Chương I Trở về miền Nam
Vào một buổi trưa lạnh lẽo ngày thứ bảy tháng Một năm 1954, tôi bắt đầu hành trình từ Atlanta thuộc bang Georgia đến Montgomery của bang Alabama. Đó là một ngày mùa đông trời quang đãng, radio trên xe đang phát sóng vở opera tôi yêu thích, "Nàng Lucia của núi Lammermoor", sáng tác của Donizetti do đoàn Metropolitan Opera trình bày. Vẻ đẹp của cảnh làng quê cùng với cảm hứng từ giai điệu độc đáo không ai có thể làm hay hơn được của Donizetti và mây trời đã xua đi sự buồn tẻ thường có trên những chuyến đi dài, nhất là những chuyến đi đơn độc.
Sau vài giờ đồng hồ lái xe ngang qua cánh đồng mượt mà phì nhiêu, tôi đến dòng sông Alabama uốn cong bên bãi Montgomery. Dù trước đây tôi đã đi ngang qua thành phố này nhưng tôi chưa một lần nào thật sự vào viếng thăm. Đây là cơ hội để thăm thành phố dễ thương này trong một vài ngày, một trong các thành phố cổ nhất nước Mỹ.
Một người bạn đưa tôi đi thăm Nhà thờ Baptist Dexter Avenue sau khi tôi đến không lâu. Đó là ngôi nhà thờ tôi sẽ giảng vào buổi sáng hôm sau, một công trình kiến trúc kiên cố bằng gạch được xây dựng vào thời điểm tái thiết đất nước Hoa Kỳ (1863-1877). Ngôi nhà thờ tọa lạc ở một góc đẹp của quảng trường không xa trung tâm thành phố lắm. Khi chúng tôi đến nhà thờ, tôi để ý thấy chéo qua bên kia quảng trường có một ngôi nhà màu trắng cân xứng nguy nga tuyệt đẹp. Đó là State Capitol được xây vào năm 1851 với mái vòm cao ở giữa là một trong những mỹ thuật cổ điển của kiến trúc Georgia ở Mỹ. Tại đây vào ngày 7 tháng 1 năm 1861, Alabama nhận được phiếu thuận để ly khai khỏi Liên bang, sau đó vào ngày 18 tháng 2, dưới mái cổng trên những bậc tam cấp của tòa nhà ấy, Jefferson Davis tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống Liên Minh Miền Nam (các bang ly khai Hoa Kỳ trong thời kỳ nội chiến 1861-1865). Vì lý do này Montgomery được biết đến như chiếc nôi của Liên Minh và lá cờ của Liên Minh Miền Nam được ra đời và bay phất phới lần đầu tiên ở đây. Hiện tại nhiều mô hình của Liên Minh xưa và những truyền thống từ trước chiến tranh vẫn còn tồn tại ở Montgomery bên cạnh sự phát triển kinh tế theo trào lưu mới năng động và nổi trội.
Vài năm sau đó tôi vẫn còn được nhìn tòa nhà uy nghi gợi nhớ lại Liên Minh xưa khi đứng trên tam cấp của nhà thờ Baptist Dexter Avenue. Cuộc viếng thăm của tôi vào tháng Một này như đã báo hiệu tôi sẽ về sống ở Montgomery.
Vào tháng 8 năm 1953, sau khi đã học liên tục hai mươi mốt năm không gián đoạn, tôi cũng đã tiến lên được đến học vị tiến sĩ. Việc chính yếu còn lại là viết luận án. Trong thời gian đó tôi nghĩ nên bắt đầu tìm việc để muộn nhất đến tháng 9 năm 1954 tôi có chỗ làm. Có hai Nhà thờ nằm ở miền Đông - một ở Massachusetts và một ở New York đã bày tỏ mong muốn mời tôi. Có ba trường đại học đã ngỏ ý mời tôi đảm nhận những chức vụ hấp dẫn với nhiều thử thách: một là giảng dạy, hai là trưởng phân khoa và ba là chức vụ hành chính. Trong lúc còn suy nghĩ chưa biết chọn cái nào, tôi nhận được một bức thư từ văn phòng của nhà thờ Baptist Dexter Avenue ở Montgomery viết rằng họ đang thiếu mục sư và sẽ rất vui nếu tôi có thể ghé đến giảng khi có dịp đi qua miền Nam này. Những viên chức gửi lời mời biết tôi qua lời kể của cha tôi ở Atlanta và những người bạn mục sư khác. Tôi vội viết thư hồi âm ngay để thông báo rằng tôi sẽ về nhà ở bang Atlanta vào dịp nghỉ Giáng sinh và tôi sẽ rất vui được đến Montgomery để giảng vào một ngày chúa nhật trong tháng Một.
Ngôi nhà thờ tương đối nhỏ với khoảng 300 tín đồ nhưng chiếm tâm điểm quan trọng trong cộng đồng. Nhiều công dân có uy tín được trọng vọng, đó là những chuyên gia với thu nhập đáng kể là thành viên của giáo hội. Ngoài ra, ở đây có truyền thống lâu năm là các vị mục sư rất uyên bác. Có nhiều mục sư da đen được huấn luyện tốt nhất quốc gia từng làm mục sư ở đây.
Chiều thứ bảy hôm đó, khi tôi xem lại bài sẽ giảng, tôi cảm giác rõ sự hồi hộp. Dù trước đây tôi đã thuyết giảng nhiều lần, từng làm mục sư phụ tá bốn năm ở nhà thờ của cha tôi tại Atlanta, đảm trách việc thuyết giảng ở đó liên tiếp ba mùa hè, nhưng lần này tôi biết là một sự thử thách. Làm thế nào để gây ấn tượng tốt nhất với cộng đoàn? Họ là những người học cao và thông minh trí tuệ, không lẽ tôi sẽ cố gắng gây chú ý bằng sự khoe khoang học rộng? Hay là tôi cứ thuyết giảng như tôi vẫn thuyết giảng, sẽ tùy vào cảm hứng và phó thác hoàn toàn vào Thánh linh của Thượng Đế? Cuối cùng tôi đã chọn cách sau. Tôi nhủ với lòng hãy quên cái tôi Martin Luther King, nhớ đến Thượng Đế thì mọi việc sẽ ổn. Hãy nhớ rằng mình chỉ là phương tiện của Phúc Âm, chứ không phải là ngọn nguồn.
Đúng 11 giờ ngày Chúa nhật, tôi đứng trên bục giảng trước đại cộng đoàn lớn. Để tài tôi chọn là “Ba thước đo của một cuộc sống hoàn thiện”. Sau buổi thuyết giảng, cộng đoàn đã đón nhận tôi. Tôi ra về mang theo cảm giác rằng Chúa đã trọng dụng mình, rằng đây là một nhà thờ tốt với những cơ hội đầy thách thức. Gần cuối ngày, ủy ban Quản trị bàn với tôi nhiều chi tiết về các vấn đề của nhà thờ, và hỏi tôi nghĩ sao nếu họ mời tôi làm mục sư. Sau khi trả lời rằng tôi xin xem xét lời mời này một cách chân thành và nghiêm túc nhất, tôi rời Montgomery đi Atlanta, rồi bay trở về Boston.
Khoảng một tháng sau đó tôi nhận được một bức thư gửi đảm bảo từ Montgomery, cho biết rằng tôi đã được nhất trí mời làm mục sư của Nhà thờ Baptist Dexter Avenue. Tôi đã rất vui khi nhận được lời đề nghị này, nhưng đã không hồi âm ngay, vì tôi định bay đến Detroit sáng hôm sau để dự buổi thuyết giảng vào Chúa nhật kế đó.
Hôm đó là ngày gặp phải thời tiết xấu với những đám mây lơ lửng dưới thấp, nhưng khi máy bay lên cao thoát ra khỏi vùng thời tiết đó, sự bập bềnh nhanh chóng qua đi. Trong lúc ngắm nhìn từng gợn mây màu bạc bên dưới cùng cái bóng đen tuyền của bầu trời trên kia, tôi trăn trở với suy nghĩ nên làm gì với những lời đề nghị mình nhận được. Lúc đó suy nghĩ của tôi như chia ra hai hướng. Một mặt tôi thiên về giới mục sư, mặt khác lại nghiêng về công việc nhà giáo. Tôi nên chọn lối nào đây? Và nếu tôi nhận việc ở nhà thờ, thì nên chọn cái nằm ở Miền Nam với tất cả ý nghĩ bi thương về nạn phân biệt chủng tộc, hay chọn một trong hai chỗ tại Miền Bắc.
Nhớ lại thời còn nhỏ, tôi đã từng bất bình với nạn phân biệt, đã từng gặng hỏi bố mẹ và thắc mắc về nó. Hồi còn chưa đủ tuổi đến trường tôi đã biết được đôi điều về phân biệt chủng tộc. Sau suốt ba bốn năm chơi chung với hai người bạn da trắng nối khố của tôi có bố mẹ kinh doanh cửa hiệu phía bên kia đường nhà tôi ở Atlanta thì có chuyện xảy ra. Khi tôi sang đường để tìm bọn nó, bố mẹ của chúng bảo rằng chúng không thể đi chơi. Họ không tỏ vẻ ghét tôi, họ chỉ kiếm cớ từ chối thôi. Cuối cùng tôi đã hỏi mẹ về chuyện đó.
Mỗi bậc cha mẹ, ở một thời điểm nào đó sẽ thấy khó giải thích cho con trẻ về sự thật của cuộc đời. Với người da đen cũng không ngoại lệ, đó là lúc họ phải giải thích cho con mình về sự thật nạn phân biệt chủng tộc. Mẹ tôi đã kéo tôi vào lòng và bắt đầu kể tôi nghe về chế độ nô lệ và sự chấm dứt của nó sau Cuộc Nội Chiến. Bà cố gắng giải thích cho tôi hiểu rằng, ở miền Nam này tất cả các trường học, nhà hàng, rạp hát, nhà cửa, các biển ghi dành cho người da trắng và da màu được dán ở mấy trụ uống nước, phòng chờ, nhà vệ sinh đều là sự sắp đặt có chủ ý của chính quyền để chia rẽ, phân biệt màu da chứ không phải là sự ngẫu nhiên. Rồi bà nói ra câu mà hầu hết mọi người dân da màu đều nghe trước khi có thể hiểu được sự bất công khiến cho những từ ấy trở nên thật cần thiết: “Con cũng tốt như mọi người thôi”.
Mẹ tôi, con gái của một mục sư thành đạt, đã lớn lên tương đối an lành. Bà được học ở những trường phổ thông và đại học tốt nhất thời bấy giờ và nhìn chung được bảo vệ khỏi những tác động tồi tệ nhất của nạn phân biệt chủng tộc. Nhưng cha tôi, con trai của một tá điền đã trực tiếp nếm trải sự tàn bạo ấy, và đã biết đánh trả từ khi còn trẻ. Với bản tính trung thực đầy quả cảm và vóc dáng mạnh mẽ, cường tráng của mình, lời lẽ của ông khiến người ta phải chú ý.
Tôi nhớ như in hồi còn nhỏ, một lần đi với cha vào một hiệu giày ở trung tâm thành phố. Chúng tôi ngồi xuống hàng ghế đầu còn trống ở trước cửa hàng. Một nhân viên da trắng đến chỗ tôi và lịch sự nói khẽ:
“Tôi sẵn lòng phục vụ ông chỉ cần ông dời xuống hàng ghế phía sau.”
Cha tôi đáp: “Mấy cái ghế này ổn mà. Chúng tôi khá thoải mái.”
“Xin lỗi,” người nhân viên nói, “nhưng ông phải dời xuống.”
“Ngồi đây thì tôi mua giày” cha tôi vặn lại, “còn không thì khỏi mua”. Ngay sau đó ông nắm tay tôi bước ra khỏi cửa hàng. Đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến cha mình giận dữ đến như vậy. Lúc bước ra khỏi cửa hàng, ông cằn nhằn: “Dù không biết phải sống với cái hệ thống này bao lâu nữa, nhưng cha sẽ không bao giờ chấp nhận nó.
Và đúng là như vậy. Còn nhớ một hôm đang chạy xe thì ông bất ngờ vượt qua một biển báo dừng. Một người cảnh sát chặn xe lại và nói:
“Được rồi, cậu nhóc, hãy tấp vào lề và cho xem bằng lái nào.”
Cha tôi đáp lại một cách bực bội: “Tôi không phải là cậu nhóc”, rồi chỉ vào tôi, “đây mới là cậu nhóc. Tôi là đàn ông, và chừng nào anh còn gọi tôi như vậy, tôi sẽ không nghe theo đâu”.
Viên cảnh sát đã bị sốc đến nỗi rất lúng túng khi viết giấy phạt rồi nhanh chóng bỏ đi.
Từ trước khi sinh tôi ra, cha tôi đã không chịu đi xe buýt của thành phố nữa sau khi chứng kiến nhiều hành khách da đen bị tấn công tàn bạo. Ông từng dẫn đầu một cuộc đấu tranh ở Atlanta để đòi bình đẳng về đồng lương của giáo viên, và đóng vai trò quan trọng trong việc hủy bỏ luật kỳ thị thang máy Jim Crow tại tòa án (người da đen không được đi chung thang máy với người da trắng). Là mục sư của Nhà thờ Baptist Ebenezer, nơi ông vẫn chủ trì một cộng đoàn 4.000 người, ông có ảnh hưởng rất lớn trong cộng đồng người da màu, cũng vì vậy mà người da trắng đã phải tôn trọng ông một cách miễn cưỡng. Dù thế nào, họ vẫn chứa bao giờ dùng vũ lực đối với ông, một điều mà anh chị tôi và tôi vẫn thấy lạ khi lớn lên trong bầu không khí đầy căng thẳng này.
Kế thừa điều này, không có gì ngạc nhiên khi tôi cũng căm ghét sự phân biệt, nó vừa vô lý vừa vô đạo đức. Từ khi là một vị thành niên tôi chưa bao giờ có thể chấp nhận phải xuống ngồi hàng ghế phía sau xe buýt hay ngồi một nơi riêng biệt trên tàu hoả. Lần đầu tiên bị bắt ngồi sau tấm màn ngăn ở toa ăn trên xe lửa, tôi cảm tưởng như thể tấm màn đang làm nhục tôi vậy. Cũng có sở thích phim ảnh như bao thằng con trai đang lớn, nhưng tôi chỉ đến rạp chiếu phim duy nhất một lần vì bị bắt đi bằng cửa sau và ngồi ở hàng ghế hạng bét bẩn thỉu nhếch nhác đến mức ghê tởm làm tôi không tài nào tận hưởng được cuốn phim. Tôi chưa bao giờ có thể thích nghi được với mấy phòng chờ tách biệt, chỗ ăn tách biệt, phòng vệ sinh tách biệt, phần vì cái tách biệt đó luôn bất bình đẳng, phần vì chính dụng ý về mấy chỗ tách biệt đó đã động chạm đến phẩm giá và lòng tự trọng của tôi.
Giờ đây, trong lúc máy bay đưa tôi đến Detroit, tôi nghĩ mình đang có cơ hội thoát ra khỏi bóng đêm dai dẳng của nạn phân biệt? Tôi có nên quay về sống trong một xã hội chấp chứa cái hệ thống mà tôi căm ghét từ thời thơ ấu không?
Những trăn trở này vẫn chưa có lời đáp khi tôi trở lại Boston. Tôi đã chia sẻ điều này với vợ mình, Coretta (chúng tôi đã kết hôn chưa được một năm), và biết được rằng cô cũng phân vân về chuyện trở lại miền Nam. chúng tôi đã bàn bạc một vấn đề hệ trọng là có nên để con cái lớn lên trong xiềng xích của nạn phân biệt không. Chúng tôi hồi tưởng về thời quá khứ của mình ở miền Nam, và những quyền lợi mà chúng tôi bị tước đoạt bởi hậu quả của nạn phân biệt. Câu hỏi về sự nghiệp âm nhạc của vợ tôi cũng được bàn đến. Cô ấy đã đinh ninh rằng một thành phố ở miền Bắc sẽ mở ra nhiều cơ hội để tiếp tục học hơn là một thành phố ở miền Nam xa xôi. Suốt mấy ngày chúng tôi nói chuyện, suy nghĩ và cầu nguyện. Cuối cùng chúng tôi nhất trí rằng, mặc cho những bất lợi và sự hy sinh không tránh khỏi, chúng tôi có thể phục vụ nhiều hơn ở miền Nam, nơi chúng tôi đã sinh ra. Chúng tôi đi đến kết luận rằng mình phải có trách nhiệm lương tâm để quay trở về - ít nhất là trong vài năm.
Dù thế nào miền Nam vẫn là quê hương của chúng tôi, dẫu nó có khiếm khuyết chúng tôi vẫn yêu và vẫn ôm ấp một khát khao thực sự muốn làm điều gì đó để cải thiện những vấn nạn đã hiện hữu từ thời niên thiếu đến nay. Chúng tôi chưa bao giờ muốn bị xem như những kẻ ngoài cuộc vô lo vô nghĩ. Vì nạn phân biệt chủng tộc diễn ra nặng nề nhất ở miền Nam, nên chúng tôi nghĩ rằng những người da màu đã được đào tạo bài bản tại những vùng miền khác của đất nước, nên trở vé để chia sẻ những kiến thức, tư tưởng cởi mở và kinh nghiệm giáo dục để giúp cải thiện tình trạng này. Hơn thế nữa, dù cho có phải hy sinh nếp sống văn hoá mà chúng tôi yêu thích, dù cho có sự tồn tại của luật phân biệt Jim Crow - thứ không ngừng gợi nhắc chúng tôi về màu da của mình - chúng tôi có một cảm giác rằng có điều gì đó rất đặc biệt đang tiềm ẩn và sẽ xảy ra ở miền Nam. Và chúng tôi muốn được tận mắt chứng kiến nó. Vùng đất này có sẵn những khả năng phi thường, một khi nó thức tỉnh và gạt bỏ được những tác động xấu từ nạn phân biệt chủng tộc, nó sẽ tạo ra một cú đột phá về giá trị đạo đức, chính trị và kinh tế hiếm khi có ở những khu vực khác của đất nước.
Với suy nghĩ này tôi tạm thời muốn nhận việc làm mục sư hơn là đi dạy. Và tôi quyết định nhận lời mời đến Dexter trong vài năm. Sau đó nếu còn đam mê việc dạy học, tôi sẽ trở lại đi dạy. Tôi đã gửi một bức điện tín đến Montgomery nói rằng tôi sẽ xuống đó trong tuần tới để bàn bạc chi tiết.
Vậy là tôi trở về Montgomery. Sau khi đánh giá những sắp đặt của nhà thờ, tôi nhận lời làm mục sư. Vì có dự tính dành ít nhất bốn tháng làm việc cật lực cho luận án tiến sĩ của mình, tôi đã đưa ra điều kiện là tôi sẽ không làm việc toàn thời gian cho đến ngày 1 tháng Chín năm 1954, và được nhà thờ chấp thuận. Tuy nhiên, tôi đồng ý xuống Montgomery ít nhất mỗi tháng một lần để đảm bảo mọi việc diễn ra suôn sẻ trong thời kỳ chuyển giao này. Vào một ngày Chúa nhật tháng Năm năm 1954, tôi đã có bài giảng đầu tiên trong vai trò mục sư của Nhà thờ Baptist Dexter Avenue và trong vòng bốn tháng sau đó, tôi thường xuyên bay đi bay về giữa Boston và Montgomery.
Trong chuyến đi vào tháng Bảy, tôi đi cùng với Coretta. Montgomery chẳng xa lạ gì với cô ấy, vì chỉ cách nhà cô ấy có tám mươi dặm tại thị trấn nhỏ Marion, bang Alabama. Ở đó cha cố, ông Obie Scott, mặc dù sinh ra tại một nông trại nhưng đã gặt hái thành công trong sự nghiệp kinh doanh, mở ra một doanh nghiệp nhỏ chở gỗ, một trạm xăng, một cửa hàng bách hoá, và một nông trại gà. Mặc cho những mối đe dọa trả thù và vũ lực từ các đối thủ da trắng, ông vẫn tạo được một thu nhập kha khá cho gia đình với một quyết tâm và một niềm tin bất biến vào tương lai. Coretta đã sống ở Marion cho đến khi đi học Đại học Antioch ở Yellow Springs, Ohio. Thừa hưởng tài năng âm nhạc từ mẹ, bà Bernice Scott, cùng với sự quyết tâm âm thầm, cô ấy đã giành được suất học bổng của Nhạc viện New England tại Boston. Tại đây tôi có dịp làm quen và đã trót yêu cô ca sĩ đầy nét quyến rũ, với tính cách thuỳ mị và phong thái đĩnh đạc không gì che lấp được tâm hồn đầy sức sống của cô ấy. Mặc dù chúng tôi đã trở về Marion vào ngày 18 tháng Sáu năm 1953 để cử hành hôn lễ trên bãi cỏ rộng của nhà Scott, do bố tôi làm chủ hôn, nhưng Boston mới là nơi chúng tôi bắt đầu cuộc sống hôn nhân.
Trong chuyến đi hồi tháng 7, Coretta đã có cái nhìn khác về Montgomery. Từ khi còn là một thiếu nữ, cô ấy đã được sống trong bầu không khí của các trường đại học bình đẳng sắc tộc, và ở trong nhà người da trắng như một vị khách được chào đón. Giờ đây, trong quá trình chuẩn bị cho sự trở về dài hạn tại miền Nam, cô ấy đã ghé thăm khu vực người da màu của thị trấn nơi chúng tôi sắp ở mà không có lựa chọn nào khác. Cô ấy đã thấy những người da màu bị dồn về phần đuôi xe buýt trong sự kỳ thị chủng tộc và biết rằng mình cũng sẽ lên những chuyến xe đó. Cũng trong lần ghé thăm đó, cô ấy được giới thiệu với nhà thờ và được cộng đoàn ở đó tiếp đón nồng hậu. Tinh thần lạc quan và tính tình hiền hoà của cô ấy là những phẩm chất để trở thành hậu phương vững chắc cho tôi trong những ngày sắp tới cô ấy đặt niềm tin vào những cơ hội và thử thách trong việc phụng sự Kito giáo ở Dexter và cộng đồng Montgomery.
Vào ngày 1 tháng Chín năm 1954, chúng tôi chuyển đến ngôi nhà dành cho mục sư và bắt đầu công việc làm mục sư toàn thời gian. Mấy tháng đầu tôi bận rộn với những việc bình thường lặt vặt để tìm hiểu nhà mới, công việc mới và thành phố mới. Có những người bạn cũ được dịp hội ngộ và những người bạn mới để làm quen, và một chút thời gian nghĩ đến không chỉ đời tư mà còn quan sát cuộc sống của cộng đồng xung quanh nói chung. Mặc dù rằng chúng tôi quay về miền Nam với hy vọng góp sức vào công cuộc đổi mới ở phía trước, nhưng vẫn chưa hình dung được những thay đổi đó sẽ đến như thế nào. Và không hề hay biết rằng chỉ trong hơn một năm sau chúng tôi sẽ tham gia vào một phong trào làm thay đổi Montgomery mãi mãi và tạo được tiếng vang ra toàn thế giới.