- 4 -
Mối tình của Trung và Thủy sắp sửa đi vào đoạn kết. Hai người đã làm lễ ăn hỏi, chỉ còn chờ sang năm là làm lễ cưới… Có lần Thắng hỏi Trung:
– Sao không cưới luôn đi cho được việc?…
– Tại năm nay không được tuổi…
Thắng muốn cười phá lên vì trông Trung lúc đó ngây thơ không khác gì cậu học trò đang ở tuổi hai mươi. Thắng nghĩ rằng tuổi hai mươi không phải là hai mươi tuổi. Trung tuổi mão, tuổi con mèo. Thủy tuổi tuất, tuổi con chó. Thắng làm như mình giỏi về việc coi lịch Tam-tông-miếu.
– Chó với mèo mà ở chung một nhà thì thế nào cũng có phen chúng mày “có bốn chân giường gẫy một còn ba”.
Trung cười:
– Thế mà lại tam hợp… mới bỏ mẹ chứ. Tao cũng lo chuyện đó, không ngờ bà cụ đi hỏi mấy anh thầy Tàu, mấy anh chàng đui ở đường Hàm Nghi, lại “chịu” hai cái tuổi đó.
Hôm ăn hỏi của Trung, Trung mặc một bộ quần áo đẹp nhất. Mặt cứ thộn ra một cách rất buồn cười. Không còn là một chàng phi công, đã từng tham dự Bắc phạt. Không còn là một chàng trai mặc quần áo ka-ki. Chỉ còn là một thanh niên, vẫn còn chưa dứt bỏ được cái tuổi hoa bướm học trò.
Thắng ghé tai Trung thì thầm:
– Trông mày ngây ngô và ngáo… đếch chịu được…
Trung nhìn vào trong gương. Trông cứ như một ông Tây gỗ. Trung nhớ tới những ngày lang thang của mình và Thắng. Khi thấy một đám cưới, thường phóng xe Vespa đuổi theo chiếc xe kết hoa, thò đầu vào cửa kính xe, cười với cô dâu:
– Đêm nay mà về thì… chết với nó.
Cô dâu nào cũng thẹn thò, dấu mặt vào bó hoa, mặt ửng hồng, mắt chớp chớp như đèn trên nóc xe chữa lửa. Trung nghĩ rằng đám cưới của mình, rồi thế nào cũng có thằng nghịch như vậy. Như hôm nay, lũ trẻ con theo cái đám hỏi này, sờ vào người Trung, nắm lấy quần Trung. Vài cô gái nhà ở đầu ngõ, vén bức rèm cửa sổ, ghé mắt nhìn ra ngoài, phê bình với nhau:
– Chú rể cũng khá đấy chứ mày…
– Cái thằng tàu bay vẫn đến đây đấy mà. Dân tàu bay cố nhiên là “bô” rồi.
Các cô tưởng rằng cứ dân tàu bay là phải bô trai. Tự nhiên, Trung lại nghĩ đến thằng Hậu. Các cô mà trông thấy nó, chắc là phải khóc thét lên được. Cái mặt như cái lưỡi cày. Nhìn nghiêng, cái sống mũi gãy, hõm sâu vào, trông đến thật là thảm hại. Nhiều khi anh em nói đùa với Hậu:
– Chắc bà cụ nhà mày, đẻ mày ra đến cái chỗ sống mũi rồi ngừng lại cả giờ đồng hồ rồi mới tiếp tục rặn cho thòi ra nốt…
Hậu thật đúng với cái tên, rất hiền hậu. Tha hồ cho thiên hạ nói rỡn, nói đùa. Hậu chỉ cười… Nhưng khi Hậu mặc quần áo nhà binh, đội mũ cát-kết tàu bay, trông vẫn đẹp, tuy rằng có nhiều nét đẹp khắc khổ.
Nhà Thủy có ít người. Ba bố con sống lủi thủi như mấy con gà trong vườn rộng. Buổi sáng, Thủy đi dạy học thì Thu lo cơm nước. Buổi chiều, Thu đi học thì Thủy ở nhà vừa chấm bài, vừa chạy vào trong bếp. Ông bố già đã về hưu, suốt ngày đọc sách. Nhiều buổi sáng ông già lang thang trên hè đường Lê Lợi, kiếm một lô sách cũ mang về nhà, rồi lại nằm nhà đọc. Ông cụ có rất ít bạn…Những người bạn bây giờ đều làm lớn…Ít nhất cũng là một chức giám đốc. Cái bằng Tú-tài của năm 1930 cũng đủ mở cho người ta bước vào cái cổng danh vọng thênh thang.
Như vậy, nghĩa là cuộc đời của Trung, chỉ hết năm nay, là đã vào cái khuôn khổ mà ông trời đã đặt ra tự ngàn xưa. Rồi cũng có một gia đình. Như gia đình thằng Hậu… Như bao nhiêu thằng khác.
Buổi tối, cũng có những cuộc họp mặt gia đình. Có vợ, có chồng, có vài đứa con để nô đùa cho vui nhà, vui cửa. Những tiếng động của gia đình, thật khác xa với những tiếng động chiến trường. Tiếng máy khâu của vợ, tiếng ho của cụ già, tiếng khóc của trẻ con, tất cả những tiếng đó khác xa với tiếng đại bác, tiếng trung liên, tiếng súng trường…
Thắng và Trung đã nhiều lần tới nhà Hậu… Buổi tối, thật êm đềm. Hậu ngồi ở ghế xa-lông đọc báo, mặc bộ pi-dam-ma màu xanh. Vợ Hậu ngồi khâu lại mấy cái khuy áo đứt cho chồng. Thằng con mới tám tuổi cũng ngồi chễm chệ ở một cái ghế xa-lông, vớ được tờ báo cũ, cũng đọc… Những đứa trẻ mới tập đọc, thấy cái gì cũng đọc, nhưng đọc rồi là có thật nhiều thắc mắc. Sau khi đánh vần mãi mới đọc xong cái hàng chữ to tướng, thằng nhỏ qua sang hỏi mẹ:
– Má ơi má, Cu Ba ở đâu hở má?…
Mẹ nó trừng mắt, dơ cái quạt lên định gõ vào đầu thằng nhỏ thì Hậu vội giảng cho con nghe cái xứ của ông râu xồm Fidel Castro. Thằng bé không hiểu mà có lẽ cũng không cần hiểu… Cứ hỏi mà được trả lời là được rồi. Thấy Thắng và Trung vào nhà, nó reo lên:
– A, bác Trung, bác Thắng…
Cái cảnh gia đình êm đềm của Hậu nhiều khi làm Thắng thèm muốn. Thắng cũng có nhiều cuộc tình duyên vụn vặt. Những cuộc tình duyên qua đi trong đời, nhiều khi thật tiếc mà nhiều khi cũng chẳng tiếc gì…
Có những lần đi trên hè đường Lê Lợi, gặp những người yêu cũ, dắt con đi chơi, lòng Thắng cứ dửng dưng. Có nhiều đứa mà Thắng cũng dự phần “đúc cốt tráng men”, nhưng Thắng không cảm thấy lòng mình cảm động. Hay là mình đã không còn tình cảm?… Vô lý, vì thấy gái đẹp, Thắng vẫn ngoái cổ lại nhìn để đầu đập vào cột đèn là thường.
Hay là mình yêu nhiều quá?…Hồi còn học trò, Thắng là thằng rất dễ mê gái. Mê rất nhiều người một lúc. Bây giờ thử nghĩ lại, Thắng cố tìm một mối tình đầu mà tìm không nổi. Trường của Thắng học bị kẹt ở giữa hai cái trường con gái. Một đầu là Sainte Marie. Một đầu là trường Trưng Vương. Đi lên phía trên, thấy những chiếc váy đầm ngắn cũn cỡn trên đầu gối, tiếng nói ríu rít như chim. Ngược về trường Trưng Vương là những chiếc áo dài màu xanh, với cái vỉa hè đầy những lá vàng. Những buổi sáng thứ hai chào cờ, Thắng nhiều khi quên cả giờ học để ngừng xe đạp lại, nhìn một rừng áo xanh màu nước biển mà tưởng như màu đại dương tràn ngập sân trường.
Ngày đi học thợ máy, Thắng cũng viết nhật ký:”Hôm nay, anh ngồi trên bến Charente, nhìn chiếc cầu treo và đoàn tàu đi lại mà mơ một cảnh trùng dương để trở về với em…”. Thắng viết bâng quơ như vậy. Không biết là trở về với em nào?… Trường Trưng Vương năm 1952, những hoa khôi Lệ Hằng, Tích Thiện, Thu Nga…Xa xôi quá rồi…Bây giờ chỉ còn những giờ học vất vả, những buổi thực tập trong khu Cơ-khí tổng quát.
Thắng nhớ người con gái lai của tỉnh Bordeaux, Evelyne. Câu thơ của Cung Trầm Tưởng “Tóc vàng sợi nhỏ, Chờ mong em chín đỏ trái sầu..”.Thắng gọi người con ấy là Liên tuy rằng mắt nàng xanh biếc….
Một buổi chiều thứ bảy, Chính – người bạn cùng khoá, rủ Thắng lên tàu đi về miền Nam. Mùa Đông rét mướt, gió lạnh luồn vào những toa tàu. Trong toa có Thắng, Chính và một người con gái.
Chính mời người con gái ra ngoài toa tàu trong vài ba phút để hai đứa thay quần áo “xi-vin”. Lúc người con gái trở vào, thấy hai thằng lính đã thành hai thằng học trò, khuôn mặt đầy chất ngây thơ màu trắng thư sinh.
Chính mới được ở nhà gửi sang cho một bộ bài tam cúc. Hai đứa ngồi trong xe lửa, đánh tam cúc cho đỡ buồn. Người con gái gạ chơi chung. Thắng cười bảo Chính:
– Giảng cho con này nó hiểu được, thật là một chuyện khó. Mày thử cố mang tài của mày ra thử xem sao.
Người con gái chỉ mỉm cười. …Lựa những quân thù ra ngoài, người con gái đưa Thắng bắt cái rồi chia làm ba thành thạo. Chính và Thắng ngượng đến chín cả người. Hai thằng xin lỗi về những chuyện tục tĩu, phê bình về người con gái mà cả hai tưởng rằng cô ta không hiểu.
Người con gái chỉ mỉm cười…Đó là Evelyne của xứ Bordeaux. Thắng gọi nàng là Liên để quên rằng mình đang xa cách quê hương. Tỉnh Bordeaux mùa Đông thật buồn… Nước trên mặt đường đóng thành băng, Thắng đi trên hè phố, trượt chân suýt ngã mấy lần. Liên và Thắng đi chơi với nhau khi buổi sáng chủ nhật còn đặc sương mù. Bà mẹ của Liên chỉ mong được về quê… Bà nói với Thắng, giọng bùi ngùi:
– Tôi chỉ mong ước được trở về Hà-nội …
Thắng kể cho Liên nghe chuyện Hà-nội. Liên xa Hà-nội từ lâu nên gần như quên hết rồi. Con đường đất vắng người, đầy những bóng cây, nhiều gió. Gió thật mát, gần cuối đường là chùa Một Cột, tới gần thấy thoang thoảng mùi hương sen nhẹ nhàng. Thắng đã nằm ngủ trên sân chùa Một Cột, những buổi trưa mùa hè, với hương sen, với tiếng chim hót, với tiếng ve sầu đặc biệt của trưa hè Hà-nội.
Người con gái say mê nghe kể chuyện để thương nhớ về quê mẹ. Thắng kể đến con đường Rollandes tràn ngập lá vàng. Trường Đại Học có cái cổng cao vút, bước vào trong, mát rượi cả người. Hai bên lối đi, hoa hồng rụng từng cánh, nằm trên đá sỏi. Gần đó, nhà Bác-cổ, sân cỏ non xanh mướt mà Thắng có rất nhiều kỷ niệm của những buổi hẹn hò.
Thắng kể cho Liên nghe cả những chuyện chàng và một người con gái, ngồi trên bãi cỏ sau nhà Bác-cổ, hết chuyện nói với nhau, ngồi im lặng bên nhau…Thắng bứt một cọng cỏ đưa lên mồm nhấm, cắn nát bét cả cọng rồi, một lát sau đau bụng đến…toát mồ hôi. Liên cười, ôm bụng cười… Tiếng cười vang cả Rue des Quatre Vents. Gió hun hút thổi từng cơn. Con đường Bốn Gió có những dãy nhà cổ kính, vài con bồ câu bay là là trên mặt đường rồi bay vào một công viên.
Buổi chiều, Thắng ăn cơm ở nhà Liên rồi ra nhà ga. “Thắng nhớ viết thư cho mẹ nhé, Thắng!” Bà cụ dặn dò Thắng như dặn dò đứa con trai. Liên kéo cao cổ áo, sửa soạn đi cùng với Thắng ra nhà ga, lúc nghe bà mẹ dặn Thắng, đọc câu thơ của Verlaine:“Ecoutez la chanson bien douce”.
Thắng đọc câu thơ của Xuân Diệu:“Này lắng nghe em, khúc nhạc thơm!”
– Thắng dịch hay quá!
– Đâu có phải của Thắng. Câu thơ ấy của Xuân Diệu đấy chứ. Có lẽ Xuân Diệu dịch của Verlaine.
Hai người ra nhà ga, hãy còn sớm. Chính chưa tới. Hai đứa lên Pont de U nhìn những cảnh biệt ly dưới sân ga. Bên kia cầu là Phố Bắc Ninh, Phố Sơn Tây…Đấy là để kỷ niệm những trận thắng của mẫu quốc khi đi chinh phục thuộc địa. Niềm đau của Thắng thật trọn vẹn, còn Liên thì chắc chỉ có một nửa thương quê.
– Hôm nào nghỉ phép, trở lại nhé. Liên vẫn còn thèm nghe chuyện Hà-nội. Nhớ kể cho Liên nghe chuyện trả kiếm ở Hồ Gươm, chuyện chuông vàng ở Hồ Tây. Nếu Thắng tới vào mùa hè, Liên sẽ dẫn Thắng tới một con đường đầy hoa phượng như đường Cổ Ngư của Thắng.
Người con gái vẫy tay…Con tàu quẹo, khuất đi bóng dáng chiếc áo măng-tô. Thắng tì tay lên thành cửa kính thẫn thờ. Lúc tàu chui qua một đường hầm, quên cả đóng cửa kính, mặt mũi ám khói đen sì.
Thắng trở về trường Rochefort. Sân cờ rộng mênh mông. Từ phòng băng qua sân cờ mới tới Câu-lạc- bộ. Buổi tối, Thắng và Chính ngồi uống nước cidre, nhìn những người chung quanh vui đùa. Những thằng mãn hạn quân dịch, sung sướng, trùm mền kín người đi thành hàng dài tới từng bàn xin tiền để uống tiễn đưa nhau trước khi chia tay.
Bài hát “La Quille” thật chất phác ngô nghê, nhưng đồng ca lên, nghe vẫn đầy đủ chất ai oán của cuộc đời lính tráng. Mười tám tháng trời quân dịch, làm quen với những buổi tập dượt, với nhà tù, với tiếng hét của ông Quản già, với những ngày “cỏ-vê” liên miên..
“La quille viendra
“Les BLEU viendront
“Pour laver les gamelles…
Thắng nghĩ không biết đến bao giờ mình mới được tung cái mũ mà hét lên như chúng nó. “Giải ngũ rồi!…La quille!”. Thắng ký một cái giấy tòng ngũ năm năm sau khi ra trường. Học cái nghề thợ máy vất vả. Nhưng lúc đi du hí, thì quên hẳn mình là một thằng lính sang Tây để học thành một thằng thợ.
Vào trong tiệm ăn có người ra cởi áo măng-tô treo lên móc. Đưa vài trăm quan là cúi đầu rạp xuống chào và cám ơn…Sung sướng đến tỉnh cả người.
– Đi về ngủ…
– Mới có hơn tám giờ.
– Mày không nhớ ngày mai có giờ thợ rèn hay sao? Về ngủ lấy sức ngày mai mà một tay giữ vững cái kìm, một tay đập búa tạ….
Buổi sáng, tiếng kèn đánh thức cả bọn dậy. Trời còn tối om om. Bảy giờ rưỡi đứng chào cờ, chỉ cách cái cột cờ chừng hai chục bước mà không nhìn thấy lá cờ. Sương mù dày đặc. Trời lạnh buốt căm căm…Chỉ nghe thấy tiếng hô của sĩ quan trực. …”- Base Ecole à mon commandement, garde de vous!” – “Attention pour les couleurs… Envoyez!”. Tiếng kèn vang lên rồi vọng vào trong sương mù. “- À la disposition des commandants d’Unité, Repos!”
Những buổi chào cờ sáng sớm thật ngắn ngủi. Sáng nào cũng vậy, Thắng và Chính thường trốn chào cờ, đứng nấp sau cái cổng xây trên con đường đi về phía lớp học. Đợi cho tất cả chào cờ xong, sắp hàng đi ngang qua chỗ mình đứng, chạy thật nhanh vào hàng cuối. Chính gọi hành động đó là việc “đón tàu”.
Việc “đón tàu” chỉ thực hiện được vào những buổi sáng có sương mù. Những buổi sáng đẹp trời, “Quản ghèn”, viên thượng sĩ đại đội, đã bắt gặp hai cái bóng người nấp hai bên cột.
– Ê, hai thằng kia, sao chúng mày trốn chào cờ.
Thắng và Chính giật bắn người, kéo hai gót giày vào nhau, chụm chân lại…Tên Quản ghèn, anh em đặt tên như vậy vì mắt lúc nào cũng ướt nhoèn, ghé sát mặt vào hai chàng, cười một cách nham nhở. Tao biết từ lâu rồi nhưng tao lờ đi cho đấy chứ. Thắng buột mồm chửi:
– Mẹ mày, chỉ được cái phét…
Không ngờ tên quản này đã từng tham dự viễn chinh ở Đông Dương. Nó khịa với Thắng:
– A, thằng này mày chửi tao… Được lắm. Hai thằng làm hai vòng sân cho dãn gân cốt. Buổi sáng tập thể thao mà…
Thắng và Chính ngao ngán nhìn cái sân chào cờ thật rộng. Rộng bằng ba cái sân Septo. Thắng chạy trước. Chính chạy theo sau, chiếc túi vải đựng sách đập đều đều nhè nhẹ lên đùi…Tên quản già đứng chống nạnh, hai chân dang ra trong một dáng điệu thật ngạo nghễ, nhìn theo. “Một, hai, một, hai, một, hai… Thằng đằng sau sai chân rồi, đổi chân đi…. Một, hai, một, hai, một, hai…Mau lên…”
Nó nói tiếng “mau lên” bằng tiếng Việt. Thắng nghĩ tới dân vùng quê xứ sở mình chắc đã hốt hoảng đến bậy cả ra quần vì cái tiếng “mau lên” ấy… Tiếng giầy của Thắng và Chính dồn dập từ xa, rồi gần, rồi lại ở xa…Hết hai vòng, Thắng và Chính cảm thấy hơi thở toát ra từ hai lỗ tai… Chiếc vành mũ ca-lô ướp đẫm mồ hôi.
Hai đứa nhìn tên quản già Tây căm hờn rồi lủi thủi đi về phía lớp học. Chính chửi thề:
– Mẹ, thật là chán đời..
– Thôi mà, năm xung tháng hạn…
– Thà rằng nó phạt mình nằm tù… Buổi sáng, ăn có khúc bánh mì, uống một ly cà-phê loãng, chạy hai cái “tua đờ pít”, còn chó gì là người…
Đường đi tới lớp học, cách đây chừng mười lăm phút, đầy những người mặc quần áo xanh, bây giờ đã vắng ngắt. Những người quân cảnh đứng rải rác ở một vài nơi để bắt những thằng trốn học bỏ về…. Thấy cái vẻ mệt mỏi bơ phờ của Thắng và Chính, những người quân cảnh không nỡ hỏi. Tiếng còi hụ ở xưởng Cơ-khí tổng quát rú lên hồi còi thứ nhất. Thắng giục Chính:
– Đi mau lên, không nó đóng cổng là hết vào…
Hai người chạy…Đôi chân như muốn văng ra ngoài. Chiếc “ghệt” chân bên phải của Thắng sút giây mà Thắng cũng không dám cúi xuống buộc lại. Cứ kéo lê sền sệt trên đường. Hai người tới nơi thì vừa lúc hồi còi thứ hai rú lên báo hiệu đóng cổng.
– Thật là vừa may…
Thằng khoá sinh trực nhìn Thắng và Chính mỉm cười:
– May cho chúng mày đấy nhé! Tao định đóng cổng từ hồi thứ nhất….nhưng tao chợt nhớ tới hai thằng mày bị phạt “gym-nát”. Thằng “ghèn” nó phạt chúng mày phải không?… Để đấy cho tao. Còn có ba tháng nữa là tao mãn hạn quân dịch rồi…
Thắng và Chính cám ơn thằng khoá sinh trực. Những người cùng chịu chung cảnh khổ rất thương yêu nhau, không phân biệt “mọi da trắng” hay “mọi da vàng”. Mỗi lần có một toán nào mãn hạn quân dịch, thằng quản ghèn trốn biệt. Lũ người mãn hạn như một lũ điên khùng. Chúng nó có riêng một ngày đặc biệt để phá phách. Chúng nó làm hình nhân của quản ghèn, treo cổ lên rồi đốt. Một đám ma người sống với những tiếng khóc không có nước mắt. …Nhưng ngày hôm sau gặp lại, quản ghèn vẫn hách dịch, quát tháo. Ông thượng sĩ đại đội bị chôn sống nhiều lần mà vẫn không chết…
Nhà Cơ-khí tổng quát chia ra làm nhiều khu. Khu học thợ dũa, thợ hàn, thợ rèn…Thắng và Chính đi vào khu thợ rèn. Tất cả đã nhận lò, cứ hai người một cái. Thắng và Chính và cái lò trong cùng, cất sách vở rồi theo lũ bạn tới xúm quanh người huấn luyện viên già. Người thợ già, mặt thật nhiều nếp nhăn. Những nếp nhăn xếp nếp trên mặt như một chiếc khăn mù-xoa nhầu nát.
– Mở lớn mắt ra mà coi…Tao chỉ cần đập năm nhát, miếng sắt này sẽ thành một nửa cái kìm.
Người thợ già mở hơi cho thổi vào lò. Lửa bốc lên như hoa cà, hoa cải. Hắn đút miếng sắt vào lò cho tới lúc thật đỏ hồng.
– Phải để ý coi chừng lửa. Nóng quá, sắt sẽ chảy. Nguội quá, chúng mày đập tới mỏi tay, cục sắt sẽ lại giống cục sắt hơn…
Tuy già nhưng hắn vẫn có óc trào phúng. Tiếng búa nện xuống đe. Một, hai, ba, bốn… Bàn tay khéo léo xoay chiếc kìm cho miếng sắt nghiêng đủ mọi chiều trên chiếc đe. Năm nhát búa, nặng có, nhẹ có, làm thay đổi hình cục sắt. Người thợ già liếc nhìn chung quanh. Những con mắt thán phục, trầm trồ. Sau nhát búa thứ năm, hắn cầm kìm cặp lên, giơ về phía trước, xoay đi, xoay lại cho mọi người coi:
– Thấy hết cả chưa?…
Rồi viên thợ già cầm búa giáng thêm một nhát búa thứ sáu, phá hoại hết tất cả công trình của mình, quẳng cục sắt vào đống sắt ở góc nhà. Những con mắt tiếc rẻ nhìn theo…
– Về chỗ tất cả. Bắt đầu làm việc đi. Tao làm trong năm phút, chúng mày sẽ làm trong năm giờ. Than ở góc nhà. Mở hơi, vặn về bên trái một vòng. Tắt thì vặn ngược lại…Làm việc đi!…
Chính và Thắng trở về lò, tay cầm hai cục sắt. Thắng đi lấy than bỏ vào lò…Ngày còn ở nhà, thỉnh thoảng phải vào bếp thì đã kêu khổ ầm lên. Bây giờ thì phải làm cái công việc quạt lò. Những cái lò bên cạnh đã có vài tiếng chí choé cãi nhau. Chưa bỏ than đã mở hơi. Bụi bay mù mịt…Trời lạnh lắm đây chúng mày ơi! Muốn tắm nước nóng, phải đi bộ hết con đường 14 Juillet lại còn phải chầu, phải chực nữa đấy.
Một thằng nổi tiếng về kéo vĩ cầm, khoanh tay đứng nhìn, không chịu làm. Thà rằng bị số không, bị phạt chứ nhất định không chịu làm hỏng những ngón tay bắt được của trời…
– Thế thì tại sao mày học nghề thợ máy?…
– Tao định đi Tây chứ đâu có muốn làm thợ máy!
– Nhưng bây giờ trước cái lò rèn, mày hãy quên cái violon của mày đi.
Chung quanh, đã nhiều tiếng búa đập xuống đe chan chát. Thắng lôi cục sắt đỏ rực ra lò. Chàng lấy kìm cặp để lên đe, giáng búa xuống. Cục sắt rời khỏi kìm bắn tung lên, vẽ vệt lửa thành hình một cái cầu vồng nho nhỏ. Thắng cặp lên, bỏ vào lò rồi thở dài..
Lại đến lượt Chính thử tài… Cũng chỉ như vậy.
– Hay tao giữ kìm cho mày đập.
– Ừ, có lẽ như vậy được đấy.
Hai tay Thắng nắm chặc chiếc kìm. Nhát búa giáng xuống làm tê và rung bắp thịt. Phía bên kia, những khu tiện và gò, tiếng máy chạy sè sè, thỉnh thoảng lại rú lên khi người thợ cho sắt vào máy. Thắng đã phải đo những chiếc kim đồng hồ, chiều dầy chỉ bằng giấy cuốn thuốc lá…Thắng không ngờ rằng cuộc đời của mình lại thành thợ máy. Ai biết chắc được tương lai mình? Thắng xoay chiếc kìm, lật ngửa miếng sắt lên. Chính lại đập xuống. Thắng ngắm nhìn công trình của mấy tiếng đồng hồ. Miếng sắt vẫn chỉ là miếng sắt.
Chính bỏ cái búa xuống đất. Trời lạnh như vậy mà trán Chính lấm tấm mồ hôi. Thắng hỏi:
– Không đập nữa à?..
– Mệt lắm rồi…
– Làm thế nào để có điểm môn forge?
Vài ba thằng đã mang tác phẩm lên chấm. Người huấn luyện viên già cầm coi, cho điểm vào cuốn sổ hàng ngày rồi lơ đãng vứt vào góc nhà. Thắng và Chính cùng có một ý nghĩ. Chính nói trước:
– Có lẽ tao với mày phải “thuổng” của nó lấy hai cái. Khi nào nó gần tới, báo động cho tao biết..
Thắng và Chính đi tới gần căn nhà bằng kính. Người thợ già đã ra ngoài, đi đi, lại lại ở giữa mấy cái lò, chờ tan sở. Hai người vừa cúi xuống nhặt lên, chùi chữ viết ghi tên bằng phấn lên áo thì có cảm giác như có ai nhìn mình. Thắng ngửng mặt lên, thì nhìn thấy đôi mắt lạnh lùng của người huấn luyện viên già:
– Hai thằng làm gì đó? Định lấy cái gì đó?
Chính giật mình đứng lên, xoay lưng lại tựa vào bàn, mắt nhìn thẳng vào cái mặt nhăn nheo. Sau lưng vài chiếc vỏ chai coca cola chạm khẽ vào nhau, tiếng kêu sắc, nhọn. Thắng nắm chặt lấy tay Chính:
– Thưa ông, chúng tôi không làm nổi.
– Có cái gì mà không làm nổi. Tiếng “không thể được” làm gì có trong tự điển. Ê, hai ông bạn chịu khó ký vào tờ giấy này. Tám ngày giam phòng… Cần khiếu nại gì không?
Thắng ký thật nhanh. Chính cũng ký thật nhanh. Cái ô dành để khiếu nại, bỏ trắng. Biết viết cái gì bây giờ? Thắng không sợ giam phòng và Chính cũng vậy. Buổi tối, đáng lẽ ngủ trên giường nệm thì vào phòng giam ngủ trên sàn gỗ. Chính thấy Thắng buồn, an ủi:
– Tao biết mày thứ bảy phải xuống Bordeaux. Nhưng thôi cứ để mẹ con Lyne nó chờ…
Thắng thẫn thờ bước ra ngoài. Đi qua thằng kéo vĩ cầm, Thắng dúi cho nó tác phẩm của người khác mà mình vừa bỏ vào túi. Thắng xếp sách vở vào túi dết một cách hằn học. Muốn xé đi hết, quăng mẹ nó vào lò rồi tung hê cuộc đời của mình…
Thắng thấy gấp trong tập sách, tờ báo mới mua chiều hôm qua, có hình lửa đạn của chiến lũy Điện Biên. Về quê hương bây giờ để nhìn cái cảnh núi xương, sông máu hay sao? Lò lửa vẫn sáng rực. Thắng xúc cát đổ vào. Bên trong cái âm ỷ, ngọn lửa dịu dần rồi tắt hẳn như cái sôi sục trong lòng Thắng. Những bước chân không giày chạy trên bờ cỏ. Tiếng súng của những đêm dài nằm ngoài hậu phương nghe vọng từ phía có thật nhiều ánh đèn…Thắng chưa muốn về quê hương lúc này…
Buổi tối, Chính và Thắng xách khăn gói đi vào tù. Nhà tù chia làm bốn phòng. Hai phòng rộng, hai phòng thật hẹp. Tiếng gọi là nhà tù, nhưng vẫn lịch sự, có chỗ rửa mặt, có cầu tiêu sạch sẽ. Phía trong cánh cửa cầu tiêu có một hàng chữ “Mọi người đang chờ ngài!”
Thắng phục Chính và tất cả những thằng bạn tù có cái đức tính thản nhiên. Trên nóc cái sân chơi đan bằng sắt mắt cáo, đầy những lá khô. Đời mình rồi cũng như những chiếc lá kia. Khi đã lìa cành rơi xuống đất, thì bay lang thang khắp các ngả đường rồi không biết sẽ mục nát ở xó xỉnh nào. Thắng lộn vành mũ ca-lô ra, lấy mấy điếu thuốc lá dấu trong đó, cấu đôi ra chia cho mỗi thằng một nửa điếu. Những bàn tay nâng niu một nửa điếu thuốc lá làm cho Thắng càng thêm nghẹn ngào. Thắng lần gấu áo lấy ra mấy que diêm...Khói bay lảng vảng trong gian phòng rồi bị kéo thật nhanh ra phía cửa sổ tròn trên cao. Nằm bên cạnh, một Mọi da trắng tâm sự:
– Nó mắng tao… Tao đứng lặng im nghe. Nhưng mặt trời chiếu vào mắt tao, chói quá. Tao phải nheo nheo cái mắt lại. Ấy thế là nó tưởng tao cười, nó cho tao luôn bốn củ. Nhưng tao …”măng-phú”. Chẳng cần giảng giải lôi thôi…
Ban đêm trời lạnh đến ghê người. Không lò sưởi, không đủ mền đắp. Hai cái mền, một cái trải xuống dưới để nằm, một cái đắp. Đi ngủ, mặc thật nhiều quần áo, đi cả giầy mà buổi sáng thức dậy, bước xuống đất, chân không có cảm giác, cứ như lơ lửng trên chín từng mây…
Buổi sáng, lúc năm giờ sáng, tên Đội Bò đánh thức hết trước cả dậy. Chiếc xe đổ thùng rác bóp còi ầm ỷ. Poubelle! Poubelle! Tiếng thằng Đội Bò oang oang như tiếng ếch kêu. Những thằng tù da trắng nhảy lên xe. Thắng và Chính leo lên sau cùng, đứng nép vào nhau trên sàn xe, ngửi thấy cả mùi rác rưởi ẩm ướt… Chiếc xe chạy vòng khắp căn cứ, nhặt các thùng rác đổ lên xe.
Trời lạnh buốt…Gió tổi ù ù hai bên tai. Thắng kéo hai vành mũ ca-lô xuống úp lấy tai. Những con chuột ban đêm nhảy từ thùng rác rồi chạy biến mất vào trong cống. Mặt trăng sừng trâu vàng vọt nằm chênh chếch.
Lúc gần bảy giờ sáng, chiếc xe mới đi hết một vòng cái căn cứ mênh mông, đưa những thằng tù trở về. Thằng Đội Bò trả lại thắt lưng, giây giầy, cà-vạt…Về phòng ăn sáng rồi lại sửa soạn đi học.
Quãng đời cực khổ nhất của Thắng…Thắng sợ cái tiếng Poubelle của thằng Đội Bò. Cái chán nản ngồi trong lớp học, cái đau đớn bị sỉ nhục trên bảng đen, trước những cái máy móc rắc rối:
– Động cơ bốn thì …khi “bougie” bật lửa, đốt chất lỏng thành hơi, đẩy cái này..thì cái này mở ra…làm cho cái…chuyển động một nửa vòng…
– Anh không biết gọi tên những cái đó à? Động cơ đâu chỉ phải gồm có …cái này… và cái này…
Thắng nhớ mãi cái cười dè bĩu của thằng huấn luyện viên….”Ùy, ùy, les moteurs se composent des machines et des trucs…”.Thắng muốn đấm vào mặt hắn, rồi muốn ra sao thì ra…Nhưng đôi mắt của Evelyne, của Liên hiện ra, rộng bát ngát như Hồ Tây, lông mày xanh như dãy núi Ba Vì…
Những buổi tối, nằm trong tù nghe Chính kể chuyện về đời Chính rồi bâng khuâng. “Anh tóc xanh và tôi tóc xanh”. Cả hai đứa đều mười chín tuổi. Sống ở đây một năm, thấy cuộc đời lớn khôn hẳn lên. Cuộc đời thiếu niên của Chính còn khổ hơn Thắng nhiều. Mày có bao giờ chạy trong giông bão, qua một cái làng, lội qua một con ngòi, tới một hiệu thuốc Tây của một cái huyện nhỏ bé tỉnh Thái Bình, để mua một viên thuốc cảm Aspirine?… Lúc mang về đến nhà thì ông bố của mày chỉ còn là một cái xác??? Nước mắt của tao hoà với nước mưa chảy đầy mặt…Bàn tay nhỏ bé của tao, của tuổi mười sáu, một tay dắt mẹ, một tay dắt em gái tìm về vùng Tề… Nước mắt của Chính thành giọt từ hai kẽ mắt, chảy xuống đọng ở hai bên tóc mai…
Chính móc túi ra lá thư của đứa em gái, lá thư nhầu nát, chứng tỏ rằng Chính đọc đi, đọc lại đã nhiều lần “Anh đừng lấy vợ đầm, anh nhé! Anh mà lấy vợ đầm thì mẹ buồn lắm đấy. Cả em cũng buồn nữa, vì em sợ rằng chị ấy giữ anh lại thì chẳng bao giờ anh về nữa”. Thắng trả thư cho Chính, ngậm ngùi:
– Em gái mày nó thương mày lắm đấy chứ…
Chính kể cho Thắng nghe cuộc đời ăn nhờ, ở đậu khi còn đi học ở Hà-nội. Mẹ Chính và em gái Chính ở một tỉnh nhỏ để buôn bán. Chính ở nhờ nhà bà cô trên Hà-nội, học thi nốt cái bằng tú tài. Buổi chiều, Chính phải đi dạy học thêm để lấy tiền may quần áo, mua cho con em gái một vài món đồ chơi nho nhỏ. Những buổi chiều nhu vậy, nếu Chính về trước bữa cơm thì bà cô Chính mỉa mai:
– Sao hôm nay cậu ngót bụng sớm thế? Thấy đói bụng mới mò về chứ không còn lại đi ….
Nếu về đúng bữa cơm thì lại có một giọng khác:
– Cậu về đúng bữa như là có ống nhòm. Tài thật!
Vô phúc cho Chính khi về đến nhà mà cả nhà đã ăn cơm xong. Những lời nói như rứt từng miếng thịt:
– Mày là cái ông gì mà phải để cho bà cơm chờ canh đợi hử? Thừa cơm, bà cho chó nó ăn. Chó nó ăn, nó còn biết coi nhà chứ mày thì thật là phí của!
Chính hằn học nhắc lại những lời đó…Tại sao người ta chỉ thích làm khổ lẫn nhau?… Cái sung sướng chật hẹp của con người có lẽ là sự đau khổ của kẻ khác. Lòng Chính thấy bừng bừng:
– Tao viết một lá thư về nhà…Hẹn với mẹ tao hai năm nữa, ba mẹ con sẽ sống với nhau. Có rau ăn rau, có cháo ăn cháo. Tao làm một chuyến đi Tây, học cái nghề thợ máy tàu bay này đây….Tao cũng có nhiều chất giang hồ lắm. Bởi vậy đến Mạc-xây, tao nhất định đứng …. tiểu tiện ở đại lộ Canebière. Cho nó hả cái vong linh!.
Thắng nhớ đến Chính, những lúc dán mũi vào tủ kính nhà hàng để mua đồ chơi gửi về cho cô em gái. Thắng thấy Chính mới xứng đáng là một người. Với Thắng thì không thể kể được những kẻ nào đi bằng hai chân là một con người.
Tiếng lá khô xào xạc đuổi nhau trên cái sân thượng lợp mắt cáo. Ban đêm ở cái tỉnh nhỏ, buồn thiu ít tiếng xe. Nhất là những đêm đông. Vài ba thằng da trắng nằm bên cạnh đang bàn tính đến tương lai khi mãn hạn quân dịch…Thắng ngủ chập chờn cho tới khi thằng Đội bò gọi tù thức dậy đi đổ poubelle.
Hết hạn tù, Thắng lại đi Bordeaux vào những chiều thứ bảy. Đi một mình vì Chính không thích đi…Thắng mua một chiếc vé vào cửa ga, đứng chờ chuyến tàu từ Nantes lại, như đón người quen, để che mắt tụi quân cảnh gác ở nhà ga hay hỏi giấy phép. Thắng bước vội vã lên tàu rồi mua vé, chịu phạt thêm tiền.
Thắng đã kể hết cho Liên nghe chuyện Hà-nội. Những người con gái Hà-nội, kẹp tóc, những cái đuôi tóc dài buông thõng xuống, chùng hơn gấu áo veste. Tới những ngày học trò, cắp sách tới trường mà không học được gì cả. Thi lục cá nguyệt thì cả một lớp nọ, chép cho cả một lớp kia, ở phía trên không đề tên. Chia cho từng thằng một, thằng nào được tờ nào thì đề tên lên trên rồi nộp. Cả năm chục bài thi đều không sai một cái dấu phẩy, để đến nỗi về sau giáo sư phải cho điểm sạch sẽ vậy.
Thắng thèm được đi bên cạnh Liên..Thắng kể cho Liên nghe những buổi đạp xe lên chùa Láng. Đường lên dốc, xuống dốc…Những bóng cây in xuống mặt ao, lá cây rung rinh, di động những khoảng sáng tối trên mặt nước.
Kể nhiều lần chuyện Hà-nội cho Liên nghe, Thắng thấy tiếc Hà-nội. Hội nghị Genève đã cắt đứt ngang lưng quê hương. Nước Hồ Gươm xanh ngắt, nên thơ, bây giờ là chỗ rửa chân của trăm ngàn anh cán bộ. Đứng bên bờ sông Garonne, Thắng nhìn chiếc cầu sắt mà nhớ cầu Long Biên, nhớ tiếng chuông tàu điện kêu leng keng. Thắng bảo Liên:
– Chúng mình mất Hà-nội rồi.
Liên rủ Thắng trốn ở lại Bordeaux. Ít ra, ở đây chúng mình còn có vài ba con đường giống Hà-nội. Có chuông tàu điện, có cầu sông Garonne. Tuổi trẻ vẫn sợ những cái gì éo le bất trắc. Lúc nào cũng rụt rè, để rồi cơ hội qua đi lại luyến tiếc. Thắng lắc đầu. Liên lại đề nghị:
– Hay là Liên và mẹ về cùng với Thắng…
Thắng cũng vẫn lắc đầu. Hình dung tới cái ngày về nước với số lương trung sĩ, hai ngàn bốn mươi tám đồng. Vẫn biết mẹ con Liên giàu, nhiều tiền…Cái nhất định ở trong Thắng rất dễ biến thành nhị định rồi tam, tứ định.
Ngày về nước, khi xe lửa qua Bordeaux, Thắng gục đầu vào thành cửa kính. Thế là mất, mất hết rồi. Chính đã chết trong một kỳ nghỉ mát ở Port des Barques. Chính bị chết đuối, xác trôi dạt sang tận Ile Madame. Thắng đi nhìn xác Chính và ôm mặt khóc, chạy về khách sạn. Thương cho mẹ Chính, thương cho cô em gái…
Tàu xa dần Bordeaux… Thắng gục đầu xuống cánh tay, mặc cho nước mắt chảy…Đấy là lần cuối cùng Thắng khóc…