← Quay lại trang sách

- 10 -

Đã hơn mười năm nay, anh sống với phi trường. Ngồi đây, anh cũng có thể tưởng tượng thấy bộ mặt buồn buồn của phi trường Đà Nẵng, buồn như những cô gái miền Trung, phi trường Nha Trang nằm song song với bờ biển, bãi cát trắng với sóng vỗ rì rào…

Từ mấy năm nay, đời anh ngừng lại ở phi trường Biên Hoà. Nơi đây còn vương không khí chiến tranh, giết chóc. Anh đã bâng khuâng nhìn những chiếc khu trục cơ chạy qua trước mặt mà nghĩ rằng chỉ một lát nữa đây, bao nhiêu người sẽ chết hay mang những tấm thân tàn phế khắc khoải suốt đời.

Ngày ở Nha Trang, anh có một thú vui hiền lành. Mỗi khi có một máy bay dân sự tới, anh thường đứng trên Lầu Gương, lấy ống nhòm nhìn những tà áo xanh, áo đỏ, thẫn thờ bước xuống thang khi cánh cửa phi cơ mở rộng.

Thế mà chỉ còn mấy tháng nữa, anh vĩnh biệt phi trường. Chỉ còn mấy tháng nữa thì anh giải ngũ – Phi trường ơi! Vĩnh biệt phi trường….

Sáng hôm qua, anh bắt được hộp thuốc lá của Khánh trong đám cỏ. Chắc em còn nhớ Khánh?…Khánh, nhà ở cạnh đường xe lửa mà có một lần đã than phiền với tụi mình:

– Mình chẳng bao giờ tiễn đưa ai, mà ngày nào cũng phải nhìn con tàu chuyển bánh.

Mỗi buổi sáng, anh thường đi khám phi đạo. Sáng sớm, trời lạnh mù sương…Thỉnh thoảng, thêm một chút gió heo may để cho lòng thêm nhớ về miền Bắc. Anh thuộc từng miếng grille góc cạnh, từng đám mây mắc cỡ rũ ướt sương đêm mà lũ chó hoang thấy ánh đèn pha thường chạy vào ẩn núp.

Hộp thuốc lá của Khánh nằm trong đám cỏ gần đầu phi đạo. Cách đây chừng sáu tháng, chiếc C47 của Khánh bị nổ bánh ở đây. Khánh ngồi dưới cánh máy bay chờ một chiếc khác mang tới thanh. Anh lái xe ra nói chuyện với Khánh.

Khánh là bạn của anh từ lâu, từ ngày hai đứa còn ở ngoài Hà-nội. Nhưng mà hai đứa ít khi được gặp nhau. Khánh thì cứ đi luôn. Còn anh thì khi về tới Sàigòn lại lao đầu vào những chỗ nhiều ánh đèn, quên cả việc lại thăm Khánh.

Gặp anh, Khánh mừng lắm…Khánh trách anh sao dạo này hay dấu kín những chuyện tâm tình… Anh biết nói gì bây giờ? Cái trống rỗng lúc nào cũng như nằm bất di, bất dịch trong tâm hồn. Khánh đọc cả một câu chửi đổng rất khinh đời, giọng Nguyễn Tuân:

– Mũ xanh chúng tao đâu có bạc đãi gì mày?… Gạo thì trắng, nước thì trong, mà người thì lành….

Anh buồn buồn nhìn Khánh. Khánh già đi nhiều mà chắc anh cũng vậy. Tuổi học trò đã thật hết rồi. Hai khuôn mặt bây giờ cằn cỗi và hai mái đầu đã bắt đầu lưa thưa điểm bạc. Khánh cho anh biết là Khánh sắp lấy vợ. Anh ngạc nhiên:

– Mày lấy vợ? …Nhưng mà lấy ai?…

Khánh nói giọng thản nhiên:

– Hiền chứ còn ai nữa…Chắc mày còn nhớ Hiền.

Giọng Khánh tiếp theo, trầm hẳn xuống:

– Tụi mình cũng nên tính chuyện vợ con đi thì vừa. Sống lủi thủi một mình lâu quá rồi. Mày với Phượng có lẽ giận nhau rồi thì phải?…

Anh nghĩ tới Hiền, người con gái hay mặc chiếc áo dài màu đỏ, màu của những cánh hoa bên đường Cổ Ngư. Hiền và Khánh yêu nhau đã từ lâu. Hiền có đôi mắt thật buồn và mái tóc buộc đuôi ngựa nhí nhảnh, hai cái tương phản nhau. Nếu Khánh lấy Hiền thì kể cũng là một cuộc tình duyên đẹp. Anh cười bảo Khánh:

– Nhớ gửi thiếp mời cho mình đấy.

Ánh đèn trắng từ Lầu Gương chớp nhiều lần gọi anh. Anh bắt tay tạm biệt Khánh. Tạm biệt hay là vĩnh biệt đây. Lưng trời, mây trắng bay nhanh. Gió hơi thổi mạnh. Khánh nhắc lại anh khi nào về Sàigòn thì nhớ lại thăm Khánh.

Thế rồi, hơn một tháng sau, anh phải về Sàigòn để đưa đám Khánh. Khánh chết trong chuyến bay Sàigòn – Lộc Ninh – Phú Quốc. Nhớ tới Khánh bằng tuổi anh mà đã chết, anh thở dài:

– Mới vừa ba mươi tuổi..

Hôm đó, Hiền khóc thật nhiều. Từ ngày đó đến nay, chủ nhật nào Hiền cũng đi thăm một Khánh. Nhìn tên Khánh khắc trên hộp thuốc lá để trước mặt, anh muốn khóc cho lòng vợi thương nhớ Khánh. Anh gói hộp thuốc lá lại, ngậm ngùi:

– Mình sẽ mang về biếu Hiền…

Ba người ngồi ở một chiếc bàn, trong góc tối. Người đàn bà chấm ngón tay vào ly nước, viết nghịch lên mặt bàn những tên, những chữ…. Hai người đàn ông đăm đăm nhìn hai ly rượu đã tan hết nước đá.

Dancing về cuối tháng, vắng người. Tiếng trompette dài lê thê, nức nở theo một điệu nhạc blue. Vài cặp trai gái, uể oải dìu nhau theo điệu nhạc, trong cái tối u buồn cố giữ gương mặt sầu tư…

Tiếng nói ở bàn ba người:

– Về thôi chứ Khánh?…

– Mày muốn về bây giờ sao Du…?

– Ừ, về thôi. Mai mày còn phải bay sớm thì phải.

Tiếng cười nho nhỏ nhưng nghe rõ:

– Mai phải bay sớm thì có làm sao. Nhiều khi đi suốt đêm, mai leo lên máy bay vẫn cứ tỉnh như thường. Nhưng cũng phải về để trả xe cho thằng Phi. Với lại cũng phải đưa em về, không có chồng em ghen..

Người đàn bà nhìn Khánh, một cái nhìn dài cám ơn. Tiếng xô ghế và tiếng ly chạm khẽ vào chai. Ba người lách qua những hàng ghế đặt lẫn với những tiếng thì thầm trong bóng tối. Tiếng trompette đuổi theo như đưa tiễn. Qua tấm màn và cánh cửa dày, tiếng trompette chỉ còn như mơ hồ từ phương xa vọng tới…

Về khuya, đường Trần Hưng Đạo vắng người. Ánh đèn pha đuổi nhau trên mặt nhựa loang loáng ướt. Ngày mai đi rồi hở Khánh?…Đi rồi nhớ trở lại đây. Ở đây vẫn còn vấn vương không khí ánh đèn mầu Văn Cảnh, Tháp Ngà…

Ba người chui vào chiếc 203, ngồi trên băng trước. Tiếp theo muôn ánh đèn pha, chiếc xe tiến về nơi mỗi lúc một thưa thớt ánh đèn. Khánh tự nhiên đọc một câu ca dao cũ rích:

“Trời mưa bong bóng phập phồng,

Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai?…”

Gương mặt người đàn bà thoáng một nét u buồn. Ba người vẫn ngồi lặng lẽ. Khánh lái xe, nhìn vào cái sâu thăm thẳm của đại lộ, hun hút vắng bóng người.

Tiếng người đàn bà:

– Anh cho em xuống đây.

– Anh đưa em đến tận cổng.

– Không được đâu anh. (tiếng nghẹn ngào). Còn chồng em, còn con em…

Tiếng thắng rít, rồi tiếng mở cửa xe. Họ ôm lấy nhau thật lâu. Mưa phơi phới trên đầu. Mưa đêm này đẹp như mưa đầu Xuân miền Bắc. Trong xe, ánh lửa đỏ thuốc lá lập loè thản nhiên.

Ánh đèn pha sáng lóe phía sau…Họ buông nhau ra. Khánh trở lại xe còn người đàn bà lảo đảo bước về phía căn nhà có ánh đèn dìu dịu, tà áo đen lẫn vào bóng tối. Xa xa, tiếng trẻ con reo:

– A, má về, má về…

Khánh thở dài. Chiếc xe vòng lại, phóng trên mặt đường nhựa trơn ướt như điên dại. Chiếc xe lại tiến về nơi rực rỡ ánh đèn.

Du ném mạnh mẩu thuốc lá qua cửa kính:

– Khánh ạ, tao khuyên mày nên để yên nó với chồng con nó. Thế nào rồi cũng có ngày chồng nó biết. Tao ngại cho mày.

Khánh không nói gì. Im lặng. Chỉ có tiếng máy xe đều đều…. Khánh đưa Du về nhà. Lúc bắt tay tạm biệt, Khánh ghé tai Du nói thầm:

– Tháng sau tao lấy vợ. Tao lấy Hiền.

Mắt Du sáng lên trong đêm tối. Mưa ngoài trời tạnh hẳn.

Hùng uống hết ly cà-phê, với tay lấy chiếc cát-kết đội lên đầu, đứng dậy:

– Anh đi nhé!…

– Khoan đã anh. Để em đánh thức con dậy cho nó hôn anh.

– Thôi, để con ngủ…

Hùng bước vội ra cửa. Vợ Hùng chạy theo:

– Anh nhớ mua nước mắm. Mẹ dặn em nhắc anh không anh quên. Anh thì hay quên lắm đấy.

Tiếng Hùng:

– Thì đi Phú Quốc chuyến này…chỉ là để mua nước mắm. Sao lại còn quên.

Tiếng “quên” lẫn vào tiếng máy Vespa. Trời mờ sương mai, gió hơi lành lạnh. Người thiếu phụ khép vội cánh cửa, tắt đèn. Tiếng cựa mình rồi một tiếng nói âu yếm trong bóng tối:

– Ngủ đi chứ, thằng chó!….

Chuyến bay hôm đó, có tất cả sáu người. Lâm, phi công chính, trưởng phi cơ; Phụng và Khánh, phi công phụ; Hùng, điều hành viên; Lựu, vô tuyến du hành và Sơn, chuyên viên cơ khí.

Tất cả đều trên hai mươi và chưa quá ba mươi. Người nhiều tuổi nhất là Phụng vừa đúng ba mươi. Trong số đó, chỉ có Hùng là có vợ và một con. Lâm, Phụng và Khánh sắp sửa lấy vợ. Lựu thì ít nói nên ít người biết được chuyện riêng tư. Chỉ có Sơn là ít tuổi nhất. Tất cả phi trường đều gọi Sơn là chú bé. Không hiểu sao, chú bé lại chọn một cái nghề già là nghề thợ máy.

Buổi sáng hôm ấy, Sơn đến phi trường rất sớm. Trận mưa đêm qua, nước còn đọng vũng ướt trên sân đậu. Phương Đông trời mới ửng hồng, hiện rõ hàng cây phía chân trời. Tiếng động cơ làm point fixe, đánh thức không gian. Ánh đèn “pin” soi ngang, chạy dọc dưới bụng những chiếc phi cơ trắng. Sơn thay quần áo, lấy đèn “pin” và tiến về phía đậu chiếc Echo. Vài tiếng chào nhau trong không gian còn vương một ít bóng đêm.

Người đến thứ hai là Hùng. Rồi tới Phụng. Khánh và Lựu cùng tới một lượt. Người đến sau cùng là Lâm.

Lâm là phi công chính. Lâm lúc nào cũng có một vẻ mệt mỏi chán chường nhưng bên trong chứa đựng một tinh thần bình tĩnh và tỉnh táo. “Thằng cha như con mèo”…đó là lời Khánh phê bình về Lâm.

Lâm sắp sửa lấy vợ mà lại lấy một cô dược sĩ mới ra trường. Phụng hỏi Lâm:

– Nghe nói mày sắp giải nghệ. Lấy vợ giàu thì lái làm cái mẹ gì?…

Khánh bàn góp:

– Chuyến này, anh Lâm đào được một cái kho pénicilline.

Lâm không trả lời…Mặt vẫn lầm lì, nhưng đuôi mắt hơi nheo lại. Lâm móc túi, quẳng cho Khánh gói thuốc lá Lucky, hỏi Sơn – lúc đó đang ngồi trên cánh máy bay:

– Tốt chứ Sơn?

Sơn nhe răng cười:

– Au poil…

Lâm lên xe lái về phía đài kiểm soát phi trường. Khánh đưa thuốc lá cho mọi người. Năm người đi xa chỗ máy bay, đốt thuốc lá hút. Những đốm lửa lập loè. Khói bay tản mạn lên không trung. Phương Đông trời ửng hồng những đám mây phía chân trời, chung quanh đã viền trắng.

Lâm đã trở lại. Sơn nhảy lên máy bay trước nhất. Lâm làm một cử chỉ rất kịch:

– Bây giờ mời quý vị …. lên đường.

Động cơ quay từ từ rồi được trớn, quay tít. Cỏ phía sau nằm rạp xuống. Máy bay từ từ bò ra đầu phi đạo, ngừng lại và rú lên ầm ĩ, rung chuyển thân tàu.

Máy bay cất cánh và chìm trong mây. Những cánh chim là máu và phi trường là con tim…Máu đi khắp cơ thể rồi lại về tim. Một đôi khi có những cánh chim bay đi, rồi không bao giờ trở lại.

Lâm chào tạm biết đài Kiểm-soát Sàigòn. Những người con trai ra đi, tạm quên nếp sống kinh kỳ. Sàigòn xa dần…Dưới chân vườn cao su vuông vắn, một con sông chạy uốn éo, càng xa, càng nhỏ dần rồi mất hút vào đồi núi chập chùng. Phía Lộc Ninh, sương mù giăng trắng xoá.

Chiều nay, những người con trai ấy lại trở về, nhưng bây giờ thì sống với tiếng động cơ đều đều, buồn nản. Cuộc đời lênh đênh như những đám mây trên đầu, dưới chân. Không gian mênh mông rộng lớn.

Khánh ngồi trên ghế lái. Cánh máy bay nghiêng lượn một nửa vòng. Ánh nắng ban mai đã chiếu vào khung cửa. Kim đồng hồ nhấp nháy trước mặt…

Khánh nhường chỗ cho Phụng….Khánh cần một giấc ngủ vì đêm qua thức trắng. Khánh nằm trên ghế sắt dài, lồi lõm, đằng sau thân tàu, nhắm mắt và bắt đầu nghĩ tới Hiền. Tháng sau là đám cưới rồi. Hôm cưới, chắc là Hiền sẽ đẹp lắm. Hiền ngoan như thế mà mình thì cứ hay lang bang. Khánh nhất định chuyến này về Sàigòn, đoạn tuyệt với tất cả những mối tình vụn vặt. “Anh chỉ yêu có một mình em!…” Khánh nói thầm câu đó và mỉm cười, cảm thấy mình ngây thơ như một cậu học trò mười bảy. Khánh ngủ mà vẫn giữ nụ cười… Khánh cứ chìm dần vào giấc ngủ…

Một nửa giờ sau, máy bay xuống thấp dần. Cánh quạt bên trái đã ngừng quay. Động cơ bên phải thì yếu không đủ giữ cho máy bay ở cao độ để bay về một phi trường gần nhất. Lâm nhìn xuống phía dưới để tìm một khoảng đất trống. Chỉ là rừng trùng điệp. Máy bay cứ xuống thấp dần…Lâm chợt thấy một khoảng đất trống cạnh một giòng suối. Anh cố giữ máy bay hướng về phía đó.

Nhưng muộn mất rồi… Tiếng cành cây gẫy răng rắc và một tiếng ầm vang ghê gớm. Lửa bùng cháy ở bình xăng cánh phải…Tất cả sáu người ngất đi.

Lúc đó là lúc Khánh mơ thấy Hiền và anh bước lên xe kết hoa. Bạn bè đang ném những vòng serpentin quấn quít khắp người cô dâu, chú rể. Tiếng động mạnh đánh thức anh trong một giây rồi một vật nặng đánh vào đầu anh. Anh lại mê đi và lần này không còn mơ thấy gì nữa.

Lúc Khánh tỉnh dậy thì chung quanh toàn là lửa đỏ. Anh hoa mắt cố lê ra phía cửa. Khó nhọc lắm anh mới xoay được chiếc chốt và thò đầu ra ngoài. Lửa táp vào người anh như lưỡi rắn. Bỗng một tiếng nổ bùng của bình xăng cánh trái. Xăng dính đầy vào quần áo anh. Khoẻ như một con thú dữ, anh lăn lộn trên vũng bùn, cách chỗ máy bay cháy chừng hai chục thước. Anh úp mặt xuống bùn, cố tìm lấy một chút mát lạnh cho cơ thể. Anh thều thào gọi vào lòng đất:

– Hiền ơi!…Vĩnh biệt…Vĩnh biệt phi trường!

Mặt trời lên cao…Sương mù dần tan trong khi đó lửa đỏ vẫn ngạo nghễ, sáng rực cả rừng hoang.

Có bao giờ, em lên Bắc Việt Nghĩa-trang thăm những ngôi mộ?…Nếu em lên đó, em sẽ gặp những người trai của không trung, hiện đang nằm nghỉ ngơi trong lòng đất.

Nằm nơi đây, hoà với tiếng thông reo vi vu, còn có tiếng động cơ vọng lại từ phi trường Tân Sơn Nhất. Mỗi buổi sáng chủ nhật, con đường đầy bụi lại tung mù. Nhiều chiếc xe đưa người sống tới thăm người chết.

Và trong một chiếc xe có một người con gái, đã thay màu áo đỏ bằng màu áo đen sâu kín, như một nỗi buồn khó nguôi. Người con gái đó là Hiền.

Từ cổng nghĩa trang đi vào, bên phải là mộ của Long. Long để lại một người vợ thật trẻ, thật đẹp và một cháu gái thật ngoan. Thỉnh thoảng, anh vẫn gặp chị Long dắt cháu đi trên vỉa hè Sàigòn. Hai mẹ con đi lạc lõng trong giòng người đông đảo, bàn tay nhỏ xíu nằm trong bàn tay trắng gân xanh. Nhiều khi anh đã đứng nhìn theo:

– Tội nghiệp cho cháu tôi.

Mộ của Khánh trên Bắc Việt Nghĩa-trang, nằm bên phía tay trái, ở tận sâu trong cùng. Bốn ngôi một nằm song song nhau: Lâm, Khánh, Hùng, Sơn… Còn Phụng và Lựu được đưa về Hậu Giang, chôn nơi mảnh đất quê hương.

Không biết một người bạn nào đã trồng trên bốn ngôi mộ, một giàn hoa mát mẻ. Những người đã chết để thương nhớ lại cho bao nhiêu người. Nhìn bốn ngôi mộ ghi cùng một ngày chết, người ta nghĩ tới tình đồng đội của những người trai hôm nay, đã cùng nắm tay nhau cho tới hơi thở cuối cùng. Người ta cảm thấy buồn thêm, mặc dầu cái không khí nghĩa trang đã buồn lắm rồi.

Chủ nhật nào, Hiền cũng lên thăm một Khánh. Hiền cứ ngồi lặng bên một Khánh hàng giờ. Anh khuyên Hiền:

– Hiền hãy quên Khánh đi… Khánh chết rồi. Hiền hãy quên cái dĩ vãng đằng sau lưng mà nhìn thẳng vào cuộc đời. Cuộc đời của Hiền hãy còn dài dằng dặc trước mặt…

Hiền chớp mau đôi mắt:

– Quên Khánh làm sao được hở anh?..

Hiền cứ ngồi đấy. Khi mặt trời lên cao, Hiền đi về rồi chủ nhật sau lại tới. Anh và mấy thằng bạn thân của Khánh phải thay phiên nhau để coi chừng Hiền, ngăn cản Hiền muốn theo Khánh về thế giới bên kia.

Phượng ơi!… Làm thế nào bây giờ? Sau khi đọc những giòng này, anh mong Phượng hãy lại thăm Hiền.