LỜI BẠT CỦA TÁC GIẢ
Có nhiều người bạn thân, khi đọc xong truyện này, đã trách tôi viết truyện không có đoạn kết. Nhưng tôi thì không nghĩ vậy… Đọc một cuốn truyện, khi gấp sách lại, cảm giác của người đọc thế nào, đó chính là đoạn kết.
Người viết truyện, nhiều lúc thấy mình có đủ oai quyền như Thượng Đế. Tạo nên một nhân vật rồi có quyền để cho sống hay là bắt phải chết. Cái sống và cái chết của những nhân vật trong truyện được cái ông Thượng Đế nho nhỏ ấy toàn quyền quyết định…
Tôi có thể để cho những người trong truyện của tôi cùng bay trên một chuyến bay định mệnh không bao giờ trở lại. Làm như vậy, may ra gợi được lòng thương tiếc của những độc giả đa cảm, thương tiếc những kiếp người tài hoa chưa được hưởng trọn vẹn tuổi trẻ đã vội sớm vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng tôi không làm như vậy. Cái đoạn kết ấy nó dễ dãi quá, tuy rằng mang nhiều tính chất bi thảm nhưng mà lại hết sức tầm thường.
Có lẽ tôi cần thú thực với bạn đọc một điều này. Tôi đã gửi đời tôi vào các nhân vật trong truyện. Tôi cố đưa tôi, đưa những người bạn thân của tôi, những uất nghẹn của mười ba tuổi lính, của hơn ba chục tuổi trời hơn hai trăm trang giấy. Tôi viết văn mà thấy như mình đang kể chuyện cuộc đời mình. Vậy thì làm sao mà có thể viết đọan kết khi cuộc đời của mình chưa đi vào đoạn kết?…
Những người bạn văn như Văn Quang, Cung Trầm Tưởng, Hoàng Song Liêm… người nào cũng đã nghĩ dùm tôi một đoạn kết thật đẹp và tròn trỉnh. Như để cho Trọng, người kiểm soát viên phi trường giải ngũ…rồi một ngày nào đó, lên đón người yêu ở phi trường Tân Sơn Nhất, nhìn phi cơ hạ cánh và cất cánh, thấy nhớ ghê gớm cái không khí phi trường. Trọng lại xin tái ngũ...Một lần trả quân trang, lại một lần lĩnh quân trang, các bạn tôi cho rằng đấy cũng là những nét đặc biệt của kiếp kaki.
Tôi đồng ý rằng, cái không khí phi trường nó quyến rủ lắm. Đã một lần lâu lắm, phi trường Biên Hoà đóng cửa để sửa chữa lại phi đạo, phi cơ về hết Tân Sơn Nhất, tôi đã khổ sở vì nhớ tiếng chim kêu... Chúng tôi gọi tiếng nói trong máy vô tuyến là tiếng chim kêu… Những ngày đó, ngồi trên đài kiểm soát phi trường, tôi thấy cái vắng lặng mênh mông và vô cùng buồn nản… Nhưng phải thật với lòng mình, khi đã giải ngũ rồi, ít có người nào lại làm đơn xin tái ngũ. Tôi nghĩ có lẽ vì tự ái… Vì không muốn bị mang tiếng là rời nhà binh ra là…đói. Tôi rất muốn tránh những gì gượng ép, nó làm phật lòng những người bạn tôi, đã từ lâu mang nặng mặc cảm rằng cái áo kaki đã làm mình phí cả một nửa kiếp người.
Tôi cố làm nổi bật những người như Pi-lốt Thái Bình – con người không bao giờ thích rắc rối, cầu kỳ. Trong một bữa ăn có mười ba người, Pi-lốt Thái Bình cảm khái “con người ta có số mệnh, cái con số mười ba, nó đâu có làm gì được nhau…” Nhưng rồi khi vợ đẻ con trai, nhất định không đặt tên con trai mình là Long. Những người bạn tên Long đều đã chết…Pi-lốt Thái Bình cũng có một chút mê tín, nhưng nặng hơn, nó là lòng thương nhớ bạn. Đặt tên con như vậy, cái tên đó nó cứ nhắc tới những kỷ niệm ngày xưa… Những người sống cuộc đời bấp bênh, thường hay tự đi tìm một chút gì an ủi. Tôi biết một số phi công của một phi hành đoàn khu trục nó, chỉ hút thuốc lá Lucky vì nghĩ rằng đã để được cái may mắn trong túi.
Thế nào cũng có nhiều người bạn trách tôi chưa viết đủ những vui, buồn của giới mũ xanh. Tôi chỉ biết có vậy thành ra chỉ viết được như vậy. Lòng người, không phải là đại dương để chứa được hết nước của ngàn con sông.
Những chuyện buồn trong đời tôi, chắc cũng chỉ như những đám mây mù, rồi sẽ dần tan. Những chuyện không đẹp chắc cũng chỉ như một đám mưa bóng mây, rơi xuống đất bất chợt nhưng mà mau tạnh..
Các bạn của tôi ơi!… Các bạn đòi cho cuốn truyện có một đoạn kết. Tôi xin nói lại rằng, chuyện này chính là chuyện của đời tôi. Rồi một ngày nào, các bạn gặp tác giả đi trên lề đường mũ áo xênh xang hay là thân tàn ma dại, ấy đó chính là đoạn kết của cuốn truyện này…
Sàigòn, đầu mùa mưa 1966
Dương Hùng Cường.