻ tuổi. Tôi thấy mình như già hẳn đi. Tôi bối rối, mơ hồ. Tôi muốn đi nhưng không biết mình sẽ đi về đâu. Tôi sợ ở, nhưng lòng lo âu trong sự tù túng nên lúc nào cũng thấp thỏm muốn đi. Tôi như người đứng giữa hai lằn đạn. Xoay bên này, trở bên kia, tôi luôn luôn bị những cây kim nhọn châm vào. Tôi nghĩ đến Quỳnh, đến đứa con của chúng tôi. Ðăng và Mai được mẹ nó đưa đi Pháp. Bản đại tự do tòa án Sài Gòn cấp cho phép tôi giữ Ðăng, nhưng vì tương lai của cháu, tôi đã đành phải ký giấy để cháu theo mẹ. Tôi không biết mình phải làm gì. Mẹ cháu còn giữ quốc tịch Pháp, mặc dù thẻ do tòa lãnh sự Pháp cấp từ lâu đã không còn. Quỳnh đã may sắm và dồn bao nhiêu là quần áo cho hai cháu. Cô không biết, và tôi cũng không hề nghĩ là những thứ ấy dân Paris đâu cần. Mặc kệ. Giấy tờ đã có, nhưng làm sao để có tên sớm trên danh sách chuyến bay. Người đàn bà nói với Quỳnh, “chị cần năm cây.” Quỳnh chạy khắp nơi, gõ cửa những người quen, đứng ra vay nợ, mang đến để cho bà hối lộ bọn làm giấy tờ.

Quỳnh mở cánh cửa đón người đàn bà trước kia, đã từng thuê du đãng kéo cô lên taxi xé quần áo toan làm nhục cô, nhưng cũng may Quỳnh đã thoát nhờ mấy người lính uống bia bên kia lề đường, nhảy vào can thiệp. Tôi cũng có dịp lại được đối diện nhiều lần với người đàn bà đã mướn người thanh toán tôi ở bến tàu. Nhưng lòng tôi đã không còn hận thù. Tôi mừng cho người đàn bà ấy sắp thoát khỏi được một nơi chốn mà ai cũng chờ chực để ra đi. Dù sao tôi cũng yên tâm biết là Ðăng và Mai sẽ đến một nơi tôi từng muốn đến. Và chúng sẽ được sống bên một người mẹ mà tôi tin là “biết yêu con.” Cái còn lại nơi tôi là Quỳnh và đứa con của chúng tôi. Quỳnh đã mua một tủ kiếng bán áo thun có vẽ hình và chữ, kiểu như Saint-Germain des Prés, Paris, New York,… Quỳnh hai mươi bảy tuổi, đã sống với tôi những năm tối tăm, đã cho tôi một đứa con, đã chia sẻ cùng tôi những nỗi buồn, nỗi lo.

“Nếu không đi được, em sẽ làm gì?” Tôi hỏi Kiệt.

“Nếu không đi được, em sẽ tạm tiếp tục làm ruộng.”

Kiệt nhìn tôi, hơi ngập ngừng:

“Em không biết là có một tổ chức kháng chiến nào không. Em muốn…”

Tôi đưa tay nắm bàn tay Kiệt. Bàn tay cậu có những ngón tay chai cứng. Chắc đã lâu Kiệt không cầm bút.

Tám, Hiệp, Kiệt và tôi gặp nhau ở bến xe Lam. Buổi sáng trời nắng vừa. Chiếc xe chờ đủ khách mới đi.

Bốn chúng tôi ngồi bốn góc làm như những người không hề quen nhau. Hiệp là tài công. Tám, thư ký trường đại học Bách Khoa Phú Thọ, đón khách lo thực phẩm. Kiệt có công tìm hải bàn, và tìm khách. Tôi được Kiệt giới thiệu tham dự chuyến đi…

Chạy đến Rạch Sỏi, xe thả chúng tôi xuống một bến chợ nhỏ. Mỗi người tảng lờ đi rời rạc sau Hiệp và Kiệt. Chợ loe hoe mấy người đàn bà ngồi xổm bán cá, tôm còn tươi rói. Mặc đường hẹp, nước sệt bùn đen quánh, trơn trợt. Hiệp đi băng qua chợ, không dừng lại chỗ người bán cá. Tôi theo chân Kiệt bước xuống bến sông. Kiệt nhảy lên một chiếc ghe, nhẹ nhàng như con rái cá. Tôi nhảy theo, chiếc dép da đứt quai, bùn dưới chân đặt quánh, tôi ngã xuống bờ sông, hai tay chống xuống nước, chỏng gọng. Tôi nghe chân đau nhói. Nước mấp máy đến cằm tôi. Tôi nghẹt thở. Kiệt từ trên ghe nhảy xuống, ôm chầm lấy tôi.

“Thầy có sao không?”

Tôi không trả lời. Tôi không thể trả lời được. Tôi đau.

Kiệt dìu tôi lên bờ.

Tôi nằm bệt xuống mặt đất, nghe mùi bùn thoảng lên tận mũi. Tôi nghe đau nghiến từng cơn.

“Thầy có sao không?” Kiệt nắn nắn chân tôi.

“Không, không sao.” Tôi biết tôi đang nói dối.

Tôi đau nhức như thể có người cầm dao thọc vào thịt xương tôi. Tôi bẹp dí như cái bong bóng bị kim đâm. Bùn với nước bết vào tóc tai tôi, quần áo tôi. Tôi lăn trở đau đớn.

Có gì đâu! Chỉ là một cái sẩy chân, tại sao tôi có thể bị chấn thương như vậy.

Tôi ngó lên. Bầu trời xanh với những đám mây trắng xốp đứng sững. Không một chút gió. Không một cánh chim.

Tôi nhìn quanh. Nhiều khuôn mặt chụm lại, cúi xuống. Tôi không phân biệt được ai là ai. Những con mắt hau háu. Những bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Những mái tóc xù. Những hàm răng nhọn.

“Anh kia, đứng dậy.” Có tiếng nói như ra lệnh.

Kiệt cúi xuống sát mặt tôi, hai tay vẫn nắn chân tôi.

“Bể rồi, thầy ơi!”

Tôi nhìn lên. Tất cả những khuôn mặt vừa chụm lại ngó xuống bỗng giãn ra. Bầu trời lại xanh. Ðám mây trắng vẫn bất động. Tôi thấy mấy cánh tay dài chìa xuống xốc nách Kiệt.

“Cả tên này nữa!”

Một tiếng nói khác. Một khuôn mặt khá trẻ. Hai cánh tay dài phóng xuống chụp lấy vai tôi.

“Ðứng dậy!” Tiếng nói ra lệnh.

“Nè, đừng làm dzậy. Người ta bị gãy chân rồi!” Tiếng nói lẫn trong đám đông. Nhiều tiếng xì sầm.

Người ra lệnh vừa rồi luồn tay dưới lưng tôi, gần như đẩy tôi đứng lên.

“Ðau quá!” Tôi nghe tiếng mình nói rất nhỏ.

“Anh đã bị bắt!” Người thanh niên nắm cổ áo sau ót tôi.

Tôi không thấy sợ, nhưng chân tôi khuỵu xuống, tựa hồ như cái bản lề ở đầu gối và mắt cá bị sút ốc.

“Xin đồng bào giải tán. Bắt bọn vượt biên phản quốc chớ có gì đâu mà coi!”

Người nói là một trung niên tóc bạc, gầy ốm, nhỏ thó, đang đứng trước mặt tôi.

Ðám đông tản ra một số. Còn lại một vài con mắt tò mò.

“Trói lại!” Hắn nói.

Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy không có một tên nào ăn mặc đồng phục công an hay bộ đội. Tất cả đều thường phục. Tên đang trói tôi có khuôn mặt trẻ hơn là lúc đầu tôi tưởng.

“Các anh có biết vượt biên là phản quốc, là liếm gót giày bọn tư bản không?”

Người trung niên nói. Y mặc áo ca rô bỏ ngoài quần rộng thùng thình, dép da kiểu dân Sài Gòn. Tôi bị trói ngoặt hai cánh tay tréo sau lưng. Tôi nhìn thấy Kiện cũng bị trói thúc ké. Hiệp và Tám không có mặt.

“Ðưa họ về trụ sở trước. Tôi sẽ làm việc với họ sau.” Người trung niên ra lệnh.

Ðán đông mở ra. Một tên đi trước. Kiệt bước theo. Tôi không giở chân lên nổi. Tên còn trẻ đẩy chúi tôi.

Tôi khuỵu chân, ngã xuống. Tôi đau muốn tắt thở.

“Có sao không thầy?” Kiệt quay lại quì hai chân hỏi.

Tôi ngã sấp xuống mặt đất. Bùn sệt và nhão ướt.

“Tôi đi không nổi đâu.” Tôi nói với Kiệt.

“Thầy phải cố lên!” Kiệt đứng thẳng dậy, mắt vẫn nhìn chăm vào mắt tôi.

Tôi nghe hơi lạnh của bùn thấm vào gò má và tai tôi. Tôi gượng dậy. Tôi lết đi trên một chân.

Trạm công an không xa chợ nhưng tôi tưởng mình khó mà tới nổi. Nó đứng giữa cánh đồng lúa vừa gặt, trơ trọi. Bên trong chỉ có một cái bàn mấy cái ghế xộc xệch, ọp ẹp.

Tôi thấy Tám, Hiệp và một đám khác ngồi lố nhố bên trong. Trừ mấy đứa bé còn nắm tay mẹ, số còn lại đều bị trói thúc ké.

Tôi và Kiệt bị ấn ngồi bệt xuống.

Nền nhà bằng đất chỗ lồi chỗ lõm. Tôi nhận ra không phải mình chỉ đau ở chân mà còn nghe tức cả ngực nữa.

Tên trẻ tuổi dùng ngón tay trỏ chỉ vào từng đầu người lẩm nhẩm đếm. Tôi nghe tiếng một đứa bé khóc. Bà mẹ bị trói, đứa bé bò quanh chân. Mấy người ngồi trước mặt nói chuyện bằng tiếng Tàu.

Tôi nhớ Quỳnh. Tôi như nghe tiếng khóc của con tôi. Trạm công an ở Nha Trang. Phòng giam nhỏ trên lầu. Tờ giấy ký nạp nhà. Cái chết của anh Thúc. Hai đứa cháu của anh còn nằm trong trại tù tập trung sĩ quan cải tạo. Ðăng và Mai đang chuẩn bị theo mẹ chúng đi Pháp. Những lời dặn dò của Quỳnh trước khi ra đi. Những tờ giấy ngũ sắc trải dài trên các ngôi mộ dọc đường xuống Rạch Giá. Chiến tranh biên giới Cam Bốt. Pol Pot bạn hôm qua của Hà Nội, kẻ thù ngày nay của Việt Nam. Cuộc chiến vừa chấm dứt Tháng Tư, Tháng Năm đã nổ ra những tiếng súng bên giới. Nếu tiếng súng ngừng nổ thì cái gì sẽ xảy ra trên đất nước này?

“Tất cả nghe đây!” Tên trung niên tóc bạc, gầy nhom, nhỏ thó bước vào giữa phòng.

“Ðồng chí Bảy Ca. Ðồng chí cởi trói mấy ông bà này giùm tôi.”

Tên còn trẻ từ cửa hông bước vào. Y đi chậm rãi tới trước mặt từng người một, cúi xuống, tháo gút. Y trạc tuổi Kiệt, nhưng có vẻ khắc khổ hơn. Da mặt đen, hai cánh tay dài, mắt nhỏ.

“Tất cả nghe đây!” Tên trung niên đứng giữa phòng nói, “Theo thứ tự trước sau, mọi người ai có đồng hồ mắt kiếng, tiền bạc giấy tờ mang lên đây nộp theo lệnh gọi. Nghe chưa?”

Một người ở hàng đầu bỗng đưa tay lên.

“Anh kia, muốn gì?” Tên trung niên hỏi.

“Tôi muốn đi tiểu.” Người bị bắt nói giọng lơ lớ.

Cả đám tù bật cười.

“Đứng dậy. Ra chái sau.” Tên trung niên nói, “Nhưng…Thôi anh đi đi…”

Anh đưa mắt nhìn tên trẻ tuổi.

Tên này đi trước dẫn đường cho người tù đi tiểu.

Nhiều người đã lần lượt đứng dậy bước lên tháo bỏ đồng hồ, tiền bạc và giấy tờ lên mặt bàn.

Tên trung niên cầm từng chiếc đồng hồ lên săm soi. Những tờ giấy bạc y lùa sang một bên làm như không thèm để ý. Tôi ngạc nhiên thấy y không hề liếc mắt trên những tờ giấy đi đường.

Sau Kiệt, tôi đứng lên tháo chiếc đồng hồ Seiko đặt trước mặt y. Tôi móc hết tiền trong túi ra. Tôi lấy tờ giấy công tác do Công cấp chậm rãi mở ra, cố ý cho y nhìn.

“Tôi không phải người vượt biên.” Tôi nói mắt nhìn thẳng vào mắt y.

Y cũng nhìn tôi ngạc nhiên.

“Anh không vượt biên?” Y hỏi. “Vậy chớ anh đi đâu dưới này? Mà anh là ai?”

“Tôi đi công tác ở An Biên. Đào giếng.” Tôi nói y như những gì ông Công dặn.

“Giấy công tác đâu?”

“Đây!” Tôi đặt tờ giấy nhỏ có đóng mộc xuống mặt bàn ngay trước mặt tên trung niên. Y cầm lên, nhìn chăm hồi lâu, rồi vất sang đống giấy tờ đủ loại.

“Giấy giả!”

“Không phải. Giấy công tác của tôi là thứ thiệt mà!” Tôi cãi.

“Tôi nói giả là giả! Anh xuống trở lại chỗ ngồi đi. Tôi sẽ làm việc với anh sau!” Dừng lại một phút, y đổi giọng: “Bảy Ca! Đồng chí Bảy Ca!”

Tên trẻ tuổi từ sau bước lên.

“Làm gì dưới đó mà lâu quá vậy?” Tên trung niên hỏi.

Bảy Ca không trả lời. Hắn đến sát bên lưng tên trung niên cúi xuống nói rất nhỏ vào tai tên này. Y gật đầu mắt sáng lên nhìn tứ phía.

“Ai là bà con nhà Lâm Diệp đứng dậy!”

Chừng hơn một chục con người ríu rít đứng thẳng lên. Kiệt khều tay tôi. Tôi có cảm giác như có tiếng cười trong đám người đang xí xô xí xào kia.

“Tất cả theo tôi!” Bảy Ca nói và dẫn đầu bước ra chái sau, theo ngã mà người tù tên Lâm Diệp vừa xin đi tiểu tiện khi nãy.

Số người còn lại sau khi nộp tiền, tháo đồng hồ, bỏ lại hết mọi thứ giấy tờ trên bàn, đang ngồi bệt xuống nền đất, chờ đợi. Tám, Hiệp, Kiệt và tôi đưa mắt nhìn nhau.

Tôi tìm giải đáp cho cuộc ruồng bắt ngày hôm nay. Rõ ràng là chúng tôi không đi vượt biên. Vậy tại sao? Có thể chúng tôi là những người lạ mặt trong một vùng đất thưa người mà ai ai cũng nhận ra nhau chăng. Có lẽ vùng này bọn công an biên phòng được tăng cường vì có nhiều phương tiện và điều kiện thuận lợi cho người vượt biên? Cũng có thể chúng tôi lộ liễu quá, đi băng qua chợ cá, giữa một đám người lam lũ mà chúng tôi vẫn còn rất Sài Gòn chăng?

“Bảy Ca! Bảy Ca!” Tên trung niên bỗng gọi to.

Không có tiếng trả lời.

Y đứng dậy, phân cái đống “chiến lợi phẩm” làm ba phần: giấy tờ, tiền bạc, và đồng hồ. Y dùng ngón tay út của bàn tay phải hất mấy chiếc đồng hồ để có thể nhìn rõ mặt từng chiếc. Sau cùng y chọn một chiếc màu vàng, đeo vào cổ tay, đưa sát mặt ngắm ngía. Tôi thấy y hất chiếc Seiko của tôi qua một bên. Y có vẻ khinh chiếc đồng hồ của tôi ra mặt. Rồi y nhìn đống giấy tờ. Y bốc một miếng màu vàng chăm chú đọc.

“Võ Anh Kiệt. Ai là Võ Anh Kiệt?”

“Có tôi!” Kiệt vừa lên tiếng vừa đứng dậy.

“Bước qua bên tay phải tôi!”

“Ngô Lập Khải. Ai là Ngô Lập Khải?”

Một người đàn ông đứng dậy. Ông ta có một khuôn mặt buồn, hai con mắt một mí nhìn tên công an như nhìn vào khoảng không.

“Bước qua bên phải tôi, xếp hàng!” Y rít lên.

Người đàn ông có tên Ngô Lập Khải đứng yên không nhúc nhích. Tôi thấy hai con mắt ông nhìn chằm vào tên công an. Tất cả mọi người trong phòng giật mình, quay mặt hẳn về phía người tù. Ngô Lập Khải vẫn đứng như trời trồng.

Một người ngồi gần chỗ ông ta, cầm cổ chân ông lắc lắc.

“Đi! Đi!”

Khải như cây đinh đã đóng vào tường.

“Ngô Lập Khải. Ông có phải Ngô Lập Khải không?”

Tên trung niên cúi xuống tờ giấy, rồi ngửng mặt lên hỏi.

Ông ta tiếp tục lặng thinh.

“Bảy Ca! Bảy Ca!” Tên trung niên kêu to.

Tên trẻ tuổi từ chái sau chạy vụt lên.

“Báo cáo đồng chí, mọi việc tốt đẹp.” Bảy Ca nói.

“Đồng chí đưa tên này vào phòng trong, tôi làm việc ngay bây giờ.” Tên trung niên chỉ tay vào mặt Ngô Lập Khải.

Bảy Ca bước tới.

“Khoan!” Tên trung niên đưa tay chận lại. “Đồng chí trói nó lại.”

Bảy Ca đến góc phòng, nơi lúc nãy hắn vừa vất một đống day đủ loại, lấy một sợi dài. Hắn trói thúc ké Ngô Lập Khải. Người đàn ông đứng yên để Bảy Ca bẻ gập hai cánh tay ra sau.

“Đi!” Hắn đẩy người tù về trước.

Hắn mở một cánh cửa bằng tre đan sau lưng chỗ tên trung niên ngồi. Tôi không ngờ còn có một căn phòng riêng trong ngôi nhà này.

“Có xe chở tù về trại giam chưa?” Tên trung niên hỏi.

“Báo cáo đồng chí, tôi đã liên lạc rồi.”

“Tốt! Đồng chí có thể đi.”

Bảy Ca xoa hai tay, bước ra chái sau.

Tên trung niên cúi xuống đống giấy tờ, bốc lên một mảnh:

“Trần Lâm Thăng. Ai là Trần Lâm Thăng?”

“Có tôi!” Tôi đứng dậy, không đợi hắn nhắc, bước sau lưng Kiệt.

Những người được gọi tên kế tiếp lần lượt nối đuôi nhau. Tôi không nghe y gọi tên Lâm Diệp. Cả những người trong nhà của Lâm Diệp cũng không thấy trở lại.

Sau cùng tôi thấy Bảy Ca từ chái sau bước ra.

“Báo cáo đồng chí, xe chở tù sắp đến!”

Tên trung niên đứng bật dậy.

“Đồng chí kiểm kê rồi làm biên bản ghi hồ sơ mọi thứ giấy tờ, tiền bạc, tài sản này và đem vào phòng tôi. Sẽ trình lên công an tỉnh khi giao tù.”

Bảy Ca cúi xuống chân bàn, lấy cái ba lô bộ đội mở túi và gạt tất cả đồng hồ tiền bạc và hình như cả vòng vàng vào, đặt xuống đất. Đúng lúc đó tôi nghe rõ có tiếng động cơ xe rống lên trước sân.

“Tất cả đi hàng một ra xe!” Bảy Ca nói, hắn cầm gọn trên tay đống giấy tờ.

“Nó đưa mình đi đâu vậy?” Tôi khều Kiệt.

“Có lẽ nó giải về nhà lao Kiên Giang.” Kiệt nói rất nhỏ.

Xe xịt khói mù trời. Hai tên công an áo vàng từ sau xe tháo chốt đẩy nắp xuống. Đây là loại “poa-lua” chở trâu bò.

“Ê, Tư, sao lâu vậy?” Bảy Ca nói với tên đứng trên xe. “Giấy tờ đây. Bữa nay hơi ít cá. Cà phê đưa sau.”

Tên công an áo vàng cúi gập mình thò tay cầm xấp giấy. Tên kia nhảy xuống xe ôm theo một mớ giây.

“Mọi người xếp hàng lại cho trật tự. Nghe tôi điểm danh tên ai người đó mới được lên. Nghe rõ chưa?”

Cả đám lục tục xếp hàng. Kiệt đứng sau lưng tôi. Tám và Hiệp đứng ngay hàng đầu.

“Nguyễn Văn Tám!” Tên công an trên xe đọc.

“Có tôi!” Tám vừa trả lời vừa bước về phía xe.

“Chưa đâu!” Tên công an dưới đất chận lại. “Đưa mượn hai cánh tay.”

“Ồ!” Cả đám kêu đồng loạt.

Lại trói thúc ké từng người một, và hai tên công an bắt những người tù chưa bị trói đẩy từng người tù bị trói lên xe.

“Trần Lâm Thăng?”

Tôi bước tới. Không tôi lê tới. Bỗng nhiên tôi nhớ ra là chân tôi bị đau. Cả mấy tiếng đồng hồ ngồi trong ngôi nhà kia tôi quên là mình bị đau, bây giờ khi tên công an gọi tên tôi để cho hắn “mượn hai cánh tay” tôi mới nhớ ra là chân tôi hình như sắp bị gãy. Tôi nghe nhức buốt tới óc. Tôi cảm thấy Kiệt đỡ tôi khi tên công an đá vào cái chân bị thương của tôi khiến tôi ngã quỵ xuống dưới mặt đường xỉn bụi.