← Quay lại trang sách

- 5 -

Về nước, Thắng mang lon trung sĩ. Một chữ V vàng nằm trên vai. Thắng và những bạn làm cái lon, chữ V hơi doãng ra nhiều một chút, để trông nhập nhoạng, cứ tưởng là thiếu úy…. Chữ V gần như thành chữ I. Bây giờ nghĩ lại, Thắng không hiểu sao mình lại hiếu danh đến như thế. Nhiều khi, Thắng và các bạn thắc mắc hỏi nhau rồi tự trả lời. Tạm thời lấy làm thoả mãn ở những câu trả lời, nhưng rồi vẫn ấm ức.

– Sao mình không được là sĩ quan nhỉ?

– Tại mình học ở cái trường thợ máy của Tây, cái trường đó nó chỉ đào tạo hạ sĩ quan…

– Thì chỉ là một sự thay đổi tên…Gọi cái trường đó là trường đào tạo sĩ quan thì đã sao?

– Không được…

– Tại sao không được?

– Nếu cho mày là sĩ quan thì làm sao bắt được mày cầm búa, cầm kìm, cầm mỏ-lết…Làm gì có sĩ quan dầu mỡ…

Chỉ có thể trả lời được đến như thế…Ở vào cái thời đó, kiếm một cái cấp bực Thiếu-úy, không phải là chuyện khó. Trường Đà Lạt, trường Thủ Đức, lúc nào cũng mở rộng cửa đón chờ…Chỉ cần bỏ cái kìm, cái búa, xông ra cầm súng là đã có quyền “vinh hoa phú qúi”. Nhưng những thằng như Thắng thì đâu có cần.

Lúc nào cũng làm như mình đang sống ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc. “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu thì cần gì công hầu, khanh tướng…” Nhưng tại sao cứ thích làm cái chữ V có cái góc tới hơn một trăm độ? Tại sao khi đi ngoài đường, gặp những người lính chào lầm, vẫn cứ lấy làm khoan khoái, dù biết rằng cái khoái ấy nó rất trẻ con?…

Tuổi Thắng mới vừa tròn hăm mốt. Vừa đủ tuổi để làm người. Nhưng hơn một năm trời sống ở trường Rochefort, về nước, thấy cái nhân tình, thế thái, Thắng bỗng sinh ra yếm thế. Một cái ngao ngán nhú dậy ở trong người. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại ngân”. Lương trung sĩ, hai ngàn bốn mươi tám đồng. Ngồi trong quán nước mà cứ thấp thỏm thò tay vào túi đếm tiền.

Nhưng có một điều an ủi là những người phi công cũng cùng chung một cảnh ngộ. Cũng chỉ mang lon trung sĩ, lương cũng chỉ như vậy. Buổi sáng ăn mấy đồng bạc xôi, đi bay dù rằng tốt nghiệp ở Nha Trang, ở Marrakech hay ở Avord.

Thấy những người bạn cùng khoá người Cao Mên, người Lào, đang học trường, vừa hết phase đầu đã được mang lon thiếu úy, lòng cứ thấy ngùi ngùi làm sao ấy…Một chút ganh tị. Nhưng rồi cũng tự an ủi rằng nước chúng nó đâu có cái lịch sử “bốn ngàn năm văn hiến”.

Thỉnh thoảng, Thắng và những người bạn ngồi đầu hè, nhìn trăng sáng của bờ biển Nha Trang, để triết lý vụn về cuộc đời. Trước mặt là đài Kiểm-soát Nha Trang mờ mờ ánh đèn. Phía tay trái, phi đạo nằm im, ngủ kỹ. Thỉnh thoảng, phi trường mới thắp đèn sáng cho một phi cơ dân sự hạ cánh về ban đêm. Đèn phi đạo thắp bằng dầu lửa, có cái bấc to bằng cổ tay. Đặt cho ngọn lửa xuôi theo chiều gió. Khi tàu bay hạ cánh xong, lại tắt đi…

Thắng nghĩ tiếc cái thời mà mình và tất cả đều mang lon trung sĩ ở Nha Trang. Có những người phi công lái tàu bay “bà già” Morane 500. Có những người phi công lái tàu bay hai máy Marcel Dassault 315. Tất cả đều có những phút bốc đồng, những phút vui đùa như thời học trò. Những người thợ máy như Thiện, như Kính…Những người bạn làm các nghề khác như sửa radio, nghề kiểm soát không lưu. Những người bạn phi công như Hữu, như Ngọc, như Đặng, như Pi-lốt Thái Bình…

– Mấy cái thằng trung sĩ đi Tây về thật ba gai..

Một ông thiếu úy than phiền như vậy những vẫn có ý nể…Không nể làm sao được khi trong đám trung sĩ có những con người tài ba như Hữu, mà đến Tây cũng còn sợ.

Có một lần, Hữu lái tàu bay Marcel Dassault hai động cơ mà hạ cánh xuống một phi đạo thật ngắn. Chạy đến hết phi đạo, mà tàu bay vẫn còn trớn. Nếu đạp thắng mạnh thì nhào luôn. Hữu đã thật bình tĩnh, đạp thắng chân trái. Tàu bay quay về bên trái. Hữu bỏ thắng bên trái, rồi đạp mạnh thắng bên phải. Hữu cứ làm vậy cho tới khi hết đà, tàu bay ngừng lại. Thằng phi công Tây ngồi bên cạnh, xanh mặt một lúc mới hoàn hồn, nhìn sang Hữu, thấy Hữu nhoẻn miệng cười, một nụ cười rất học trò…

Những phút bốc đồng của tuổi trẻ gần như thường xuyên. Cái thời vô tư lự, sống hồn nhiên như một tảng đá, không cần biết lo nghĩ, không coi một cái gì là quan trọng, kể cả sự sống và sự chết. Cuộc đời thật đẹp trong những buổi chiều, ngồi ở đầu nhà nhìn ra biển. Những cánh buồm ngoài khơi dần dần xa, chỉ còn thấp thoáng.

Thắng nhớ hết những người bạn xưa..Có những con người liều như Ngọc. Có thằng Tây nhất định bênh cái văn minh của nước mình…Khi một ông kỹ sư Tây chế ra cái tàu bay mà có bánh đáp ở đằng trước, thì hạ cánh, cái đuôi không bao giờ có thể được xuống sân nhựa. Ngọc hỏi lại:

– Có thật không?

Thằng Tây quả quyết:

– Nhất định là như vậy…

– Mày chịu trách nhiệm nhé….Tao hạ cánh cái đuôi quẹt đất cho mày coi.

Sau một cái gật đầu, Ngọc leo lên phi cơ và làm một vụ “xin tí lửa”. Hai bánh xe chạm đất với cái đuôi kéo lê bật lửa. Chỉ tội nghiệp cho mấy người lính chữa lửa rú còi xe, chạy theo. Phi cơ chỉ bị hư hại nhẹ nhưng Ngọc cũng bị các quan Tây mắng. Thắng và các bạn Thắng nhiều khi quên hẳn mình là dân mặc áo kaki.

Tất cả những cư xá độc thân của các căn cứ, cái nào cũng giống nhau. Cũng có một lũ người nghịch như quỷ sứ. Cũng có những thằng sống như thời tiền sử, tồng ngồng không cần che đậy. Cũng có những thằng sợ ma như thằng Trọng, không dám ngủ một mình. Khi nào mà thằng nằm cùng phòng đi trực hay đi gác thì lại ôm mùng mền, chăn chiếu đi ngủ nhờ. Trọng bảo Thắng:

– Nằm một mình ở đây, nó cứ ghê ghê mày ạ.

Những buổi tối, căn phòng ở đầu nhà dùng làm cầu tiêu và nhà tắm, bóng đèn bị hỏng là Trọng lại khổ sở vì phải làm những công việc cần thiết. Đi tiểu thì Trọng mở quần ngay từ ở ngoài đầu hè, xông vào trong, làm vội vàng rồi lại ra ngay…Có nhiều khi “tưới” cả lên người cái thằng đang ngồi nhăn mặt trong cầu tiêu.

Có một lần, Thắng đã thử đùa chơi, nhưng lần sau thề không dám tái phạm. Những bức tường của cầu tiêu chỉ thấp vừa tầm tay. Thấy Trọng ngồi bên kia, Thắng ở bên này thò tay qua giật nước. Nước chảy ào xuống mạnh làm Trọng hoảng hốt, tông cửa nhảy bổ ra ngoài, húc đầu vào cánh cửa, chạy một mạch về phòng. Sáng ngày mai, Thắng thấy trán Trọng sưng vù lên như quả ổi…

Một sự hối hận đè nặng chĩu…Thắng xuống ban Kiến-tạo xin thay cái bóng đèn. Thắng đã đứng nhìn bốn ông lính thay một cái bóng đèn. Hai ông đứng giữ một cái thang, một ông leo lên. Một ông nữa ở dưới đưa cái bóng đèn cho ông đứng ở trên. Ông này tháo cái bóng đèn đưa cho ông ở dưới, lắp cái bóng đèn mới rồi leo xuống. Bốn ông lính thay một cái bóng đèn, từ từ vác thang đi ra.

Buổi sáng, Thắng lên Đài Kiểm-soát chơi với Trọng. Thắng leo bốn cái cầu thang lên một cái lầu cao, chung quanh bằng kính để nhìn thấy rõ hết cả phi trường. Trọng là một thằng thích làm thơ nên đã gọi đó là Lầu Gương. Nó làm dăm bảy bài thơ ca tụng Lầu Gương gửi đi các báo. Mỗi một lần báo đăng thơ của nó là mỗi lần bọn Thắng lại khổ sở vì phải nghe nó bình thơ.

Thắng vào trong Lầu Gương, thấy Trọng đang ngồi trầm ngâm. Phi cơ hạ cánh và cất cánh của cái phi trường này thật ít. Chỉ phần nhiều là những máy bay “bà già”, rất sợ gió ngang. Hai cái cẳng lúc nào cũng thò ra ngoài, nên có những cuộc đối thoại vô tuyến ngộ nghĩnh. Cứ khi nào gần hạ cánh, vì quen mồm, những anh chàng kiểm soát không lưu nhắc tới vụ kiểm soát lại cẳng đáp thì lại có tiếng cười hì hì trong máy vô tuyến:

– Hai cái cẳng thò ra từ…khuya. Tàu bay “bà già” mà, khỏi cần kiểm soát…

Trọng cứ ngồi trước bàn, bên cạnh mấy cái máy vô tuyến, chờ phi cơ gọi. Tiếng ồm ồm trong máy vô tuyến. Thắng đập mạnh vào vai Trọng:

– Kìa, tàu bay nó đang gọi mày..

Trọng tỉnh cơn mơ, cầm lấy cái micro..Nó bàng hoàng hỏi Thắng. “Tàu bay ở đâu thế mày?…Ống gió rách mẹ nó rồi, chiều lại phải trèo lên thay cái khác…Gió ngang mạnh thế này, bà già mà đáp, ông cho thì hộc máu mồm….”

Trọng đập mạnh tay vào chiếc máy đo gió, coi đèn chỉ chiều gió có thay đổi gì không, rồi chửi thề thật tục. Ngồi đây nhiều lúc cũng buồn. Việc hạ cánh chỉ trao đổi vài câu ngắn ngủi…”gọi lại ở gió xuôi – Số một hạ cánh – Hạ cánh đi, gió ngang bên trái, mười sáu gút, cẩn thận….” Tàu bay vào bến đậu, tắt máy. Trọng lại ngồi chờ một tàu bay khác.

– Tao sắp xin đổi nghề…

– Tại sao vậy?…

– Sắp sửa có nhiều tàu bay của Mỹ sang đây, làm việc mệt lắm. Với lại, tao rất sợ thức đêm một mình, nhìn những con đom đóm.

Những con đom đóm mà Trọng nói đây là những đèn lập loè, chớp, tắt, ở hai bên cánh máy bay. Đèn bên trái màu đỏ, đèn bên phải màu xanh. Phải nhớ như vậy, nếu không tàu bay bay tới lại cứ tưởng tàu bay bay đi…

– Tao đang xin đi bay lại. Tao bị loại ngày xưa cũng chỉ vì một lúc hứng thú, sà xuống thấp ở đồng cỏ để đuổi bò. Thôi chuyến này, tao cũng đành vĩnh biệt Lầu Gương.

Trọng thổ lộ với Thắng về việc xa Lầu Gương với nhiều luyến tiếc. Không biết có phải sự luyến tiếc thực tình hay chỉ vì ở đây có một người con gái đẹp. Một cô lính đàn bà. Hồng, nàng công chúa của Lầu Gương, không hiểu rằng khi mặc chiếc áo dài thuần túy có đẹp không, nhưng trong bộ quân phục “lính đàn bà” thì trông cũng xinh lắm.

Khi mà Hồng bước chân lên thang gác thì bọn Thắng lại có năm bẩy cặp mắt hau háu nhìn theo cái gấu váy nhảy nhót trên đầu gối. Những lúc mà Hồng gác chân lên thành ban-công, ngắm trời, ngắm mây thì lũ người phía dưới cũng ngước mắt nhìn lên trời, mong ngắm được…một vì sao hiện ra giữa ban ngày…

– Mày bỏ Lầu Gương, mày không nhớ cô Hồng?…

Trọng cau mặt. Sự có mặt của cô lính đàn bà vào loại hoa khôi này gây ra nhiều nỗi bực mình.

Mày có bao giờ biết được cái đau khổ của việc chỉ còn đủ tiền mua một gói thuốc lá mà phải nhịn thuốc để mang tiền đi biếu bà thợ giặt?…Mày có biết được cái hân hạnh và sung sướng được trả tiền ăn sáng cho hai người?… Còn nhiều thứ nữa. Như những chuyện phải nghe và trả lời tô-lô-phôn suốt ngày. Cứ có tiếng chuông reo, nhấc máy lên là có một ông xin gặp người đẹp…

Trọng tả oán nghe thật lâm ly như làm một bài thơ u sầu. Thắng cũng đã nhiều lần nhìn cô lính đàn bà làm việc. Tiếng máy chữ lách ca, lách cách. Hồng đánh máy cứ một ngày thì xong một công văn. Lấy gương soi lại mặt năm lần. Nói chuyện điện thoại đến mười lần. Trông đến sốt cả ruột.

– Mày lại đi, buồn nhỉ…Tối nay, mình đi uống gì chăng?

Trọng nhìn dãy núi phía trước mặt. Những đám mây trôi lang thang khắp bầu trời, khi tới đỉnh núi thì ngừng lại.

Đỉnh núi càng cao, mây tụ lại càng nhiều. Tình bạn bè ở noi đây, giữ chân những đám mây giang hồ. Nhưng ngừng lại ở đây, nhìn xuống cái thung lũng cô đơn, thấy mình cứ tan dần…tan dần như những đám mây kia.

Dạo này, tụi Thắng uống say luôn…Tụi Mọi da trắng sửa soạn lên đường trở về quê mẹ, nên mời đi uống lu bù. Mụ Béo, chủ cái quán trong phi trường, cười cứ tít mắt, luôn tay rót rượu ra ly, luôn tay đếm tiền. Tậu nhà, mua xe ô-tô. Anh chồng bị đi mua hàng nhiều quá, người cứ gầy tọp đi, còn chị vợ thì càng ngày càng phì ra y hệt một cái xe tăng. “Tốt mái, hại trống” là thế…

Bọn Tây về nước cũng làm cho Thắng thấy nhớ và buồn. Tuy rằng trước đây, thỉnh thoảng vẫn có những vụ cãi nhau nho nhỏ. Những thằng Tây, học cùng trường, cùng lớp, Thắng rất hiểu tài sức nó, nhưng sang đến bên này bao giờ nó cũng được làm sếp…Nhưng lúc nào cũng thật bình đẳng vì vướng chút tình bạn bè.

Kể ra thì sự sống chung với Tây, cũng không đến nỗi bực mình nhiều lắm. Bây giờ phải chia tay. Một sự luyến tiếc thực tình. Những cuộc tiễn đưa, những câu nói vĩnh biệt ai oán. Những thằng Tây uống say rồi hát. Hát chán rồi xoay ra khóc. Rượu trong chai vơi dần. Lũ Mọi da trắng bắt tay lũ Mọi da vàng thật chặt rồi mếu máo dặn:

– Thôi, tụi mày ở lại…Tao để lại vợ tao cho đó. Hễ vợ tao nó có nhờ tụi mày viết hộ thư xin tiền tao thì tụi mày đừng có viết…

Lũ Mọi da trắng cứ ân cần dặn đi dặn lại…”Chúng mày phải hứa trên đầu lũ con chúng mày là chúng mày không được viết thư hộ cho vợ tao…”. Thằng nào cũng hứa vì đã làm gì có con mà sợ. Những thằng Tây có vẻ hả hê lắm. Nút chai mở liên tiếp, rồi đến chừng nửa đêm thì dìu nhau, vừa hát, vừa nôn mửa từ quán rượu về tới phòng…Trong ba tháng trời, chúng nó ra đi, Thắng vừa thương nhớ, vừa phải tiễn đưa chúng nó mà sụt mất bốn kí-lô

Lũ Tây về nước hết…Trong hangar, vắng hẳn tiếng cười đùa. Thắng mỗi lần thấy nhớ tụi nó thì lại tới kiếm vài em me Tây cũ, đấu tiếng Tây bồi…

Trước cửa các căn cứ Không Quân, thường có những quán giải khát, nhà tranh vách đất. Đêm đêm, lập loè những ánh đèn tù mù. Căn cứ Biên Hoà có Dốc Sỏi. Căn cứ Nha Trang có khu Colonna. Tân Sơn Nhất có khu Lăng Cha Cả… Những anh chàng mũi lõ, mắt xanh đi tới đâu là cũng phải có những người đẹp theo sau…

Những cô vợ Tây, thỉnh thoảng chồng đi vắng lại “nhảy dù” với một kép lô-can. Những mối tình nội hoá để điểm tô cho những mối tình nhập cảng. Có nhiều khi lại có sự thoả thuận của hai anh chồng.

Thắng đã nghe nhiều tâm sự của các cô vợ Tây. Đời nàng nào cũng nhiều cay đắng như Thúy Kiều. Đi làm đĩ để nuôi mẹ…Đi làm đĩ để nuôi con…Tâm sự thật nhiều mà cuộc sống thì hời hợt. Cô nào cũng có một tên ghép để gọi cho dễ phân biệt… Hỏi đến cô Bích thì phải nói rõ là Bích đen, Bích trắng, Bích què hay Bích lé… Thắng chỉ khoái xem các cô đánh nhau, chửi nhau…Tiếng Tây, tiếng ta văng ra ầm ầm. Chỉ cần đứng coi vài ba phút là thế nào cũng được xem một màn thoát y vũ, nhạc đệm là những câu chửi nghe như tiếng hát.

Lũ người đó chỉ cần một chuyện nhỏ cũng để đánh nhau, chửi nhau. Những lũ con lai sống vất vưởng. Chưa đến mười tuổi đã biết nó những chuyện bậy bạ… Có nhiều đứa còn thích rủ nhau làm chuyện vợ chồng. Mẹ chúng nó còn bận làm ăn hay đánh bài. Những cái tục tĩu diễn ra trước những con mắt nai ngơ ngác.

– Tao “đi” với một thằng, nó trả một trăm, toàn giấy một đồng, đếm mỏi tay quá…

– Cái thằng bán cà-rem cục vẫn thường đi qua đây đấy mà. Hồi nãy, nó có hỏi tao, nhưng tao không “đi”.

Các em vợ Tây xuống dốc quá rồi…Mỗi lần đi ra phố, Thắng lại phải chứng kiến cảnh tiêu điều của các khu mà khi Tây còn ở đây, đã có một thời vàng son. Những cái đầu uốn quăn xơ xác, nằm gác chân lên nhau ca vọng cổ…”Em ơi em, có tiền lẻ cho anh mượn năm ư…ư…tì. Hai tì thì anh mua tờ báo, còn ba tì thì anh mua bốn điếu thuốc Ru-by…” Buồn ơi là buồn. Thỉnh thoảng lại tung ra cho nhau nghe một tin vịt:

– Tây nó lại sắp sang đây đấy mày ạ!

– Đứa nào nói vậy?…

– Thì mấy anh ở trong căn cứ.

– Ối dào! Nghe mấy thằng đó thì có ngày bán..”xì-líp” mà ăn.

Tuy rằng nó vậy, Thắng vẫn thấy các em soi lại mặt vào tấm gương nhỏ, kéo mạnh cái má hóp, vuốt lại cái đầu tóc rối, rồi than thở với nhau. Mình “ngáo” quá rồi… Chờ được đến lúc chúng nó sang thì đã thành bà lão…

Thắng quen gần hết mấy chị me Tây ở trước cửa phi trường. Cũng có những người con gái con nhà lành sa chân lỡ bước. Như là Bích. Ai đưa em đến chốn này? Bích nói tiếng Tây vi va vi vút, lên bổng xuống trầm với nhiều “ắc-xăng” qúi phái. Bích rủ Thắng:

– Thắng về ở với em đi…Một mình buồn quá. Đêm nằm chỉ muốn khóc.

Bích có một đứa con gái nhỏ tên Gian. Bé Gian ngoan hơn lũ con lai ở đây nhiều.

– Con thằng Mi nhông đấy!…

– Có thật không?….Hay là nó chỉ có công việc làm giấy khai sinh.

Bích dẩu mỏ, giận dỗi…Nhiều lúc trông Bích vẫn còn nhiều chất nữ sinh của trường đạo. Thắng hay bế bé Gian vào trong trại. Lúc Thắng làm việc, bé Gian hay đi thơ thẩn, nhặt những chiếc “bù loong”, nhét đầy túi áo.

Những thằng bạn của Thắng hay đưa bé Gian xuống Câu-lạc-bộ, bắt bé uống hết một ly bia. Bé say, chúng nó bế bé đứng lên bàn, múa hát nghiêng ngả. Lúc bế về trả Bích, Bích thấy con có vẻ khác thường, ngửi mồm bé rồi hỏi Thắng:

– Anh cho cháu uống la-de phải không?

Thắng chối biến:

– Đâu có…. Cháu uống nước cam đấy chứ.

Người đàn bà trẻ tuổi nhưng đã từng trải nhiều mùi đời, bồng con đi ngủ. Trong phòng tắm đã sẵn nước tắm và bộ quần áo “pi-dam-ma” cho Thắng. Thắng nghĩ rằng sao mình không lấy Bích?..Bích cũng là đàn bà. Lấy vợ là lấy một người đàn bà… Bất cứ người đàn bà nào mà mình chẳng có thể lấy làm vợ?…

Những ngày sau, đưa bé Gian vào trại, khi đi làm, Thắng bế bé lên Đài Kiểm-soát gửi Trọng. Trọng làm việc trên Đài Kiểm-soát, nhiều lúc thật buồn…Ngồi cả giờ, không có máy bay, nhưng cứ hễ vừa bước chân xuống cầu thang là lại có tiếng ồm ồm trong máy phóng thanh…Ngồi cứ như dính vào ghế, suốt ngày. Có nhiều khi, chạy hộc tốc từ dưới nhà lên chỉ để trả lời một cái tàu bay thử vô tuyến…

Chính phủ lại vừa giải tán lính đàn bà. Không có cô Hồng để ngồi đấu láo. Không có lính đàn bà, phi trường buồn thiu. Ống gió đứng ủ rũ. Lầu Gương như bơ vơ. Chàng thi sĩ Trọng ngồi làm thơ và dạy bé Gian học thơ. Trọng đọc:

– Mẹ ơi…

Bé Gian đọc theo:

– Mẹ ơi…

– Con muốn…

– Con muốn…

– Lấy chồng…

Bé Gian thật thông minh…Chỉ một lúc là bé đã học thuộc hết bài thơ. Chiều về, đọc cho mẹ nghe vanh vách:

“Mẹ ơi, con muốn lấy chồng,

Con ơi, mẹ cũng một lòng như con.

Mẹ ơi, con đã có thai,

Con ơi, mẹ cũng được vài tháng nay.

Mẹ ơi, con hứng tình thay,

Cha mẹ con này, thật giống tính tao…”

Bích cau mày nhìn Thắng:

– Anh chỉ dạy cháu hát bậy bạ…

– Đâu có phải anh…Thằng Trọng đấy.

Thế là Trọng được ăn đủ các thứ bẩn thỉu…Bích càu nhàu một hồi. Thắng nằm lăn ra giường, cái giường nệm thật êm. Thắng cảm thấy dạo này, mình sinh ra lười biếng. Thắng cứ miên man suy nghĩ. Mình không thể nào lấy Bích được. Cứ coi cái cách mà bạn bè của mình đối đãi với bé Gian thì khó làm thế nào có thể để chúng nó gọi Bích bằng chị. Cái dĩ vãng của con người ta cũng khó gột sạch lắm. Cái ám ảnh xấu xa, nó như bóng với hình mình cả đời, lúc nào nó cũng bám dai như đỉa.

Muốn sống riêng cho mình cũng khó lắm. Thắng nhớ tới những lúc Bích đánh nhau với những cô me Tây khác. Mặt Bích đằng đằng sát khí. Cũng chửi rủa, xé quần, xé áo và đi những đường guốc chí mạng. Rồi sẽ có một ngày đẹp trời nào đó, mình sẽ là nạn nhân của em?.. Thắng đã nghe Thiện đầu bạc nói:

– Tụi chúng nó ghê lắm. Lúc mình chưa lấy nó thì nó chìu chuộng mình đủ thứ. Nhưng tới khi mà làm xong cái tờ giấy giá thú thì sẽ biết nhau ngay.

Thắng thấy sợ ghê gớm. Cứ nghĩ cuộc đời của mình phải chịu đựng một cái gì không vừa ý, suốt đời…Kiếm một cái giấy giải ngũ đã thật là khổ rồi…Lại còn bận bịu những chuyện khác, thì quả thật là nên bế mạc cuộc đời.

Thắng lại âm thầm từ giã Bích vào sống trong cư xá độc thân. Nhiều thằng chịu không nổi nỗi sầu cô độc, sẽ dính vào mấy cô vợ cũ của Mọi da trắng, làm đơn xin phép cưới vợ, trong số đó có cả thằng Pi-lốt Thái Bình.