Chương II Montgomery trước ngày phản kháng
Với tôi, CÔNG TÁC GIÁO HỘI vốn rất thú vị ngay từ lúc đầu. Vì thế vài tuần đầu tiên của mùa thu năm 1954, tôi dành trọn cho việc lập một chương trình có ý nghĩa đối với cộng đoàn đặc biệt này. Tôi thấy lo lắng khi muốn thay đổi ấn tượng trong suy nghĩ lâu nay của cộng đồng rằng Dexter là một kiểu nhà thờ quý tộc chỉ phục vụ một tầng lớp nhất định, nó thường được gọi là “Nhà thờ của các ông lớn”. Ý tưởng muốn thay đổi này xuất phát từ niềm tin rằng, cách thờ phượng linh thiêng nhất là khi tất cả mọi người trong xã hội, không phân biệt tầng lớp, cùng tìm về chân lý duy nhất, cùng hòa hợp và đoàn kết dưới chân Đức Chúa Trời. Còn bất cứ nhà thờ nào, dù là vô tình hay có chủ ý chỉ phục vụ cho một tầng lớp nhất định thì nơi đây sẽ đánh mất tinh thần “bất kể là ai nếu muốn, hãy để họ đến” của giáo lý, và có nguy cơ biến thành một câu lạc bộ giao lưu không hơn không kém mà được phủ lớp mành tôn giáo.
Tôi cũng quan tâm đến việc mở rộng chương trình phụ trợ của nhà thờ. Những hoạt động này, trước khi tôi đến, chủ yếu là gồm Lớp học Chúa Nhật, nơi người lớn và trẻ em tập trung lại để nghiên cứu các giáo lý của Cơ Đốc giáo và Kinh Thánh. Công đoàn Huấn luyện của phái Baptist (The Baptist Training Union) được thiết lập để đẩy mạnh sự lãnh đạo của Cơ Đốc giáo và Hội Truyền giáo, mang thông điệp của nhà thờ đến cộng đồng. Một số các chức năng mới mà tôi giới thiệu là ủy ban Phục Hồi Giáo Dục Tôn Giáo; ủy ban Dịch Vụ Xã Hội để thông tin và cung cấp dịch vụ cho người bệnh và người nghèo; ủy ban Hành Động Xã Hội và Chính Trị; ủy ban Nâng Cao và Quản Lý Quỹ học bổng cho sinh viên tốt nghiệp trung học và ủy ban Văn Hóa để khuyến khích các nghệ sĩ có triển vọng. Vì nhiều điểm trong chương trình mới cần thay đổi cách làm truyền thống khiến tôi hơi nghi ngại liệu nó có được chấp nhận. Do đó, tôi đã trình bày các khuyến nghị của mình với nhà thờ trong tâm trạng lo lắng. Song, điều đáng ngạc nhiên là họ đã đón nhận thật nồng nhiệt và chân thành. Từ thời điểm ấy trở đi, các thành viên hợp tác và phản hồi rất tích cực. Hầu như ngay lập tức số thành viên bắt đầu tăng lên. Báo cáo tài chính trong sáu tháng đầu tiên cho biết rằng thu nhập của nhà thờ đã tăng gần gấp ba lần so với những năm trước. Các ủy ban mới thành lập đã hoạt động tốt, và chương trình Giáo dục Tôn giáo được đặc biệt ưu tiên nhờ có sự đào sâu nghiên cứu.
Trong nhiều tháng, tôi phải phân chia thời gian và công sức của mình để đồng thời hoàn thành luận án và thực hiện nhiệm vụ với nhà thờ. Tôi dậy lúc 5 giờ 30 mỗi sáng và dành ba tiếng đồng hồ để viết luận án, ban đêm quay lại dành thêm ba tiếng nữa. Phần còn lại của ngày dành cho công việc nhà thờ bao gồm lễ cưới, tang lễ và các cuộc họp cá nhân riêng lẻ bên cạnh những việc phụng sự hàng tuần. Nhà thờ còn đi thăm và cầu nguyện mỗi tuần một ngày cho các thành viên bị ốm hay nằm nhà không đi lễ được.
Phần lớn thời gian trong những ngày đầu là dùng để làm quen với tất cả các thành viên của cộng đoàn. Điều này đòi hỏi phải đến nhà thăm họ và tham gia những cuộc họp tư vấn khác nhau trong nhà thờ. Hầu như mỗi tuần tôi đều tham gia từ năm đến mười cuộc họp nhóm như vậy nên các giờ đầu của buổi tối tôi đều bận rộn với công việc này. Tôi cũng dành tối thiểu mười lăm giờ một tuần để chuẩn bị bài giảng cho ngày Chúa nhật. Tôi thường bắt đầu phác thảo từ ngày thứ Ba, sang thứ Tư tôi nghiên cứu tài liệu, suy nghĩ tìm cách dẫn chứng các tình huống trong cuộc sống để bài giảng có nội dung thực tế. Vào thứ Sáu, tôi bắt đầu viết và thường hoàn thành vào tối thứ Bảy.
Tôi còn bỏ thêm thời gian để nghĩ tới những nhu cầu và lợi ích hiện thời của cả cộng đồng rộng lớn ở Montgomery. Nền kinh tế của thành phố được hưởng lợi bởi sự hiện diện của căn cứ Không quân Maxwell và Gunter. Theo báo cáo hàng năm của Phòng Thương mại Montgomery, hai căn cứ này đổ tổng cộng 58 triệu đô la vào nền kinh tế Montgomery trong năm 1955. Cứ mười bốn thường dân làm việc tại Montgomery thì có một người làm việc tại các căn cứ này, và cứ khoảng bảy gia đình thì có một gia đình không quân, dù là dân sự hay quân sự. Bốn ngàn gia đình sống bên ngoài căn cứ có nhà trong Thành phố. Nhưng mỉa mai thay, các căn cứ đã đóng góp rất nhiều vào đời sống kinh tế của cộng đồng được sống hòa hợp bình đẳng với nhau hoàn toàn, còn Thành phố xung quanh họ thì vẫn phải tuân theo luật lệ phân biệt chủng tộc rất nặng nề. Cho nên, người ta luôn ao ước rằng sức mạnh kinh tế to lớn của các cơ quan liên bang sẽ làm thay đổi tốt hơn các quan hệ chủng tộc ở Montgomery.
Montgomery hiện đại là một thị trường nổi bật về bông, chăn nuôi, thông vàng, gỗ cứng và là một trong những trung tâm sản xuất phân bón thương mại quan trọng của quốc gia. Thị trường tiêu thụ gia súc lớn nhất của Montgomery là ở phía đông của Fort Worth, Texas và phía nam của sông Ohio, hàng năm tiêu thụ khoảng 30 triệu đô la giá trị sản phẩm gia súc. Ngược lại ở đây thiếu ngành công nghiệp nặng là một trong những lý do tại sao rất nhiều người da đen làm các công việc dịch vụ tại địa phương: có 63% lao động nữ da đen ở Montgomery làm người giúp việc và 48% đàn ông da đen làm lao động chân tay hay đi làm thuê làm mướn. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân chính yếu tạo nên khoảng cách kinh khủng về mức sống giữa người da trắng và da đen. Năm 1930, thu nhập bình quân của khoảng 70.000 người da trắng ở Montgomery là 1.730 đô la, so với 970 đô la của 50.000 người da đen. Có 94% gia đình người da trắng ở Montgomery có nhà vệ sinh giật nước riêng trong nhà, trong khi chỉ có 31% gia đình người da đen được hưởng những tiện nghi như vậy. Thế đấy, chính sự phân biệt chủng tộc tự nó đã là vấn đề, mà nó còn tạo ra nhiều vấn đề lên cuộc sống của người da đen ở mọi khía cạnh. Rõ ràng những người da đen ở Montgomery cũng là nạn nhân của sự thiếu thốn và nghèo đói nghiêm trọng.
Hai cộng đồng người Da Trắng - Da Đen giống như hai con kênh chảy riêng biệt. Các trường học tất nhiên đã được tách biệt, và quyết định của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ về giáo dục hội nhập được ban hành từ tháng 5 năm 1954 - dường như không ảnh hưởng đến quyết tâm của Montgomery về việc duy trì sự phân biệt. Nếu một người da trắng và một người da đen muốn đi cùng một taxi thì đó là chuyện không thể, bởi vì theo luật các tài xế người da trắng chỉ phục vụ hành khách da trắng, người da đen không thuộc trong hệ thống phục vụ đó và phải chấp nhận những giới hạn đã được quy định. Quả đúng là người da trắng và da đen bị phân ra thành hai thái cực, một bên làm chủ một bên làm thuê. Họ ngồi ở hai đầu của cùng một chiếc xe buýt được phân ranh giới bằng một lằn vạch ngang rõ rệt. Họ sử dụng cùng một trung tâm mua sắm, nhưng người da đen đôi khi bị ép phải đợi cho đến khi mọi người da trắng được phục vụ xong, và người da đen hiếm khi được gọi bằng tên hay chức danh lịch sự với sự tôn trọng. Trong thành phố, khu dân cư da trắng và da đen liền kể nhau, hoặc đan xen nhau nhưng họ quay lưng không muốn nhìn mặt láng giềng, chỉ sống với cộng đồng theo màu da của mình với đời sống xã hội và văn hóa riêng.
Không có một tổ chức chuyên nghiệp chung nào tập hợp các bác sĩ, luật sư, giáo viên v.v... đủ màu da và ngay cả khi các chuyên gia như thế đã tham gia trong các tổ chức quốc gia thì họ vẫn bị phân biệt khi về các chi nhánh tại địa phương của mình. Không có liên minh tôn giáo giữa các chủng tộc ở Montgomery. Không có Liên Đoàn Đô Thị địa phương nào để kết nối người da đen với da trắng cùng quản trị, các thành viên tích cực của Hiệp hội Quốc Gia VI Sự Tiến Bộ Của Người Da Màu (NAACP) tại Chi nhánh Montgomery hoàn toàn là người da đen. Ngôi trường đại học lớn nhất ở Montgomery, Alabama State College, là trường của những người da màu, chủ yếu dành cho việc đào tạo giáo viên, với một đội ngũ giảng viên gần 200 và sinh viên xấp xỉ 2.000. Mặc dù ngôi trường rất đẹp, các giảng viên bao gồm các nhân vật nổi tiếng như Horace Mann Bond, Charles H. Thompson, và trường đã tạo được một ảnh hưởng văn hóa sinh động trên cả Thành phố lẫn toàn Bang nhưng nó vẫn không lôi cuốn được nhiều người da trắng địa phương đến thăm. Trong thực tế, chi nhánh địa phương của Hội đồng Alabama Về Quan Hệ Nhân Sinh ở Montgomery đã đơn độc cố gắng tạo mối quan hệ giữa hai chủng tộc để họ gặp gỡ nhau cùng giải quyết những vấn đề chung.
Luật pháp Alabama và chính quyền nơi đây đã dùng những thủ thuật khiến cho tỷ lệ người da đen đi bầu ở mức tối thiểu. Đến năm 1940, cả tiểu bang Alabamachỉ có khoảng 2.000 cử tri người da đen thì ngày nay con số này là gần 50.000. Mặc dù đây là một sự tiến bộ nhưng con số này vẫn còn ít hơn 10% cư dân da đen đến tuổi bỏ phiếu trong bang. Vào năm 1954, đã có khoảng 30.000 người da đen đến tuổi bỏ phiếu ở quận Montgomery nhưng chỉ có hơn 2.000 người được đăng ký. Con số quá thấp này là một phần kết quả của sự thiếu quan tâm hay thiếu kiên trì của người da đen trong việc vượt qua tất cả các hàng rào ngăn cản họ, nhưng các rào cản này quả thật rất khủng khiếp và khó vượt qua. Luật pháp Alabama cho các cơ quan đăng ký bầu cử quá nhiều quyền lực. Tại văn phòng đăng ký có các lối xếp hàng riêng và bàn riêng cho cử tri phân theo chủng tộc. Cán bộ giữ sổ đăng ký (hộ tịch viên) phục vụ người da đen làm việc một cách chậm chạp có chủ ý, do đó, trong số năm mươi người da đen đến đó, cuối ngày chỉ có mười lăm người được đăng ký. Mọi cử tri được yêu cầu điền vào một bảng câu hỏi dài như là một bài kiểm tra về điều kiện tham gia, và họ thường phải làm rất nhiều lần trước khi được duyệt và hoàn tất. Vì vậy, dựa trên các sự thật này, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy rằng không có người da đen nào ở Montgomery làm việc cho chính quyền dù ở cấp thành phố hay cấp quận.
Vì quan tâm về những vấn đề như vậy, một trong những ủy ban đầu tiên được tôi thiết lập trong nhà thờ của mình là để đảm bảo cho cộng đoàn nắm bắt được các thông tin về tình hình xã hội, chính trị, kinh tế một cách đầy đủ và nhanh chóng nhất. Nhiệm vụ của ủy ban Hành Động Xã Hội Và Chính Trị là nhắc nhở về tầm quan trọng của NAACP và sự cần thiết đăng ký đi bầu cử, tài trợ các diễn đàn và cuộc họp đại chúng để thảo luận về những vấn đề quan trọng trong các cuộc bầu cử tiểu bang và quốc gia. Tôi đã tìm những người quan tâm đến các vấn đề xã hội và có kinh nghiệm trước đây trong lĩnh vực chính trị và bầu cử để mời họ làm thành viên của ủy ban. May mắn thay đây không phải là một việc khó khăn, vì Dexter có một số giáo đồ quan tâm sâu sắc đến các vấn đề cộng đồng và sẵn sàng nhận lời. Điều thú vị là hai thành viên của ủy ban này - bà Jo Ann Robinson và Rufus Lewis, là những người đầu tiên nổi bật trong cuộc tẩy chay xe buýt - đã nhanh chóng huy động được sức mạnh tiềm tàng của cộng đồng người da đen ở Montgomery.
Năm tháng trôi qua, tôi đã thấy được kết quả ấn tượng từ các hoạt động của ủy ban này. Vào đầu tháng 11, nó đã xuất bản một bản tin hai tuần một lần, SAPAC, phát cho mọi thành viên của cộng đoàn và giá trị nhất là nó đặt trách nhiệm của các thành viên nhà thờ trước các vấn đề lớn về chính trị và xã hội. Dưới sự bảo trợ của ủy ban, một phòng Tư vấn bỏ phiếu đã hướng dẫn hầu hết mọi thành viên của cộng đoàn, mà chưa từng đăng ký bầu cử, tránh khỏi những cạm bẫy các thủ tục đăng ký do phân biệt đối xử. Vào tháng 11 năm 1955, trong báo cáo thường niên của tôi về tư cách thành viên, tôi có thể nói rằng công việc của ủy ban này thật tuyệt vời, và mọi thành viên của Dexter đều cảm nhận được sức ảnh hưởng của nó. Qua công việc của ủy ban, nhiều người đã đi đăng ký khi có bầu cử và Dexter đã đi đầu hướng dẫn những nhà thờ khác ở Montgomery đóng góp cho những hoạt động của NAACP”.
Sau khi đưa chương trình hoạt động của nhà thờ đi vào quỹ đạo, tôi đã gia nhập Chi nhánh địa phương của NAACP và bắt đầu quan tâm tích cực đến việc thực hiện chương trình của mình trong cộng đồng. Bên cạnh việc quyên góp tiền thông qua nhà thờ của mình, tôi đã có một số bài phát biểu cho NAACP tại Montgomery và các nơi khác. Chưa đầy một năm sau khi tôi gia nhập Chi nhánh, tôi được bầu chọn vào Ban chấp hành. Vì tham dự hầu hết mọi cuộc họp hàng tháng, tôi đã gặp phải một số vấn đề về chủng tộc mà đã tạo ra phiền phức cho cộng đồng, đặc biệt là những chuyện có dính tới tòa án.
Trước khi tôi đến Montgomery, và trong vài năm sau đó, hầu hết các nguồn lực và quỹ của NAACP Chi nhánh địa phương đều dùng vào việc bào chữa cho Jeremiah Reeves, một tay trống trong một ban nhạc người da đen, đã bị bắt ở tuổi mười sáu vì bị buộc tội cưỡng hiếp một phụ nữ da trắng. Một nhà chức trách đã đưa anh ta đến phòng tử hình, đe dọa rằng nếu anh ta không thú nhận sớm, anh sẽ bị thiêu sống. Anh ta buộc phải nhận tội, nhưng sau đó đã rút lại lời thú tội. Trong khoảng bảy năm của vụ án và cho đến tận cuối đời, anh tiếp tục phủ nhận không chỉ trách nhiệm với tội hiếp dâm mà với cả cáo buộc có quan hệ tình dục với người phụ nữ da trắng đã tố cáo anh.
NAACP đã thuê luật sư và quyên góp tiền để bào chữa cho Reeves. Tại tòa án địa phương, anh bị kết tội và kết án tử hình. Bản án vẫn được giữ nguyên dù có một loạt kháng cáo qua các tòa ở Alabama. Vụ án đã được kháng cáo lên Tòa án Tối Cao Hoa Kỳ hai lần. Lần đầu tiên, Tòa án không tiếp nhận và chuyển trở lại Tòa án Tối Cao của Bang để xử lại. Lần thứ hai, Tòa án Tối Cao Hoa Kỳ đồng ý xem xét vụ án nhưng sau đó bác đơn kháng cáo để mặc tòa án Alabama toàn quyền xử tử. Sau khi kháng cáo cuối cùng xin giảm án xuống chung thân bị Thống đốc từ chối, cảnh sát đã thực thi nhiệm vụ của họ. Ngày 28 tháng 3 năm 1958, Reeves bị đưa lên ghế điện.
Vụ án Reeves điển hình cho sự bất công của các tòa án miền Nam. Trong những năm anh ngồi tù, một số người da trắng ở Alabama cũng bị buộc tội hãm hiếp, nhưng những người tố cáo họ là những cô gái da đen. Họ hiếm khi bị bắt. Nếu có bị bắt, họ nhanh chóng được bổi thẩm đoàn thả, không ai bị đưa ra xét xử. Vì thực tế này, những người da đen miền Nam đã biết sợ và không tin tưởng vào công lý của người da trắng.
Khoảng thời gian mà tôi bắt đầu làm việc với NAACP, Hội đồng Quan Hệ Nhân Sinh Alabama cũng làm tôi chú ý. Nhóm đa sắc tộc này quan tâm đến mối quan hệ giữa con người ở bang Alabama và áp dụng phương pháp giáo dục để xây dựng mối quan hệ đó. Hội đồng Quan Hệ Nhân Sinh là chi nhánh của Hội đồng Khu Vực Miền Nam và là tổ chức thừa kế của ủy ban Liên Minh Chủng Tộc Alabama, đã đưa ra chương trình nghiên cứu và hành động tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người ở Alabama. Triết lý cơ bản được công nhận của họ như sau: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng dưới chân Thượng Đế. Trong cuộc sống, giải thích trên phương diện quốc gia, điều này có nghĩa là mỗi cá nhân được quyền có cơ hội bình đẳng chia sẻ và đóng góp cho tổ quốc. Không có cá nhân hay nhóm cá nhân nào có quyền ngăn cản hay thu hẹp quyền này theo bất kỳ cách nào”.
Tôi gia nhập tổ chức này, và tham dự hầu hết các cuộc họp hàng tháng của Chi nhánh Montgomery được tổ chức trong phòng họp của nhà thờ chúng tôi. Sau khi làm việc với Hội đồng được vài tháng, tôi được bầu vào chức vụ Phó chủ tịch, và phục vụ ở vị trí này cho đến khi đảm nhiệm các trách nhiệm khác. Chủ tịch Hội đồng là Ray Wadley, một mục sư trẻ da trắng của nhà thờ St. Mark S. Methodist, một người miền Nam bản địa. Sau này ông chuyển sang làm việc ở một cộng đồng nhỏ hơn và hẻo lánh sau khi nhà thờ của ông phản đối các hoạt động về quan hệ chủng tộc của ông. Hai thành viên da trắng nổi bật khác của Hội đồng là mục sư Thomas P. Thrasher và Robert Graetz, cả hai đều nổi bật trong cuộc tranh đấu xe buýt sau này.
Mặc dù Hội đồng Montgomery chưa bao giờ có đông thành viên, nó vẫn đóng một vai trò quan trọng. Là nhóm liên minh chủng tộc duy nhất ở Montgomery, nó giữ kênh đối thoại cần thiết giữa hai sắc tộc. Người ta ghét nhau vì họ sợ nhau; họ sợ nhau vì họ không biết nhau; họ không biết nhau vì họ không giao tiếp; họ không giao tiếp bởi vì họ bị tách ra. Để tạo cơ hội và không gian giao tiếp, Hội đồng đang thực hiện đầy đủ các điều kiện cần thiết cho mối quan hệ chủng tộc trở nên tốt hơn ở miền Nam.
Tôi rất ngạc nhiên khi biết nhiều người đã cảm thấy có sự mâu thuẫn khi tôi làm việc cho cả NAACP và Hội đồng Liên Minh Chủng tộc. Nhiều người da đen cảm thấy rằng sự hòa hợp chủng tộc chỉ có thể đạt được qua vận động luật pháp và bộ máy tư pháp - đây là đường lối chính của NAACP. Trong khi đó, nhiều người da trắng lại cảm thấy rằng hòa hợp chủng tộc chỉ có thể đạt được thông qua giáo dục - và đây là chủ trương của Hội đồng Quan Hệ Nhân Sinh. Làm thế nào một người có thể gắn bó với cả hai tổ chức có hai phương pháp quá khác nhau đến như vậy?
Câu hỏi này gợi lại một giả thiết cho rằng chỉ có một giải pháp cho vấn đề chủng tộc. Song tôi lại cảm thấy cả hai cách đều cần thiết. Thông qua giáo dục, chúng ta tìm cách thay đổi thái độ, thông qua luật pháp và tòa án, chúng ta tìm cách điều chỉnh hành vi. Giáo dục làm thay đổi tâm hồn thể hiện qua cảm xúc (đầy thành kiến, hận thù, v.v.); Luật pháp và tòa án kiểm soát hành vi phát sinh từ cảm xúc. Giáo dục có thể giúp phá vỡ các rào cản tinh thần đem lại sự hòa hợp; Luật pháp và tòa án thì giúp phá vỡ các rào cản thép gai vật chất để hai sắc tộc cùng chung sống hòa bình. Vốn dĩ phương pháp này không thể thay thế phương pháp kia mà chúng bổ sung cho nhau. Điều đó rất quan trọng và cần thiết. Bất cứ ai tin rằng con đường đi đến sự công bằng chủng tộc là một con đường dễ dàng thì chắc chắn sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trở ngại và làm cho cuộc hành trình trở nên dài vô tận. Công việc của tôi với NAACP và Hội đồng Nhân Sinh Alabama xuất phát từ niềm tin rằng cả hai tổ chức đều đáp ứng được nhu cầu thực sự của cộng đồng và mỗi tổ chức đều đang hoạt động theo tiêu chí đề cao trí tuệ và lòng tự trọng.
Thời gian trôi qua, tôi nhận ra rằng, trong cộng đồng người da đen vẫn còn một số điều cần phải được cải thiện trước khi có thể xây dựng một xã hội tiến bộ thực sự. Điều đầu tiên là sự thiếu đoàn kết nghiêm trọng giữa các nhà lãnh đạo. Trong phong trào, có nhiều nhóm dân sự được thành lập và rồi giữa các nhóm này lại có sự tranh chấp, xung đột với nhau. Có tổ chức tên là Đảng Dân Chủ Tiến Bộ, đứng đầu là E. D. Nixon. Có ủy ban Công Dân, đứng đầu là Rufus Lewis. Có Hội đồng Chính Trị của phụ nữ, do Bà Mary Fair Burks và Jo Ann Robinson đứng đầu. Có NAACP, đứng đầu là R. L. Matthews và nhiều nhóm nhỏ hơn rải rác trong cộng đồng da đen. Trong khi những người đứng đầu của mỗi tổ chức này đều có khả năng và năng nổ với mục tiêu chung, nhưng niềm tin và lòng trung thành của họ thì mỗi người một khác, nên rất khó để họ đoàn kết chặt chẽ hơn.
Nhiều người cảm nhận được tư tưởng bè cánh phe phái làm tê liệt phong trào. Đầu năm 1955, một số nhà lãnh đạo có ảnh hưởng đã cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách lập ra ủy ban Điều Phối Công Dân. Tôi nhớ khi tham dự cuộc họp đầu tiên của nhóm này, tôi tưởng cộng đồng người da đen sẽ tìm được giải pháp cho vấn đề đã tồn tại quá lâu làm trở ngại sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, hy vọng của tôi đã tan vỡ. Do các nhà lãnh đạo thiếu sự kiên trì và các công dân thiếu sự quan tâm tích cực, ủy ban Điều Phối Công dân cuối cùng đã giải thể. Với sự tan rã của tổ chức đầy hứa hẹn này, có vẻ như sự chia rẽ bi thảm trong cộng đồng người da đen chỉ có thể được cứu vãn bằng một phép lạ thần thánh nào đó.
Cộng đồng không chỉ phải đối mặt với sự cạnh tranh về quyền lực lãnh đạo, nó còn bị tê liệt bởi sự thờ ơ của giới trí thức - thể hiện qua sự thiếu tham gia vào bất kỳ hành động nào để thay đổi tình trạng hiện tại - như là một sự ngầm chấp nhận mọi thứ chung quanh. Tuy vậy dĩ nhiên có những trí thức tiên phong trong cuộc đấu tranh vì công lý cho mọi chủng tộc, nhưng họ chỉ là ngoại lệ. Đại đa số đều thờ ơ và tự mãn.
Vấn đề thiếu quan tâm của giới trí thức là do sợ hãi. Nhiều người trong số đó có địa vị. Nếu thẳng thắn đứng về phía công lý, họ có nguy cơ bị mất việc. Vì vậy, thay vì đánh cược nồi cơm, nhiều người đã chọn tránh xa những hoạt động nhằm mang lại sự thay đổi. Tuy nhiên, chuyện không phải chỉ có thế! Sự im lặng từ nguyên nhân vô cảm còn rất nhiều. Ngay cả trong lĩnh vực - chẳng hạn như bỏ phiếu - nơi họ sẽ không thực sự bị buộc tội gây mất trật tự nơi công cộng, nhóm trí thức vẫn thờ ơ và không dễ chuyển hóa được trong một sớm một chiều.
Và sự thờ ơ rõ rệt của các mục sư người da đen cũng nói lên một vấn đề. Chỉ vài người trong số họ thường biểu lộ sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề xã hội, số đông còn lại không buồn nghĩ đến thì bỏ mặc trách nhiệm xã hội. Sự vô cảm của số đông mục sư này thật ra bắt nguồn từ một suy nghĩ có thật rằng, là mục sư thì không được phép tham dự vào chuyện đời thường tạm bợ của thế gian như là cải tiến xã hội và kinh tế. Công việc của họ là “rao giảng Phúc Âm” và khuyên con người luôn hướng tới “Thiên Đàng”. Tuy nhiên, dù là thành thật cách mấy, quan điểm này về tôn giáo, tôi cảm thấy quá hẹp hòi.
Hiển nhiên, mỗi tôn giáo đều có mối quan tâm sâu sắc và quan trọng tới đời sống ở một thế giới khác. Bất kỳ tôn giáo nào chỉ quan tâm đến cuộc sống ở thế giới này thì coi như đã “bán chỗ nằm, mua chỗ ngồi”. Một tôn giáo tốt đẹp nhất không chỉ giúp con người giải quyết nhu cầu căn bản vật chất mà còn cả nhu cầu tối hậu là tâm linh liên quan đến niềm tin đối với Đấng Tạo Hóa và Chân Lý. Vậy nên khi tôn giáo tách rời khỏi sự thật cơ bản này thi vai trò của nó chỉ còn mang ý nghĩa đạo đức mà sự vĩnh hằng - là ý niệm thời gian và Tạo Hóa - chỉ còn là sản phẩm vô nghĩa của trí tưởng tương của con người mà thôi.
Một tôn giáo đúng với bản chất của nó là phải quan tâm đến tình trạng xã hội của con người. Tôn giáo lo cả chuyện dưới đất và trên Thiên Đàng, trả lời cả câu hỏi về thời gian hữu hạn và vô hạn. Tôn giáo được tìm thấy khắp nơi trong không gian hai chiều, nó không chỉ kết nối con người với Thượng Đế mà còn kết nối giữa người với người và cả mỗi người với chính bản thân họ. Điều này có nghĩa sâu xa là Phúc Âm Kitô giáo là con đường hai chiều. Một mặt nó tìm cách làm thay đổi tâm hồn của con người, rồi đưa họ tới với Thượng Đế. Mặt khác, nó tìm cách làm thay đổi điều kiện môi trường sống của con người để họ có cơ hội tốt hơn sau khi bản thân đã có sự thay đổi. Nếu có tôn giáo nào tự xưng chỉ chăm lo cho linh hồn con người mà không quan tâm đến những khu ổ chuột họ ở, đến điều kiện kinh tế và xã hội đang bóp nghẹt và làm tê liệt họ là một tôn giáo khô khan và tẻ nhạt. Tôn giáo như vậy là thứ thuốc phiện ru ngủ con người mà người theo chủ nghĩa Mác- xít (Marxist) rất ưa.
Một thực tế đáng chú ý khác về cộng đồng người da đen ở Montgomery là sự thụ động rõ rệt của phần lớn người ít học. Dù luôn có một số người nổi dậy chống lại sự phân biệt, số đông vẫn chấp nhận nó mà không có sự phản đối rõ ràng. Họ không chỉ cam chịu sự phân biệt, họ chấp nhận cả sự chà đạp và sỉ nhục đi cùng với nó. Người tiền nhiệm của tôi tại Nhà thờ Baptist Dexter Avenue - mục sư Vernon Johns - có kể một sự kiện nói lên thái độ của người dân vào thời gian này. Một ngày nọ, ông lên xe buýt và ngồi trên chiếc ghế phía trước dành riêng cho người da trắng. Người tài xế xe buýt yêu cầu ông dời ra đằng sau,
Ông Johns từ chối. Tài xế ra lệnh cho ông xuống xe, một lần nữa ông từ chối cho đến khi người tài xế đồng ý trả lại tiền vé cho ông. Trước khi xuống xe, ông Johns đứng ở lối đi và hỏi những người da đen rằng có bao nhiêu người sẽ cùng theo ông rời khỏi xe buýt để phản đối. Không ai trả lời cả, dù chỉ một người. Vài ngày sau, khi ông trách một người phụ nữ ngồi trên xe buýt hôm đó vì không tham gia phản đối, cô ấy đã nhắc lại lời những người bạn hành khách khác như sau: “Ông phải nên hiểu rõ vấn đề hơn chứ”.
Một phần tính thụ động của người ít học, cũng giống như người có học, có thể là do sợ bị trả thù bằng kinh tế. Họ phụ thuộc vào cộng đồng da trắng nên không dám phản đối các bất công vì sợ mất công ăn việc làm. Nhưng có lẽ còn có nguyên nhân sâu xa hơn, đó là luôn luôn mặc cảm về sự thấp hèn của mình, cảm giác tự thấy mình thấp hèn đang gặm nhấm họ từng ngày khiến họ đánh mất lòng tự trọng. Nhiều người vô tình tự hỏi liệu họ có thực sự xứng đáng được hưởng cuộc sống tốt hơn không. Lý trí và tâm hồn của họ buộc phải quen với hệ thống phân biệt và họ đã tự điều chỉnh để thích nghi với cuộc sống đó. Đây là bi kịch cuối cùng của sự phân biệt. Nó không chỉ gây hại cho thể xác con người mà còn làm tổn thương tinh thần. Nó để lại vết sẹo trong tâm hồn, hạ thấp nhân cách. Nó gieo cho nạn nhân bị phân biệt một nhận thức sai lầm là mình thấp hèn, và làm cho những kẻ kỳ thị hiểu lầm là mình ưu việt. Hệ thống phân biệt đó dường như luôn luôn án ngữ trước mặt nạn nhân bị phân biệt với câu nói rằng: “mày thấp hèn hơn...”, “mày không bằng...” Hệ thống phân biệt là nguyên nhân gây nên phần lớn sự thụ động của những người da đen ở Montgomery.
Vì vậy, tôi thấy cộng đồng người da đen là nạn nhân của ba căn bệnh: chủ nghĩa phe phái giữa các nhà lãnh đạo, sự vô cảm của những người có học và sự thụ động của những người ít học. Tất cả những nguyên do này gần như đã thuyết phục tôi rằng không có cải cách xã hội lâu dài nào có thể đạt được ở Montgomery.
Tuy nhiên, dưới vẻ bề ngoài có vẻ bình yên, là một sự bất mãn ngấm ngầm. Những người như Vernon Johns và E. D. Nixon đã không mệt mỏi mang vấn nạn ra nói để kêu gọi lương tri của cộng đồng. Khi những người khác sợ nói, họ đã nói với lòng dũng cảm. Khi những người khác không dám đứng lên, họ đã đứng lên với sự can trường và quyết tâm.
Vernon Johns, Giám đốc Trung tâm Baptist bang Maryland, là một nhà truyền giáo xuất sắc với óc sáng tạo và một trí nhớ phi thường. Không có gì lạ khi ông ta trích dẫn văn học cổ điển và triết học trong nhiều giờ khi thuyết giảng mà không bao giờ xem bản thảo. Một người đàn ông không hề biết sợ hãi, ông không bao giờ im lặng khi nhìn thấy sự bất công xảy ra trước mắt. Khi ông còn là mục sư, hiếm có một chủ nhật nào khi giảng đạo mà ông không công kích sự tự mãn. Ông thường nhắc khéo cộng đoàn đừng kiêu căng vì có nhiều bằng cấp, vì vẫn còn điều mà bằng cấp không chứng nhận, đó là lòng tự trọng. Một trong những luận điểm cơ bản của ông là bất kỳ cá nhân nào nhẫn nhục chịu đựng bất công, sẽ thực sự không xứng đáng được hưởng sự công bằng hơn.
Johns thích làm nông trại và sống gần gũi với thiên nhiên. Ông cũng đồng ý với Booker T. Washington rằng “không chủng tộc nào có thể khá lên được cho tới khi nào họ biết coi trọng việc cày đất ngang với làm một bài thơ”. John cũng cảm thấy, như Washington đã thấy, rằng người da đen phải tự vươn lên khỏi thân phận thấp hèn bằng nỗ lực của chính họ. Một trong những cách tốt nhất để được như vậy là phải có cuộc sống kinh tế vững vàng. Ông cho rằng mức tiêu thụ cao so với khả năng sản xuất của người da đen là một bi kịch. Ông đã kiên trì kêu gọi người dân da đen ở Montgomery góp chung các nguồn lực kinh tế của họ lại. Kết quả là vào năm 1953, dưới ảnh hưởng của Johns, một vài cá nhân đã mạnh dạn thành lập Farm and City Enterprises - một siêu thị hợp tác lúc ban đầu đã phát triển thành một doanh nghiệp lớn mạnh. Đây là một thành tựu trong cộng đồng, mà sự thay đổi nói chung đã diễn ra vô cùng chậm chạp.
Cũng giống như Vernon Johns, E. D. Nixon luôn thù ghét sự bất công. Với khuôn mặt của người đàn ông da màu xám đen, tóc lốm đốm bạc, cao lớn, trông giống như một võ sĩ. Trong công việc thường ngày của ông là khuân vác ở các ga tàu hỏa, ông đã tiếp xúc gần gũi với tổ chức công đoàn. Ông từng là Chủ tịch cấp tiểu bang của NAACP và cũng từng là Hội trưởng của NAACP Chi hội Montgomery. Thông qua phương tiện này, E. D. Nixon đã can đảm đấu tranh cho các quyền của người dân, làm cho họ thức tỉnh và không còn vô cảm. Nhờ những nỗ lực của ông, hàng trăm người da đen đã mạnh dạn đăng ký đi bầu. Là một con người dũng cảm, ông trở thành một trong những tiếng nói quan trọng của cộng đông người da đen trong lĩnh vực dân sự. Ông là biểu tượng của niềm hy vọng và niềm khát vọng của những người bị đàn áp đã lâu của Bang Alabama.
Vì vậy, việc làm của những người như John và Nixon đã khơi mào cho một sự bất mãn âm thầm tựa như một đám cháy âm ỉ sẽ ngày càng tăng lên. Nó được nuôi dưỡng bằng sự sỉ nhục không ngừng và sự bất bình đẳng mà người da đen đã và đang phải chịu. Đây là những người đàn ông dũng cảm không hề sợ hãi đã tạo nên một bầu không khí cho cuộc cách mạng xã hội đang dần phát triển trong cái nôi của Liên minh.
Nhưng đến năm 1954, sự bất mãn này vẫn còn tiềm ẩn. Tại thời điểm đó, cả người da đen và người da trắng đều chấp nhận các mô hình phân biệt tinh vi như một thực tế không thể khác. Hiếm có một ai chống đối hệ thống này. Montgomery là một thị trấn dễ chịu, thậm chí nó còn được mô tả là một thị trấn yên bình. Nhưng sự yên bình đó được đánh đổi bởi cái giá của sự nô lệ quy phục của con người.
Nhiều tháng sau, một công dân da trắng có uy tín của Montgomery đã đến phản đối tôi:
“Bao nhiêu năm nay, chúng ta đã có được sự yên bình và mối quan hệ thuận hòa giữa hai chủng tộc ở đây. Tại sao ông và các cộng sự của ông lại đến phá vỡ truyền thống lâu năm này?”.
Câu trả lời của tôi rất đơn giản: “Thưa ngài”, tôi nói, “chưa bao giờ có hòa bình thực sự ở Montgomery. Chỉ có một loại hòa bình tiêu cực, trong đó người da đen thường chấp nhận tình trạng bị khinh khi. Đây không phải là sự yên bình thực sự. Yên bình thực sự không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của tình trạng căng thẳng, nó còn cần có sự hiện diện của công lý. Sự căng thẳng mà chúng ta thấy ở Montgomery hôm nay là sự căng thẳng cần thiết cho đến khi người bị áp bức chịu đứng lên để bắt đầu tiến tới một sự yên bình vĩnh viễn, tích cực”.
Tôi tiếp tục tự biện rằng đây là điều Chúa Jesus ngụ ý khi Ngài nói: “Tôi không đến để mang hòa bình, mà mang một thanh kiếm”. Chắc chắn Chúa Jesus không mang một thanh kiếm thật. Dường như Ngài muốn nói: “Tôi không đến để mang lại một hòa bình giả hiệu với sự thụ động chết người của nó. Tôi đến để nổi dậy chống lại một loại hòa bình như vậy. Bất cứ khi nào tôi đến, sẽ có một cuộc xung đột xảy ra giữa cái cũ và cái mới. Bất cứ khi nào tôi đến, công lý và bất công sẽ được tách bạch rõ ràng. Tôi đến để mang lại một hòa bình tích cực đại diện cho công lý, tình yêu và ngay cả Vương quốc của Thiên chúa”.
Sự hòa bình giữa hai chủng tộc tồn tại ở Montgomery không phải là hòa bình Kitô giáo. Đó là một thứ hòa bình ngoại giáo được đánh đổi bằng một cái giá quá lớn.
Một nơi mà hòa bình từ lâu đã bị lung lay là trên chính những chiếc xe buýt trong Thành phố, nơi mà người da đen bị sỉ nhục hàng ngày do bị phân biệt. Không có tài xế xe buýt người da đen, chỉ toàn người da trắng, và trong số đó có vài người rất lịch sự, còn lại đa phần đều lỗ mãng và bất lịch sự. Họ thường xuyên gọi người da đen là “Mỹ đen” “bò đen” và “khỉ đen”. Thường những người da đen trả tiền vé ở cửa trước, sau đó bị ép phải xuống xe và lên lại bằng cửa sau. Có nhiều lúc, mười xu tiền xe đã trả mà chưa kịp lên lại bằng cửa sau thì xe đã chạy đi.
Nhục nhã hơn nữa là người da đen bị buộc phải đứng trong khi ghế dành riêng cho người da trắng vẫn còn trống. Ngay cả khi xe buýt không có hành khách da trắng, người da đen vẫn bị lèn chặt trong phạm vi dành cho họ. Họ bị cấm ngồi trên bốn hàng ghế đầu tiên (có thể ngồi được mười người). Nhưng thực tế còn tệ hơn thế nữa. Nếu hành khách da trắng đã ngồi hết chỗ được dành riêng và lại có thêm những người da trắng khác tiếp tục lên xe, những người da đen ngồi trong phạm vi của mình tiếp ngay phía sau người da trắng được yêu cầu đứng lên để nhường chỗ cho người da trắng. Nếu có người da đen nào từ chối lùi lại phía sau, họ sẽ bị bắt. Hầu hết các trường hợp, những người da đen thường tuân phục mà không phản đối. Tuy nhiên, đôi khi vẫn có những người như Vernon Johns, ông đã dám từ chối.
Sau khi tôi đến được vài tháng, một nữ học sinh trung học mười lăm tuổi tên là Claudette Colvin bị lôi ra khỏi một chiếc xe buýt, bị còng tay và bị đem đi bắt giam vì cô từ chối nhường chỗ ngồi cho một hành khách da trắng. Sự tàn bạo này dường như làm dậy sóng cộng đồng người da đen. Mọi người đề nghị tẩy chay những chiếc xe buýt để phản đối. Vậy nên một ủy ban Công Dân được thành lập để đối thoại với người quản lý của Công ty xe buýt và ủy ban Thành phố, yêu cầu ra một tuyên bố về chính sách phân bố chỗ ngồi và đòi hỏi các tài xế phải lịch sự hơn.
Tôi được yêu cầu phục vụ trong ủy ban này. Chúng tôi gặp nhau vào một buổi chiều tháng Ba năm 1955 tại văn phòng của J. E. Bagley, quản lý của Montgomery City Lines, Công ty Phương tiện giao thông công cộng của Thành phố Montgomery. Lúc đó có cả Dave Birmingham là ủy viên cảnh sát, đại diện cho ủy ban Thành phố. Cả hai người đàn ông đều khá dễ chịu, và bày tỏ mỗi quan tâm sâu sắc về những gì đã xảy ra. Bagley thừa nhận rằng việc tài xế xe buýt bắt giữ cô Colvin là sai và hứa sẽ khiển trách anh ta. Ủy viên cảnh sát Birmingham đồng ý sẽ có luật sư Thành phố đưa ra tuyên bố rõ ràng về chính sách phân bố chỗ ngồi trên xe buýt của Thành phố. Chúng tôi rời cuộc họp với một niềm hy vọng tràn đầy trong tim, nhưng rồi không có gì xảy ra. Những màn nhục nhã cũ vẫn tiếp tục. Luật sư Thành phố vẫn chưa làm gì trong việc này và cô bé Claudette Colvin bị kết tội với một bản án treo.
Và thực tế, ủy ban Thành phố và Công ty xe buýt đã không có một hành động nào. Đó chính là nguyên nhân cho một điều gì đó bắt đầu manh nha. Những cảm giác oán giận dai dẳng của người da đen rốt cuộc đã bắt đầu bị khuấy động. Nỗi sợ hãi và sự thờ ơ đã từ lâu là cái bóng đen đeo đẳng đời sống của cộng đồng người da đen đang dần phai mờ nhường chỗ cho tinh thần can đảm và tự trọng. Sự bất tín của các quan chức Thành phố và Công ty xe buýt trong vụ Colvin sẽ khiến họ phải đối mặt với một ủy Ban khác của chúng tôi, một ủy ban quả cảm và kiên định hơn gấp ngàn lần trong vài tháng nữa. Cuộc họp tới đây họ sẽ phải đối mặt với một ủy ban được ủng hộ bởi những khát khao và ước vọng của gần năm mươi nghìn người, những người đã quá mệt mỏi để cuối cùng cũng thấy ra được rằng, đi bộ trên đường phố với lòng tự trọng vinh dự hơn là leo lên những chuyến xe buýt để đi trong sự nhục nhã.