Chương Mười Hai
Nhà tù Kiên Giang buổi tối. Những cánh cửa sắt mở ra đóng lại vội vàng. Cả đám người bơ phờ, bụng đói, tay không đồng hồ, chân không giày dép, đầu óc hoang mang lo lắng sợ hãi ngồi chồm hổm giữa sân nhà giam.
Ðêm đang xuống.
Thấp thoáng bên trong một ngọn đèn điện bóng tròn màu vàng. Tôi không thấy Kiệt đâu. Cả Tám và Hiệp cũng bị đẩy về một phía nào. Tôi tự hỏi cái gì đang chờ đợi tôi. Ðêm tối ám, tôi không thấy rõ mặt người.
Cả đám ngồi lổn nhổn như những hòn đá. Một ngọn đèn vàng hắt xuống từ một mái nhà trước mặt chiếu sáng vừa đủ ba chữ “Cải Hối Thất.”
Chúng tôi ngồi đợi như vậy khá lâu không tên công an nào đến ngó. Một vài bóng đen đi lướt qua, lặng lẽ.
Mưa lất phất vừa đủ ướt mặt. Người ngồi trước quay lại hỏi tôi:
“Bị bắt ở đâu vậy?”
“Rạnh Sỏi.” Tôi trả lời cho xong chuyện.
“Xuống ghe chưa?”
“Chưa. Còn ông?” Tôi hỏi lấy lệ.
“Ôi! Tôi hả?” Tôi lên xuống như cơm bữa.” Rồi ông ta quay hẳn mặt lại: “Lần đầu hả?”
“Lần đầu.” Tôi trả lời.
“Ðừng sợ. Ông tên gì?”
Có cần nói tên mình cho người lạ mặt này nghe không? Tôi thoáng nhớ lại những lời dặn dò của ông Công. Ði có giấy công tác cứ nói thật, cứ khai địa chỉ chỗ làm việc. Phần còn lại để ổng lo. Tôi cũng nhớ lời dặn của Tâm Khô-Khốc-Thiền-Sư. Mày phải khai tên giả, địa chỉ giả, lý lịch giả. Tụi nó không cách nào điều tra được. Phải nhớ mày là dân ít học, làm nghề chân tay, trốn quân dịch, có cảm tình với cách mạng… Càng ở gần tận cùng đáy của xã hội càng tốt. Tôi hiểu lời dặn dò của Tâm. Cái đáy vực của chế độ này là đỉnh cao của chế độ kia và ngược lại. Nhưng đó có phải là chân lý không?
Tôi không tin một sự đổi đời và lộn ngược đời như thế. Xấp-Ngửa. Trắng-Ðen. Phải-Trái. Tôi đã nhìn thấy những điều đó đang diễn ra quanh tôi. Cái hôm qua được coi là đạo đức, bữa nay đã bị coi là tội lỗi.
Một ngôi nhà to, một chức tước cao, một địa vị lớn, một sự quen biết rộng…của bữa trước, rất là bất lợi cho bữa nay. Mới hôm qua còn là “ông,” bây giờ đã là “thằng.”
Còn “thằng” hôm qua có là “ông” hôm nay không thì không rõ.
Tội ác như một thứ ruồi nhặng mà những người cầm quyền mới cố gắng dán lên đầu những con người đầy danh vọng của chế độ cũ, tưởng chừng như…
Nhưng mà những con người cùng khổ của hôm qua, sau mấy năm dưới chế độ mới cũng vẫn không thơm tho gì hơn. Căn nhà bằng bìa cạc-tông, mái lợp tôn hay fibro xi măng bữa trước ra sao bây giờ vẫn vậy.
Có đổi mới chăng là xiêu vẹo hơn, và vô phương cứu chữa hơn. Người cùng khổ vẫn sống, tiếp tục sống dưới đáy xã hội. Chỉ có những kẻ khốn nạn hôm qua mới chiếm được một chỗ sạch sẽ dưới ánh đèn ấm cúng trong một ngôi nhà mới. Vậy thì tôi có cần nói tên tôi cho người lạ mặt này không. Nhưng mà tôi là cái thá gì chớ! Nói thì sao. Ðã sao?
“Thăng. Tôi tên Thăng. Mà ông hỏi chi vậy?”
“Hỏi vậy thôi. Tôi tên Bình. Tôi bảo đảm là trước sau gì ông cũng nhớ đến tôi!”
“Im lặng! Im lặng!” Tù không được nói chuyện.” Bất ngờ một giọng nói vang lên rất gần chỗ tôi.
Tôi ngước mắt nhìn chưa kịp ngạc nhiên về lời nói của người bạn tù, thì cái bóng đen lướt qua choán trước tầm ngó của tôi.
“Anh kia tên gì?” Bóng đen hỏi.
“Thăng.” Tôi trả lời gọn.
“Cái gì Thăng.”
“Trần Lâm Thăng.”
“Bị bắt vì tội gì?”
“Không biết.”
Tôi không biết thật. Tôi chỉ gặp Kiệt để xem ghe. Tôi mới chuẩn bị vượt biên chớ đâu đã vượt biên.
“Không biết?” Bóng đen hỏi lại.
“Không biết.” Tôi lặp lại.
“Ðứng dậy!” Hắn ra lệnh.
Tôi chống hai tay dưới mặt sân ướt. Tôi nghe cải hai chân tôi tê điếng.
“Anh biết tại sao tôi bắt anh đứng dậy không?”
“Không biết.”
“Anh theo tôi. Cần phải nhốt anh ở một chỗ riêng. Anh biết tại sao không?”
“Không biết.”
“Anh có biết là ngồi trong đám tù này anh đã cao hơn nhiều người tù khác không?”
“Không biết.” Tôi bắt đầu ương ngạnh.
“Vậy bây giờ biết rồi. Theo tôi!”
Bất thình lình hắn đẩy chúi tôi về phía trước. Tôi tưởng mình bị ngã sấp xuống. Cái chân đau của tôi bị nhói thấu xương.
Chỉ mấy bước ngắn hắn xô tôi qua một bên tra chìa khóa vào cánh cửa gỗ mở toang ra.
Một mùi hôi nồng nặc xông lên. Tôi đang chần chờ. Hắn đập mạnh vào ót tôi bằng một vật cứng. Tôi ngã xuống.
Tôi không nhớ mình nằm dưới mặt đất ẩm hôi hám này trong bao lâu, nhưng khi tôi tỉnh dậy, bắt đầu quen bóng tối, tôi thấy lờ mờ còn có một người tù khác đang ngồi tựa lưng vào tường. Phòng chật, tôi nghĩ vậy, bởi vì chân tôi đụng vách và tay tôi chạm vào chân một người. Không, nói đúng hơn tôi chạm vào sợi xích sắt buột vòng cổ chân người tù kia. Có lẽ ông ta còn thức, bởi vì thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng khua động của sợi xích. Bọn cán bộ đang điểm danh tù bên ngoài. Xà lim tối om.
“Có thuốc lá không?” Bất ngờ ông ta hỏi.
“Không.” Tôi trả lời thật nhanh.
Tôi không phải là người nghiện thuốc lá. Có thì hút phì phà mấy sợi khói chơi, còn không có thì thôi. Vả lại ở Rạch Sỏi, hai tên công an biên phòng đã thu hết mọi thứ trên người tôi, giấy tờ tùy thân của tôi, kể cả gói thuốc, và cái hộp quẹt zippo.
“Mới hả?”
“Mới.”
“Tội gì?”
“Tình nghi vượt biên.”
“Tình nghi?”
“Phải. Tình nghi.”
“Vậy, chắc sẽ ở lâu.”
“Tại sao?”
“Tình nghi thì phải ở lâu, tại vì có biết tội gì mà buộc mà xử.”
“Vậy có tội thì về sớm sao?”
“Tùy tội chớ. Lâu hay mau là tùy tội nặng hay là nhẹ.”
“Còn ông, ông tội gì?” Tôi hỏi.
“Không phải chuyện vượt biên đâu.”
Ông ta nói chưa hết câu, tôi chống tay ngồi dậy, dựa lưng vào vách chờ đợi ông nói tiếp. Tôi có cảm tưởng như ông sắp nói thêm một điều gì nữa. Nhưng ông ta vẫn im lặng. Tôi duỗi chân. Căn phòng này không thể giam quá một người, không khí khó thở. Mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc.
Tại sao tôi đến chốn này? Ban đêm thì tối, ban ngày thì đen.
Tôi tuyệt vọng.
Tôi như một người đi trong đường hầm. Hầm thì hun hút tối tăm đi hoài không dứt. Còn tôi thì giống như người bị chặt hết hai tay và hai chân, chỉ còn có cái đầu và thân hình bị lăn lông lốc trong đường hầm trơn trợt.
“Nè, người anh em…” Người tù bỗng gọi tôi.
Tôi không lên tiếng. Tôi chờ đợi.
“Bao nhiêu tuổi?”
“Bốn mươi.” Tôi trả lời.
“Tứ thập nhi bất hoặc! Ông nhỏ hơn tôi một con giáp.”
Tôi vẫn có cảm tưởng như ông chưa nói điều ông định nói. Một đỗi lâu, người tù tiếp:
“Ông có biết trong tù người ta dùng một người tù khác để điều tra khai thác một người hiện bị giam gọi là gì không?”
“Không!” Tôi trả lời, vì thật sự tôi không hiểu gì cả.
“Nó gọi là đặc tình.”
“Ðặc tình?”
“Phải. Nó gọi là đặc tình… Ông có phải là đặc tình không?”
Câu hỏi của ông làm tôi sửng sốt.
Vậy là sao? Trong tù còn có đặc công nằm vùng sao? Chốn nào là chốn nương thân? Tôi chồm về phía trước, nhướng to mắt nhìn chằm chằm người đối diện. Tôi không cách nào thấy rõ mặt ông ta. Tôi muốn biết sắc diện ông ra sao khi hỏi tôi và tôi cũng muốn biết phản ứng của ông khi tôi trả lời. Chịu thôi.
“Ông nghĩ tôi là đặc tình sao?”
“Tôi không nghĩ ngợi gì hết. Tôi nói trước để đề cao cảnh giác.”
“Ông khỏi cần đề cao cảnh giác. Tôi tên Trần Lâm Thăng, bị bắt ở Rạch Sỏi…”
Tôi nói một hơi. Thật tình trong thâm tâm tôi, tôi muốn mở lòng mình ra cho người cùng tù biết tôi không phải là chó săn. Tôi căm thù bọn chó săn.
“Thôi, thôi… không phải khai. Tôi đâu phải công an chấp pháp. Ðủ rồi! Tôi không phải là người dễ tin đâu.”
Người tù nói giọng nhỏ, chậm, đã bớt hoài nghi.
“Nè, người anh em. Cần phải bình tĩnh. Ở đâu cũng vậy. Cần bình tĩnh, luôn luôn bình tĩnh. Không sợ hãi. Không căm thù…”
Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì. Tôi chợt thấy toàn thân ê ẩm mệt mỏi. Tôi nhắm mắt lại, nghe rõ hơi thở của mình bắt đầu đều đặn.
“Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn.”
Tôi tưởng chừng nghe tiếng một người nào đó nói bên tai tôi một câu gần như vô nghĩa, chẳng ăn nhập gì với câu chuyện của tôi cả.
Những tia sáng của mặt trời chiếu qua song khung cửa nhỏ đánh thức tôi dậy.
Suốt đêm tôi đã ngủ theo kiểu duỗi chân và lưng tựa tường. Người cùng tù cũng ngủ theo cách đó. Nếu không có thêm một người thứ hai có thể ông ta đã nằm co gối ngủ được. Tôi thấy ông đang nhìn mình. Hai con mắt thụt sâu vào như hai cái hố. Cả khuôn mặt như cái đầu lâu của người chết nếu bóc đi làn da nhăn nheo. Ðầu ông ta không có lấy một sợi tóc. Tôi bốn mươi tuổi. Ông năm mươi hai. Hơn nhau một con giáp, ông ta nói như vậy đêm qua, nhưng nhìn ông tôi tưởng đó là người của trăm năm. Hay đúng hơn, một người đã chết vừa đội mồ đứng dậy. Hai cánh tay khẳng khiu da bọc xương của ông xếp lại đặt lên bụng, cả hai bàn tay ấp lên sợi xích sắt. Ông mặc quần đùi. Hai ống xương chân như hai cây que. Và một sợi xích sắt khác buộc vào sát cổ chân. Mùi hôi từ thân thể ông ta bốc ra cùng với cái thùng nhỏ bằng nhựa đặt ở phía tay phải tôi.
“Nè, người anh em…” Người cùng tù nói.
Tôi nhìn thấy quai hàm ông cử động. Quả thật đêm qua tôi đã hình dung ông ta khác hẳn con người bằng xương – chớ không bằng thịt trước mắt tôi.
“Không sợ hãi. Không căm thù.” Ông ta tiếp, “Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn.” Ông ta lặp lại những lời tôi đã nghe đêm qua.
Nhưng mà tôi không hiểu gì hết. Tôi nhớ Quỳnh, nhớ con tôi, nhớ khuôn mặt của Tâm khô-khốc-thiền-sư khi nhắc đến chuyện vợ con đã bị làm mồi cho biển cả trong chuyến vượt biên. Cái hình ảnh Nhật đứng với tôi trên con đường nhỏ trước một ngôi nhà ở Phú Nhuận, dưới chân đầy những sổ thông hành, bỗng nhiên hiện ra trong trí tôi. Năm năm rồi, Nhật đã bị chế độ mới bắt nhốt giam giữ tù đày ra tận miền Bắc. Những tin tức vọng về cho biết Nhật luôn luôn dũng cảm. Bố là đảng viên trung kiên không thuyết phục được Nhật “phản tỉnh” về những gì anh đã viết. Bố anh không cứu được anh, hay không dám cứu anh. Mà Nhật cũng chẳng cần kêu cứu. Sự can đảm của người trong tù luôn luôn là liều thuốc khích lệ những kẻ ngoài tù. Kỳ lạ không, chính những con người như tôi đã sống bằng hy vọng của những người đang bị giam hãm. Ký cũng đi tù chỉ để bên ngoài mối “sầu ở lại.” Lộc trình diện bọn quân quản mang theo những kỷ niệm tình ái của Sorbonne Paris, những đêm say ngất trời Chợ Ðũi. Yvonne, Denise, Catherine, Rosalie, Dominique… tóc vàng sợi nhỏ…, hắn mang tuốt luốt theo vào nhà giam. Nghĩa biến mất. Phùng biệt tăm. Ðình thu mình vào khu làng báo chí Thủ Ðức. Những chuyến vượt biên hụt, những lời nói mở ra đóng lại, hoài nghi cả người thân ruột thịt… Kiệt đâu? Tôi chợt nhớ đến người học trò đã đưa tôi đi xem ghe. Tôi lo cho Kiệt. Tôi sợ chú nhỏ không chịu nổi những nhục nhằn. Nỗi đau khổ về cái chết của người cha chưa nguôi trong trái tim chú, bây giờ chính chú gánh thêm trên vai những điều đau đớn khác. Những điều tôi từng giảng trong lớp học, tôi nghiệm ra chưa đủ giải tỏa cho tôi, liệu nó có giải tỏa được gì cho Kiệt. Ðau khổ sẽ tăng lên nếu nó đi sau một hạnh phúc. Niềm vui lúc nào cũng lớn sau một điều bất hạnh. Hạnh phúc chỉ là khoảnh khắc, và tình yêu cũng không là vĩnh cửu. Và Noccolo Machiavelli? A, tôi nhớ ra rồi, “kẻ thiết lập một nền độc tài mà không giết Brutus, thì chắc chắn ba bảy hai mươi mốt ngày…” Nhưng nó là cái gì. Chế độ mới nó là bá đạo hay vương đạo? Vương thế nào được! Machiavélisme.
Cánh cửa phòng bỗng xịch mở. Mở hé thôi. Một bàn tay đẩy vào hai chén cơm. Cơm không, không có thứ gì khác. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ tôi mới nghe tiếng khóa. Tôi bưng chén cơm đưa cho người cùng tù. Ông ta không buồn cầm. Hai con mắt ông ngó chén cơm, chân phải ông co lại, duỗi ra, sau đó chân trái ông làm một động tác y như vậy. Tôi nhìn ông, đặt chén cơm xuống đất. Tôi thấy đói, đói lắm. Tôi dúm tay bốc cơm. Tôi ăn bằng những ngón tay. Tôi nghe vị ngọt ở đầu lưỡi. Những hột cơm đi qua cuống họng, sau khi đã bị răng nghiền nát, thơm như mùi chả ram. Tôi cảm thấy như vậy. Tôi không hề cảm tưởng. Mắt tôi, cả thân thể tôi chằm chằm vào chén cơm. Tôi đói như chưa bao giờ đói như thế.
Bỗng nhiên có một cái gì đó nhói trong đầu tôi. Tôi ngước nhìn lên, người tù già đang nhìn tôi. Hình như, tôi ngượng. Tôi đặt chén cơm xuống đất. Những ngón tay tôi còn dích những hột cơm. Tôi không biết để vào đâu bàn tay của mình.
“Ông không đói sao?”
“Không.” Ông ta lắc đầu. “Chưa tới giờ ăn của tôi.” Ông tiếp tục nhìn tôi đỗi lâu, tiếp, “Mà người anh em chưa ăn uống mấy bữa rồi?”
Tôi nhớ lại lúc bước chân xuống xe lam ở Rạch Sỏi. Hình như hai ngày tôi không có gì bỏ bụng. Tôi có được uống nước, nhưng ăn thì không.
Tôi không muốn trả lời người tù già. Tôi thấy đói. Tôi đang đói. Người ta không chỉ sống bằng bánh mì. Ai nói vậy? Người ta đâu chỉ sống bằng cơm gạo. Ðúng vậy. Nhưng không có bánh mì, cơm gạo thì trước hết người ta sống bằng cái gì? Tôi cúi xuống vét tiếp những hột cơm còn thừa trong chén. Tôi làm sạch không còn một hột. Tôi xòe bàn tay ra. Tôi gặm những ngón tay còn vướng cơm. Tôi biết người tù già đang nhìn tôi. Mặc kệ. Tôi phủi tay, tựa lưng vào vách nhà giam. Tôi thở.
“Nè, người anh em…” Người tù gọi.
Tôi nhìn ông. Chiếc đầu không sợi tóc của ông như cái đầu lâu. Những hốc mắt, hố mũi, hố miệng, răng. Một xác chết biết nói.
“Kêu tôi là Tư Long.”
Tư Long kể ông ta là đảng viên, là cựu thành viên Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng. Tư Long hoạt động nội thành, làm nghề lái tắc xi. Trong vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân, quân “giải phóng” bị bại nặng khi quân lực Việt Nam Cộng Hòa phản công mạnh. Bộ đội vừa đánh vừa tháo chạy. Nhiều tên lạc đường bị bắt. Lúc đó Tư Long phụ trách một đường dây. Tư Long chở hai người bộ đội bị thương đi “ém” ở một địa điểm gần xã Bình Chánh. Tư Long quen một bác sĩ quân y Saigon. Tư Long đến than với người y sĩ là vợ mình bị bệnh nặng sắp chết. Người y sĩ bị cấm trại, vừa xếp đặt với một đồng nghiệp về thăm nhà mấy tiếng đồng hồ, thấy tình cảnh đáng thương của Tư Long nhận lời.
Tư Long chở ông ta đến chỗ ém mấy người bộ đội bị thương, bắt điều trị. Sau khi Tư Long đưa bác sĩ quân y trở về, một người bộ đội được cứu đưa ra bưng trở lại. Người kia đang hấp hối. Khi người bác sĩ quân y trở về anh ta cũng vừa tắt thở. Tư Long đành chôn người bộ đội tại chỗ. Tư Long bị nghi là cấu kết với “sĩ quan ngụy” giết bộ đội. Tư Long bị gọi vô bưng, bị bắt giam một nơi trong rừng. Nhà tù của “quân giải phóng” là một cái hầm sâu trên ba thước, bên trên được đậy bằng một tấm phên tre và phủ bằng các nhánh cây. Ban đêm tù nhân bị còng dính chung vào một thanh sắt dài và nặng, không cách nào đứng dậy được. Muốn tiểu tiện gì phải “đi” tại chỗ. Phần ăn mỗi ngày một bữa, khoai mì và muối. Ðói là căn bản. Cho nên ban ngày hay ban đêm, bất cứ lúc nào vồ được con nhái, con cào cào là bỏ ngay vào miệng ngấu nghiến. Tư Long bị tù từ trong rừng tù ra. Tư Long nói tù ở đây sướng hơn tù ở rừng. Mặc dầu cơm chỉ được ngày một bữa, nhưng là cơm chớ không phải khoai mì. Vả lại tuy bị cùm chân còng tay, nhưng là cùm chân một mình chứ không phải cùm chung bằng một thanh sắt dài. Tư Long nói có lần đau khổ quá không chịu nổi, Tư Long buột miệng niệm Phật Quán Thế Âm Bồ Tát, tên bộ đội canh giữ tình cờ nghe được đập cho một báng súng AK. Tư Long bị quy thêm tội tư sản, lạc hậu, mê tính, dị đoan!…
Người ta muốn đem Tư Long ra xử, nhưng không biết xử như thế nào cho phải. Tư Long có thành tích cách mạng, có tuổi đảng, nhưng Tư Long chỉ có một tội là bị tình nghi. Lúc đầu Tư Long lý luận mình không có làm gì sai trái, trước sau chi rồi “đảng” cũng sẽ rõ, sẽ thấu, sẽ trả tự do cho mình, sẽ được minh oan. Cá nhân mình có phải gánh chịu một vài đau khổ thì có sá gì với nỗi khổ đau của cả dân tộc. Tư Long lý luận kiểu đó để an ủi mình nhưng dần dà niềm tin được ngọn đèn “công lý cách mạng” chiếu rọi bị lung lay. Tư Long nhiều lần nói với người coi tù xin được đưa ra tòa án xét xử.
Nhưng lời kêu xin của ông như những hạt bụi rơi vào khoảng không. Có lần Tư Long nài nỉ xin được tờ giấy cây bút, Tư Long làm đơn gửi lên trên xin sớm được đem ra xét xử. Nhưng một lần nữa tiếng kêu của ông không hề được vọng lại. Tư Long mòn mỏi chờ, mỗi ngày thêm một tuyệt vọng. Tư Long bắt đầu chửi, chửi từ trên xuống dưới. Tư Long đem tên tuổi tất cả lãnh đạo đảng ra phỉ báng.
Có lần Tư Long đánh người coi tù đưa cơm, vì “câm miệng hến” nhất định không trả lời bất cứ câu hỏi nào của Tư Long. Tư Long bị cùm tay cùm chân, nhốt riêng. Ít lâu sau Tư Long không chửi nữa. Người ta tháo cùm cho Tư Long. Tư Long bóp cổ người coi tù. Tư Long vượt ngục hụt. Tư Long bị cùm cả tay chân trở lại. Tư Long đang chết mòn trong chờ đợi thứ ánh sáng công lý mà có lúc Tư Long tin tưởng.
Tôi hiểu tại sao Tư Long nói với tôi “tội tình nghi” chắc là sẽ ở lâu.
Tư Long hỏi:
“Nè, người anh em… ở đâu vậy?”
“Saigon.”
“Ðường nào?”
“Ðường Võ Tánh. Khu Mã Lạng.”
“Gần rạp Quốc Thanh phải không?”
“Sao ông rành vậy?”
“Trời, dân tắc-xi mà!”
Ông nhắc thời kỳ chạy tắc-xi ở Saigon. Nghề tắc-xi có nhiều kỷ niệm.
“Tội nghiệp cái ông đại úy bác sĩ có lần bị tôi gạt. Không biết ổng có đi vượt biên được không?”
“Nếu đi không được cách mạng cũng phải đền ơn đáp nghĩa ổng chớ! Ổng đã từng cứu người của cách mạng mà!”
“Mà ai làm chứng là ổng có cứu người của cách mạng? Người nào? Ở đâu? Hồi nào?”
“Thì ông làm chứng.”
Tư Long khua sợi xích sắt cười không ra tiếng.
“Nè, người anh em… Tổ mẹ nó tui như vầy tôi còn làm chứng cho ai!”
Tôi không ở lâu với Tư Long. Một tuần sau tôi được cho ra ngoài. Chân tôi đã hết đau từ hôm nào tôi cũng không rõ. Tôi có một chỗ nằm bên rãnh nước chảy từ nơi rửa chén của cái giếng giữa nhà giam. Tôi hít thở được khí trời. Thỉnh thoảng trong đêm tôi nghe tiếng xích sắt khua trong xà lim của Tư Long.
Tôi không biết bao giờ mình được đem ra xét xử. Tôi không biết Quỳnh và con bây giờ sống chết ra sao. Tôi ở đây cứ cho là yên thân đi. Tôi thấy mình lo cho người thân ở ngoài hơn là lo cho chính bản thân tôi.
Cũng như Tư Long, tôi chờ đợi.
Tôi không phải chờ đợi lâu. Một tuần sau khi được đưa ra nằm bên rãnh nước rửa chén, tôi bị tên coi ngục đánh thức đi “làm việc” vào lúc nửa khuya về sáng. Người công an chấp pháp ngồi trước mặt tôi khá quen. Cô tên Nhị Hà.