PARIS
1) Khi bắt đầu ngồi trong buồng tắm hằng chiều, tôi không tính ở luôn đấy; không, tôi thả đi những giờ khoan dịu, trầm tưởng trong bồn, thỉnh thoảng mặc đồ, lúc để không. Edmondsson, vui vẻ phía đầu tôi, thấy tôi tĩnh tại hơn; tôi có khi đùa, chúng tôi cười. Tôi nói năng cùng những cử chỉ khoáng đạt, cho rằng tiện dụng nhất là mấy kiểu bồn thành hai bên song song, đằng lưng thoải, còn đằng đuôi dựng thẳng miễn cho người dùng việc sử dụng kệ gác chân.
2) Edmondsson nghĩ có cái gì cằn cọc trong chuyện tôi không chịu rời buồng tắm, song việc ấy chẳng cản nàng giúp tôi dễ sống, đi làm nửa ngày cho một phòng tranh trang trải nhu cầu sinh hoạt trong nhà.
3) Quanh tôi có tủ, giá treo khăn, một chậu vệ sinh. Bồn rửa màu trắng; cái kệ nhỏ chìa ra bên trên, để bàn chải và dao cạo, Bức tường đối diện tôi, lỗ chỗ nốt sần, phô những đường rạn; mụn rộp ăn rỗ lác đác lớp sơn xỉn. Một vệt nứt như đang lấn tới. Hàng giờ liền, tôi rình canh hai đầu mút nó, hoài công bắt chợt nó men thêm. Đôi khi, tôi thử thể nghiệm khác. Tôi đồng thời theo dõi bề ngoài mặt mình trong gương bỏ túi và dịch chuyển của kim đồng hồ đeo tay. Nhưng mặt tôi chẳng biểu lộ gì. Chẳng bao giờ.
4) Sáng nọ, tôi giằng đứt dây phơi. Tôi moi rỗng toàn bộ tủ, dọn sạch hết giá. Dồn đồ vệ sinh vào túi đựng rác cỡ đại xong, tôi bắt tay chuyển một phần thư viện của mình. Lúc Edmondsson về, tôi đón nàng với quyển sách trên tay, người duỗi dài, chân bắt tréo trên vòi nước.
5) Edmondsson cuối cùng đành báo bố mẹ tôi.
6) Mẹ mang bánh cho tôi. Ngồi chậu vệ sinh, hộp mở banh đặt giữa hai chân, mẹ bày bánh ra đĩa sâu lòng. Tôi thấy mẹ ưu tư, từ lúc đến mẹ tránh ánh mắt tôi. Mẹ ngẩng đầu lên trong vẻ buồn nản, toan cất lời, song lại im lặng, lựa bánh kem tia chớp[1] cắn vào. Con làm gì cho khuây khỏa đi, mẹ bảo tôi, tập tành thể dục thể thao, mẹ cũng chịu chẳng biết. Mẹ lấy găng tay chùi khóe miệng. Tôi đáp mình thấy nhu cầu giải khuây đáng ngờ, Khi tôi, gần như mỉm cười, chêm thêm mình chẳng ớn gì bằng ớn mấy trò tiêu khiển, mẹ cho là chẳng thể nào tranh luận được với tôi và tiện tay, chìa cho tôi một phần bánh ngàn lớp[2].
7) Tuần hai lần, tôi nghe bản tin phát thanh tổng hợp diễn biến trong ngày của giải vô địch bóng đá quốc gia Pháp. Chương trình dài hai tiếng. Từ phòng thu ở Paris, người dẫn chương trình điều phối tiếng dàn phóng viên được phái đi tường thuật trận đấu tại những sân vận động khác nhau. Bởi cho rằng bóng đá được tưởng tượng thì có lợi hơn, tôi chẳng bỏ lỡ mấy buổi phát ấy bao giờ. Được vỗ về trong tiếng người nồng ấm, tôi để đèn tắt nghe tin, thỉnh thoảng nhắm mắt.
8) Một người bạn của bố mẹ tôi, tạt qua Paris, ghé thăm tôi. Bác ta cho hay trời đang mưa, Đưa cánh tay về phía bồn rửa, tôi mời bác dùng khăn. Cái màu vàng thì nên, cái kia bẩn. Bác lau tóc, lâu la, tỉ mỉ. Tôi chẳng rõ bác muốn gì ở tôi. Thấy im quá, bác bèn thông báo tình hình công tác, giảng giải với tôi các khúc mắc bác vướng phải là vô bề tháo gỡ, bởi dính đến mấy sự bất hòa tính khí giữa đám người ngang thứ bậc. Bồn chồn vầy khăn tôi, bác bước sải dọc bồn tắm và, hăng lên vì lời lẽ chính mình, càng lúc càng tỏ ra cố chấp. Bác đe nẹt, gầm gừ. Sau rốt bác quy kết Lacour vô trách nhiệm. Bác gắng cái không đặng, bác bảo, cái không đặng! mà bọn họ cứ thây cả nút.
9) Tôi bận đồ giản dị. Quần vải thô màu be, áo xanh lam cùng cà vạt trơn. Vải rủ xuống người tôi lợi đến mức, khi mặc đủ, trông tôi vạm vỡ kiểu thanh và mạnh. Tôi nằm duỗi dài, thư thái, mắt khép. Tôi mơ tưởng đến bà đầm trắng, món tráng miệng, viên kem vani bên trên tuôn xuống lớp sô cô la nóng chảy. Tôi nghĩ về nó mấy tuần nay. Từ quan điểm khoa học (tôi không phàm ăn), tôi thấy trong hỗn hợp ấy một tổng hòa của toàn bích. Một bức Mondrian. Sô cô la sánh trên vani buốt giá, nóng và lạnh, đặc và lỏng. Chung chiêng và nghiêm ngặt, chính xác. Thịt gà, dù tôi hết sức ưu ái, không bì được. Không đâu. Và tôi sắp sửa thiếp đi thì Edmondsson bước vào, xoay người chìa ra hai bức thư. Một là của Đại sứ quán Áo. Tôi rọc thư bằng lược. Edmondsson, đọc nhòm qua vai tôi, nhấn rõ tên tôi trên tấm thiệp mời. chẳng quen ai người Áo hay làm ngoại giao, tôi bảo do nhầm lẫn gì thôi, chắc vậy.
10) Ngồi thành bồn tắm, tôi trần tình với Edmondsson là có lẽ không được lành mạnh cho lắm khi, hai mươi bảy tuổi đầu, sắp sang hai mươi chín, mà lại sống co mình về bồn. Tôi phải liều, tôi vừa nói, mắt cụp xuống, vừa rờ lớp men bồn, liều xâm phạm sự tĩnh tại trong cuộc đời trừu tượng của mình để mà. Tôi bỏ lửng câu.
11) Hôm sau tôi ra khỏi buồng tắm.
12) Họ Kabrowinski. Tên ông thì là? tôi hỏi. Witold. Đó là một người tóc bạc, bận com lê màu ghi, ngồi trong bếp nhà tôi, tay cầm ống đót. Một anh chàng trẻ hơn đứng đằng sau. Kabrowinski đứng bật dậy mời tôi ngồi ghế mình. Ông tưởng có mỗi ông ở nhà, ông luống cuống, xin lỗi. Để thanh minh việc sao lại có mặt trong nhà tôi, ông vội giãi bày là được Edmondsson nhờ sơn bếp. Tôi có biết. Phòng tranh chỗ Edmondsson làm việc đang lúc triển lãm mấy nghệ sĩ Ba Lan. Họ rỗng túi, nên Edmondsson giải thích với tôi là có thể tranh thủ trả rẻ thuê họ sơn lại bếp.
13) Tôi trải qua một ngày yên ả, mấy bước loăng quăng bị xáo trộn vì sự hiện diện của hai người Ba Lan không rời khỏi căn bếp, ngoan ngoãn chờ số sơn Edmondsson quên đưa cho. Đôi chốc, Kabrowinski gõ cửa chỗ tôi và, đầu thò qua khe hở, hỏi những câu mà tôi đáp thân tình là mình chẳng biết mô tê gì. Đã mấy phút tôi không nghe tiếng họ nữa. Tôi ngồi đọc trên giường, lưng dựa gối. Cửa ra vào sập lại, tôi ngẩng lên. Chập sau, Edmondsson xuất hiện, mặt tươi rói. Nàng muốn yêu.
14) Bây giờ.
15) Yêu bây giờ? Tôi từ tốn gấp sách, giữ ngón tay giữa hai tờ giấy găm trang lại, Edmondsson cười, chụm chân nhảy lên. Nàng cởi khuy áo. Đằng sau cửa, Kabrowinski trầm giọng nói mình đợi sơn sáng giờ; ông nhắc đến một ngày hoài phí, chẳng ra đâu. Tự nhiên hết sức, Edmondsson, vẫn đang cười, mở cửa mời họ dùng chung bữa tối với chúng tôi.
16) Edmondsson bị bỏng môi lúc nếm mì. Ngồi ghế bếp, Kabrowinski, mặt cúi hờ ra chiêu trầm mặc, tư lự mút đầu ống đót. Từ lúc biết vì đâu Edmondsson lại chưa mua sơn (hàng tạp hóa đóng cửa hết cả), ông than vãn không ngớt chuyện rơi nhằm đúng thứ Hai. Đồng thời, ông tìm cách dò xem ngày của mình dù vậy có được trả công không. Edmondsson tỏ ra lấp lửng. Nàng thừa nhận hôm nay kiểu gì cũng chưa mua sơn ngay, do chưa chốt được màu, phân vân giữa màu be mà nàng sợ làm tối phòng và màu trắng - nhanh bẩn. Kabrowinski khẽ hỏi nàng có tính quyết trước buổi sau không. Nàng tiếp mì cho ông, ông cám ơn. chúng tôi ăn món spaghetti alle vongole[3] có điều ngao được thay bằng sò điệp. Bia ấm, tôi nghiêng cốc khi rót. Kabrowinski ăn thư thả. Cẩn thận quấn mì quanh dĩa, ông cho là nên bắt đầu sơn sớm chừng nào hay chừng ấy và, quay sang tôi, vẻ giao đãi, hỏi tôi nghĩ sao về một gam màu sơn xây dựng glycero. Nhằm làm rõ câu hỏi, ông nói thêm có nhìn thấy hai hộp như thế trong kho nhà chúng tôi. Không muốn tự gạt mình khỏi câu chuyện, tôi đáp, từ phía cá nhân, tôi chẳng nghĩ gì. Edmondsson thì dứt khoát phản đối. Mấy hộp sơn ấy, nàng cho chúng tôi hay, đã rỗng không thì chớ, lại còn là của người thuê nhà cũ, nên nàng thấy có thêm lý do hợp lý để khỏi động đến.
17) Còn chưa khép hẳn cửa sau lưng khách, Edmondsson đã cởi váy và tất giấy, oằn người cho tụt xuống chân. Qua khe cửa hé, Kabrowinski cứ chào mãi; ông cám ơn vì bữa tối, còn chuyện màu sắc, giọng hờ hững, ông chủ trương màu be. Edmondsson định chốt chặt cửa lại thì Kabrowinski, rất lẹ, lách cán ô qua khe hở và, mỉm cười hối lỗi, cám ơn tiếp, khác kiểu đi, vì bữa ăn rất vừa miệng. Sau hồi im lặng, ông rút ô về và, trong lúc Edmondsson, được che sau vách, lột quần lót ra, Kabrowinski lộ rõ ý hơn. Ông cố được ứng trước một khoản từ món tiền hứa hẹn, muốn chút tiền đi taxi và thanh toán khách sạn. Edmondsson trụ vững. Vừa khóa được cửa, nàng đã nhoẻn cười với tôi và, mông trần, kiễng chân dòm qua lỗ cửa. Không ngoái lại, nàng cởi khuy áo. Tôi bỏ quần cho nàng được vui.
18) Sau khi buông vòng ôm, chúng tôi ở trần ngồi đối diện nhau một lúc trên tấm thảm ngoài tiền sảnh.
19) Trong phòng tắm, đèn tắt, một ngọn nến soi Edmondsson chỗ mờ chỗ tỏ. Những giọt nước lóng lánh trên người nàng. Nàng duỗi dài trong bồn và, bàn tay đặt nằm, táp khẽ vào mặt nước. Tôi lặng lẽ nhìn nàng, chúng tôi mỉm cười với nhau.
20) Tôi nằm trên giường, và cố cho hết chương. Đầu chít khăn tắm, Edmondsson ở trần lượn lòng vòng quanh phòng, di chuyển uể oải, ngực ưỡn lên, hai cánh tay khoanh tròn trên không cử động chậm rãi, biểu diễn những vòng xoáy ốc vô tận trước mắt tôi. Đặt ngón tay vào đúng dòng, tôi chờ để đọc tiếp. Xoay tròn người, Edmondsson xem thư, xếp tài liệu. Nàng rời bàn làm việc, quay lại chỗ tôi. Nàng ngồi xuống ghế bành và, mấp máy môi, tìm hiểu nội dung một ấn phẩm; rồi thôi vắt chân, nàng đứng dậy buông lời bình phẩm. Suỵt, thỉnh thoảng tôi nói. Nàng không cố chây, gại gại đùi. Đăm chiêu, nàng lướt ngón tay trên mặt bàn làm việc, ngó quanh và cầm một tờ giấy xé đi. Nàng đứng im lại. Điệu bộ tần ngần, nàng nhặt một tấm thiệp to giấy bristol lên và ra giường nằm xuống cạnh tôi. Do tôi vẫn cúi đầu, nàng đặt tấm thiệp lên trang sách tôi đang đọc. Tôi hỏi nàng muốn gì. Gì đâu, nàng chỉ muốn biết ai đã gửi cái thiệp mời ấy cho tôi. Tôi hục hặc đầu hồi lâu, nghĩ ngợi, rồi, lấy ngón tay hẩy thiệp ra, đọc sách tiếp. Hồi sau, tiếng méo đi vì ngáp, nàng lại hỏi tôi người gửi là ai. Ai được nhỉ? Tôi phân vân. Mấy hôm nay, tôi đã có thời gian suy ngẫm. Phòng thư ký Đại sứ quán Áo chắc nhầm nhọt thế nào nên mới gửi cho tôi? Thế thì phải trường hợp đó, tôi khó lòng lý giải sao lại không có thêm nhầm lẫn gì ở mục địa chỉ. Hay chính phòng thư ký ấy, để lấy thông tin liên lạc của tôi, đã hỏi thăm qua mối quen biết nào chăng? Cũng có thể. Gần đây, gọi là làm nghề nghiên cứu, tôi hay gặp bên sử học, xã hội học. Tôi làm trợ lý cho T., chủ tọa một hội thảo chuyên đề, tôi có sinh viên, tôi đánh quần vợt. Bấy nhiêu thứ với tôi đều có vẻ là lý do tuyệt vời cho người ta mong tiếp đãi tôi, nhưng lại chẳng lý do nào, theo tôi, đủ chắc để lý giải lời mời của một đại sứ quán. Nàng thấy sao? Chẳng sao cả, Edmondsson đã thiếp đi rồi.
21) Một tay vùi dưới gối, Edmondsson vừa rên rỉ vừa hỏi giờ tôi, vì có người gọi chuông. Còn sớm. Bên ngoài, trời chưa hửng. Rèm cửa mở hé, nhưng không vệt sáng nào đến làm nhiễu động bóng tối tịch mịch của căn phòng. Ánh nhá nhem làm dịu các đường viền, bao trùm tường vách, bàn làm việc, ghế bành. Chuông lại reo. Quân phát xít, Edmondsson nói giọng ngái ngủ đặc sệt. Nằm sấp bụng, nàng vẫn bất động, như người kiệt sức, tay túm lấy ga. Trong lúc người ta nhấn chuông lần thứ ba, nàng đành thú nhận với tôi nàng không có đủ dũng khí đứng lên ra mở cửa. Tôi hòa hoãn đề nghị tháp tùng nàng; cả hai cùng đi, theo tôi, là thỏa hiệp công bằng. Edmondsson rề rà mặc đồ. Tôi ngồi đợi ở mé giường, bực bội vì tiếng chuông chẳng chịu ngưng cho. Khi Edmondsson xong xuôi, tôi vừa theo sau nàng trong hành lang vừa cài khuy bộ đồ ngủ. Kabrowinski ngại vì đã ấn chuông nhiều như thế. Ông đứng trước bậu cửa, áo da lót lông cài kín cổ, quàng khăn. Nằm giữa hai chân ông có cái túi nhỏ trong suốt, đựng đầy một thứ thịt lầy nhầy. Ông nhón túi lên, hôn tay Edmondsson và vào nhà. Kovalskazinski Jean- Marie chưa đến sao? ông nhìn quanh hỏi. Hắn đến ngay đấy, ông đảm bảo, hắn đúng giờ lắm. Rồi nhận ra nước ở túi đang rỏ xuống, làm ướt cả tấm thảm lẫn giày mình, ông nhìn như kiểu hối lỗi và cẩn thận chìa cái túi sũng nước cho Edmondsson. Cá mực, ông nói, quà. Thật, thật mà, ông khẩn khoản: quà mà. Ngồi cái ghế hôm trước trong bếp, ông kể đã chơi cờ thâu đêm ở phòng sau một quán cà phê rồi làm quen với người ngồi kế bên bàn, tay thanh niên khi bar đóng cửa đã kéo ông đến khu Les Halles, hai người mua một sọt mực rồi chia nhau lúc tờ mờ sáng, trong tàu điện ngầm, bến Invalides. Tôi nhìn ông nghĩ sang chuyện khác. Edmondsson cũng không nghe nốt; nàng đã mở vòi nước xả đầy ấm. Kabrowinski, yên vị thoải mái trong bếp, ngồi giạng chân, tay tiếp tục xoa cật lực. Ông bị nhiễm lạnh ở khu nhà kho dài rét cóng, ông bảo, đêm qua, giữa những nửa thân bò treo lủng lẳng, mà ông tả lại cho chúng tôi. Cười nụ tinh tế, trích dẫn Soutine, ông nói chuyện thịt sống, máu, ruồi, óc, lục phủ ngũ tạng, thịt vụn tấp đống trong thùng; kèm các chi tiết hôi thối là những cử chỉ khơi gợi chững lại khi ông hắt hơi. Cơm muối, Edmondsson, đang xây lưng về phía ông pha cà phê, lịch sự nói. Cùi chỏ vống lên, nàng rót nước vào phin. Tôi đề nghị làm thay để nàng có thể đi mua bánh sừng bò (cả sơn nữa, Kabrowinski chêm vào).
22) Sau khi Edmondsson đi khỏi, Kabrowinski mong được chà răng, vệ sinh chút đỉnh, rửa ráy, nếu tôi được cho phép. Tôi rất mực thân tình, tươi cười, giải thích là tôi cần buồng tắm, còn thì ông cứ tự nhiên dùng bồn rửa bát, có mấy con mực của ông đang nằm. Bỏ mực ra chỗ khác là được; tôi để ông tự làm nhé, tôi nói, rồi đi lấy khăn và xà phòng cho ông. Sau đó, tôi giam mình trong buồng tắm.
23) Đứng trước gương, tôi soi kỹ mặt mình. Đồng hồ đã tháo, nằm đối diện tôi trên kệ bồn rửa. Kim giây xoay quanh mặt đồng hồ. Bất động. Cứ hết một vòng, một phút lại trôi qua. Thong thả và dễ chịu. Không rời mắt khỏi mặt mình, tôi quết xà phòng cạo râu vào chổi; tôi chia kem lên má, lên cổ. Từ từ rê dao cạo, tôi kéo đi những hình chữ nhật bọt, và lớp da hiện lại trong gương, căng lên, khẽ ửng đỏ. Xong xuôi, tôi đeo đồng hồ về cổ tay.
24) Trên bàn bếp, cạnh túi bánh sừng bò quen thuộc, là ba hộp sơn. Kabrowinski lấy con dao Opinel khui một hộp và thấy chọn màu cam sơn lại bếp thật siêu hiện đại. Edmondsson ngờ vực, giải thích màu đấy là be tươi chứ không phải cam. Nàng xếp gọn sơn vào góc và mang cà phê ra. Tôi ngồi vào chỗ. Trong lúc tôi rót đầy tách mình, Kabrowinski, đối diện tôi, cố mở lọ mứt bằng con dao Opinel. Chúng tôi ăn lặng lẽ. Edmondsson giở lướt một tạp chí, ngạc nhiên vì triển lãm Raphael không được kéo dài thêm. Kabrowinski đã xem triển lãm tổng quan về danh họa, ở Luân Đôn. Raphael thì ông thấy cũng được. Ông kể với chúng tôi về sở thích cá nhân, thú nhận trọng Van Gogh, ngưỡng mộ Hartung, Pollock. Một tay dưới cằm hứng vụn bánh, Edmondsson hối hả ăn nốt bánh sừng bò. Nàng phải đi, mười giờ phòng tranh mở cửa. Kabrowinski, tự tiếp thêm cà phê, nhờ nàng chuyển lời chào trân trọng đến ngài giám đốc phòng tranh, con người đặc biệt đã chọn trưng bày tác phẩm của ông và, đăm chiêu, hớp một ngụm dài, thêm vào là nàng cũng có thể nhắc con người tuyệt vời ấy rằng ông xin tuân theo mọi sự thu xếp để gặp mặt người mua tiềm năng. Edmondsson chải đầu, thắt dây lưng áo choàng. Đi ngang chậu rửa bát, nàng bảo, chúng tôi mà muốn trưa ăn mực, thì phải moi ruột và bóc màng đi. Kabrowinski đồng tình cực lực. Mặt ông tươi rói. Ngả người ra, ông mãn nguyện lau miệng, và hướng về Edmondsson giờ đã ở ngoài tiền sảnh, kêu lên là nàng chớ quên gọi xưởng vẽ xem các bản litô đã xong chưa.
25) Cúi nghiêng một bên người, sơ mi trắng dưới dải đeo quần màu ghi, Kabrowinski cố lách mũi dao vào lớp thịt xúc tu nhớt của con mực đang nằm toẽ trên thớt gỗ. Đối diện ông, Kovalskazinski Jean-Marie (đến nơi lúc Edmondsson vừa đi khỏi, phục sức rất trang nhã) ghì con thân mềm giữa đôi tay thanh tú không cho ngoe nguẩy. Anh chàng đã tháo đồng hồ, và trao mình cho công cuộc ấy có phần dè dặt. Quần phủ khăn lau bếp, anh ta đứng thẳng đuỗn, đầu cứng ngắc, miệng bặm. Thỉnh thoảng, giọng xa xăm, anh gợi ý một chỗ giao mà theo anh lưỡi dao dễ lọt vào hơn. Lúi húi bên trên chuôi dao, tóc rủ xuống mắt, Kabrowinski không chịu nghe; ông nhăn nhó, tay quắp lại, lấy hết sức bình sinh chọt con dao Opinel vào nùi nội tạng. Ngồi mãi cuối bếp, chân bắt tréo, tôi hút thuốc. Nhìn đầu lọc, đang tỏa ra hơi khói ngập ngừng, tôi băn khoăn có nên đến tiệc chiêu đãi ở Đại sứ quán Áo không. Tôi có thể mong chờ gì ở đó? Diễn biến dạ tiệc, dự kiến vào thứ Ba tới, theo tôi là bất di bất dịch. Tôi sẽ đóng bộ tối màu, thắt cà vạt đen. Tôi sẽ trình thiệp mời ở lối vào. Dưới pha lê đèn chùm sẽ lấp loáng những bờ vai trần, những trang sức ngọc ngà, những ve áo lễ phục láng bóng. Tôi sẽ, thong thả, di chuyển từ xa lông này sang xa lông khác, ánh mắt hơi chúc xuống. Tôi sẽ không nói, không cười. Tôi sẽ vươn thẳng người mà bước, sẽ đến bên cửa sổ. Tôi sẽ, bằng một ngón tay, tẽ rèm nhìn ra phố. Đêm sẽ tối đen. Có mưa không nhỉ? Tôi sẽ thả rèm ra và quay lại tiệc đứng. Sẽ đứng im sau một nhóm khách. Một ông đại sứ sẽ phát biểu. Nước ta đang phát triển vững mạnh, ông ta sẽ bảo. Nhận định này, căn cứ vào bản tổng kết không chút nương tay, được rút ra ngay tại phiên khai mạc hội nghị thường kỳ của chính phủ ta. Ghi nhận ấy càng có ý nghĩa lớn lao hơn trong bối cảnh quốc tế đầy trở lực. Tôi sẽ lắng nghe. Ông ta sẽ oai phong, nói năng sẽ tự mãn. Trên cơ sở cái nền tảng phấn khởi ấy, ông ta giải thích, các chủ điểm khác nhau trên bàn nghị sự đã được xem xét: nhiều vấn đề đã được làm sáng tỏ trong quá trình diễn ra phiên họp, cho phép tổng kết từng khu vực hữu quan, nhờ công tác điều phối hiệu quả. Qua đó, các yêu cầu được đưa ra là mới về chất; chúng mang tên: mục tiêu thực tế, hợp lực toàn diện, quản lý nghiêm minh. Nghiêm minh. Từ này sẽ gây cười cho tôi; tôi sẽ cố nín, sẽ quay gót, bước giữa các xa lông, tay đút túi. Và tôi sẽ ra về, không quên lấy khăn ở phòng gửi đồ. Về nhà, tôi sẽ giải thích với Edmondsson rằng đám ngoại giao đã xúm xít nghe tôi bàn về giải trừ quân bị, các bà các cô chen nhau lại gần nhóm người nhỏ có tôi, tay cầm ly, đang diễn thuyết và bản thân Eigenschaften, vị đại sứ Áo, con người khắc khổ, tiết độ, uyên bác, đã thú nhận rất ấn tượng trước sự tinh tế trong các lập luận của tôi, kinh ngạc trước sự chắc nịch trong logic của tôi và cuối cùng, hết sức chân thành, choáng ngợp trước vẻ đẹp của tôi. Đúng lúc này, Edmondsson sẽ ngước mắt lên và gò má nàng sẽ nhô ra: nàng cười. Sau đó thì sao nhỉ? Tôi rời ghế ra tắt thuốc dưới vòi nước. Đi ngang, tôi đánh mắt nhìn con mực lúc này mới chỉ có nửa thân trên, nhẵn nhụi, đã bóc màng xong. Kabrowinski lột được miếng da dài nhờ nhờ xám nhưng cố mấy cũng không rứt được khỏi sợi xúc tu to nhất. Ông băm băm lưỡi dao vào đám xúc tu và khoét vết đứt hòng giải thoát cho da. Bệnh cúm không hỗ trợ công việc của ông: trước đó một lát, cơn hắt hơi mạnh buộc ông ngưng lại để lau ngón tay.
26) Chân trước chân sau, gần như chạy, tôi bước gấp qua hành lang ra trả lời điện thoại. Gọi nhầm, cho người thuê cũ. Trong phòng ngủ, một ánh xám xuyên qua rèm cửa vải tuyn. Tôi đặt ống nghe xuống thanh đỡ cái điện thoại già nua, mơ màng đi quanh bàn làm việc và dừng lại bên cửa sổ. Trời đang mưa. Đường phố ướt, vỉa hè sẫm tối. Vài ô tô vào chỗ đỗ. Những chiếc khác, đang đậu, mưa phủ kín. Mọi người sang đường nhoáng nhoàng, ra ra vào vào bưu điện, tòa nhà hiện đại trước mặt tôi. Chút vẩn nước mon men bám vào cửa kính. Sau màn hơi mỏng, tôi quan sát người đi đường bỏ thư. Mưa tạc vào họ dáng dấp mưu phản: đứng chững lại trước hòm thư, rút phong bì trong túi áo bành tô ra và thoắt cái, để thư khỏi ướt, vừa nhét nó vào khe vừa dựng cổ áo chặn mưa lại. Tôi ghé mặt sát cửa sổ và, mắt dán vào kính, bỗng có cảm giác hết lượt những con người kia đều đang ở trong bể kính. Có thể họ sợ chăng? Bể kính đầy dần lên.
27) Ngồi giường, tay ôm đầu (vẫn những tư thế cực đoan ấy), tôi tự nhủ con người ta đâu ngại gì mưa; vài người, ở hiệu cắt tóc ra, thì dè chừng đấy, chứ nào ai thật sợ sẽ chẳng bao giờ ngưng nữa cơn mưa này, sự tuôn chảy liên tục xối hết - xóa trơn. Chỉ có tôi, bên cửa sổ nhà mình, trong nỗi hoang mang vì khiếp hãi đủ kiểu chuyển động diễn ra trước mắt, mưa, dịch chuyển người xe, là bất thần ớn thời tiết xấu, trong khi chính sự tuôn chảy của thời gian, một lần nữa, mới làm tôi thất đảm.
28) Bàn phủ vải dầu trắng, tủ bếp, ngăn kéo tủ và kệ tủ, cửa sổ và thành cửa sổ. Tôi chẳng biết gì về cái chậu rửa bát trước mặt mình kia, chồng bát đĩa kia, cái bếp lò kia. Nền bếp trông tối thẫm, lớp lót linoleum bong tróc đôi chỗ. Hai cái chổi dựa vào tường. Tôi trông ra các chi tiết, ngó nhìn song không quyết bước vào. Trong khuông cửa, tôi có cảm giác mình đang đứng trước một nơi xa lạ. Mấy người kia là ai? Họ làm gì ở nhà tôi?
29) Tuyệt không đoái hoài đến sự hiện diện của tôi, hai người Ba Lan tiếp tục chuyện trò, mải mê và bình thản. Mắt hướng về đống dị hình của con chân đầu nằm dang kín thớt gỗ, Kabrowinski xọc hú họa mũi dao để xả cục u đâu đó. Con mực đã bóc xong, chỉ duy đầu chót mấy cái tua có thể nắm được là còn nguyên, vẫn dính những mẩu da nhờ xám, sun lại, giống như bít tất. chờm quanh thớt gỗ, các xúc tu uốn éo đủ mọi hướng, bò dọc bồn rửa bát, leo qua chướng ngại, gặp lại nhau, thỉnh thoảng vắt chồng lên nhau. Những cái dài nhất thõng ra tứ phía. Kabrowinski buông dao và, quay sang tôi, cho biết ông đã bắt đầu thuần thục. Theo ông thì, dẫu vẫn còn năm con mực chất trong chậu, ông cần không quá mười lăm phút là bóc sạch hết. Càng hay, càng hay, tôi vừa nghĩ bụng vừa lục túi tìm thuốc lá. Tôi để trong phòng ngủ mất rồi.
30) Chúng ta đã tiến hành thảo luận, viên đại sứ sẽ nói, đã đưa ra đề xuất, đã rút kết luận và thông qua các chương trình. Mọi kế hoạch, được xây dựng trên tinh thần thống nhất hệ thống văn bản, nhằm hỗ trợ thực thi loạt biện pháp đã chủ trương tại phiên họp trước, thông qua việc xác định rõ hoạt động nghiên cứu tiền khả thi. Các biện pháp này, bên cạnh đó, cũng nhằm khuyến khích người tham gia lên chương trình nghiên cứu chặt chẽ để làm chủ kế hoạch tốt hơn, qua đó triển khai những phương thức nâng cao hiệu quả năng lực thực tiễn. Tràn đầy kỳ vọng, những người tham gia đã thống nhất cùng phối hợp theo hướng đảm bảo tinh thần trách nhiệm, độ tin cậy và tính cố kết. và chưa hết. Họ mong chờ - theo lời chính chủ tọa phiên họp - có thêm nhiều nỗ lực hơn nữa nhằm thực hiện các mục tiêu chính đã đề ra. Anh có tô xa lát không? Kabrowinski hỏi. Sao cơ? Tô xa lát, ông nhắc lại trong lúc phác đại hình cái tô trộn xa lát.
31) Hơi khom người, Kabrowinski trìu mến để, thớt nghiêng, chỗ khoanh mực mỏng trượt vào bát đựng. Ông đã phải mở hết tủ tường, xê dịch nồi niêu, lôi bình, chậu, rổ rá, xoong chảo ra mới tìm thấy dưới đáy hộc tủ nào đó cái bồng bằng nhựa trong màu lục nhờ nhờ tồi tàn ấy. Kovalskazinski Jean-Marie cũng tìm, nhưng ít tin tưởng hơn, chỉ đi vòng quanh bếp chăm chú ngó nghiêng. Con mực đã thái xong, thân thành lát, xúc tu thành khoanh và, phần nhỏ rồi, biến thành một mớ rùng rình được Kabrowinski gạt dao tùa vào bát đựng. Xong việc, ông túm con thứ hai trong chậu lên, giơ cao tít trên đầu chúng tôi và, đầy mềm mại, gối chùng, trải nó xuống thớt trong một cử điệu ân cần. Nãy giờ, tôi đã biết mình sẽ rời bếp (tôi hơi lạnh).
32) Đứng dậy, tôi ra khỏi bếp vào phòng lấy áo len. Trước khi bước qua ngưỡng cửa, tôi khẽ nghiêng người, nụ cười hối lỗi, tỏ cho khách biết tôi rời họ đi trong luyến tiếc. Căn hộ yên ắng. Tôi bước êm ru. Tôi lướt qua tiền sảnh, quành trái rồi quành phải, vào hành lang, để về phòng bằng bước chân đều đều như thế đã bao lần rồi? Và đã bao lần tôi theo hành trình ngược lại? Tôi tự hỏi mình. Ở hành lang, mấy cánh cửa mở hé. Từ khe hở hắt ra những vệt sáng xám lẫn vào thảm; đôi giày đang chuyển động của tôi đón những tia sáng nhạt đan chéo nhau. Tôi rẽ phải vào phòng mình. Đứng trước cửa sổ, tồi vuốt cánh tay, xoa ngực. Tôi di ngón tay vẽ tranh trên ô kính, vạch đường lên màng hơi nước, những đường vòng bất tận (bên ngoài, vẫn cứ Paris như thế).
33) Có hai cách ngắm mưa rơi, ở nhà, sau cửa kính. Cách đầu là găm mắt vào một điểm bất kỳ trong không gian và nhìn mưa nối tiếp tại điểm đã chọn; cách này, thư thái cho tinh thần, không mang lại bất cứ ý niệm nào về đích của chuyển động. Cách thứ hai, đòi hỏi thị lực linh hoạt hơn, là cùng lúc dõi mắt theo đà rơi của đúng một giọt, từ lúc nó lọt vào tầm mắt cho đến lúc nước từ đó loang ra đất. Như thế, có thể hình dung rằng chuyển động, bề ngoài chớp nhoáng cỡ nào đi nữa, về căn bản vẫn hướng đến bất động, và do đó, dù đôi khi có vẻ chậm đến đâu, không ngừng kéo cơ thể về phía cái chết, tức là sự bất động. Ố giề.
34) Giờ thì đang mưa xối xả, cứ như mưa sẽ trút xuống hết, hết sạch. Ô tô chạy chậm lại trên mặt đường ướt đẫm, những chùm nước đọng tóe ra hai bên bánh lốp, Ngoài dăm ba cây ô giăng ngang chạy trốn, con phố cơ hồ bất động. Mọi người đứng trú trước lối vào bưu điện và, tụm lại, chờ mưa tạnh trên bậc thềm hẹp. Tôi trở ngược và đi mở tủ; tôi lục ngăn kéo. Đồ lót, sơ mi, đồ ngủ. Tôi tìm áo thun, Chẳng lẽ không đâu có áo thun? Tôi lại ra khỏi phòng và, giơ chân xê mấy thùng sơn làm vướng lối đi, mở cửa kho. Chúi vào trong, tôi dịch hòm xiểng, mở va li tìm quần áo ấm.
35) Vỏ sò, đá sưu tập, mã não miếng, cốc kim loại, cốc đựng trứng, khăn lót, khăn tay, ren, khăn san, lọ dầu giấm để bàn, mặt dây chuyền, hộp sơn mài, mở nút chai, đồ nghề cũ, dao gấp, dao bạc, hộp ngà đựng thuốc hít, đĩa, dĩa, tượng và con giống Giáng sinh vùng Provence, đồ chạm khắc Nhật. Tôi đã bậy được một cái rương sắt lớn, chi chít khóa và chằng kín dây dợ xổ lông, và ngạc nhiên thấy bên trong cả đống hổ lốn ấy, chắc của mấy người thuê cũ, mà bằng vào nét thanh nhã của tranh khắc thì thuộc típ người hưởng lạc.
36) Hai người thuê cũ, chúng tôi có gặp sát ngày chuyển đến ở. Trước khi nhường lại nhà, họ mong được làm quen. Họ gọi điện mời chúng tôi đến uống một ly. Chúng tôi trình diện ngay tối đó, mang theo chai Bordeaux. Ông thuê nhà cũ, người nho nhã, nhìn chai rượu, đánh giá là rất ngon, nhưng cười e dè thú thật ông ta không thích vang Bordeaux, mà khoái Bourgogne hơn. Tôi đáp tôi thì lại chẳng khoái cho lắm cách ông ta phục sức. Điệu cười ông ta gượng gạo, mặt ông ta ửng đỏ. Còn đâu thì có tí chút lạnh nhạt, chuyện trò không bắt lại được ngay. Cả bốn chúng tôi đứng đực ra ngoài tiền sảnh, tay khoanh, mắt cụp; Edmondsson ngó tranh. Bà thuê nhà cũ, xòe miệng cười, chấm dứt tình trạng khó xử khi mời chúng tôi qua phòng khách. Ở đó, giữa đống hòm xiểng chuyển nhà, chúng tôi ngồi xuống mấy cái ghế cắm trại. Ông thuê nhà cũ mang ô liu bày trong bát đất nung ra cùng chai Bourgogne, được ông ta khui đúng thể thức. Phải đứng lên gập ghế chúng tôi đang ngồi lại mới đến được chỗ cái hòm bên trong có ly pha lê, bọc giấy lụa, đặt cẩn thận giữa hai lần báo cũ. Khi tôi đã được tiếp rượu rồi, đã nói tôi thấy rượu ngon chừng nào rồi, ông thuê nhà cũ mạnh dạn hơn, thoải mái lên trông thấy, thắt lại khăn và kể chúng tôi nghe về bản thân, quá khứ, nghề nghiệp. Ông ta là nhân viên bán đấu giá. Vợ người Nîmes. Hai người họ quen nhau ngoài bãi biển Esmeralda, đảo Sardirina. Sở dĩ họ quyết định chuyển nhà là vì đã ngán cảnh sống ở Paris. Họ cần khoảng lùi, thanh khí, làng quê (chưa gì ông đã khấp khởi trước ý nghĩ sẽ thức giấc vì tiếng chim chiêm chiếp rồi). Cuối năm là ông nghỉ hưu, nên họ sẽ về sống hẳn ở vùng Normandie, trong một điền trang cải tạo. Viễn cảnh ấy khiến ông hoan hỉ. Ông sẽ được đi câu, săn bắn, tí toáy vặt. Ông ta sẽ viết tiểu thuyết. Thế ông bà có vườn không? Tôi hỏi cho ông ta khỏi kể chủ đề tiểu thuyết, các biến cố, thắt mở. Có vườn rộng lắm, ông ta đáp, cỡ công viên luôn ấy, mình sẽ tản bộ trong rừng mãi được, Brigitte nhỉ? Brigitte đồng tình, cười với chúng tôi và mời ô liu. Đặt bát về hòm, bà ta quay sang hỏi tôi làm nghề gì. Tôi á? tôi nói. Vì tôi cứ im thít, nên Edmondsson đỡ lời. Hí hửng biết được tôi làm nghiên cứu rồi, hai người thuê cũ thay nhau hỏi han về công trình của tôi, đưa nhận xét, nêu ý kiến. Họ nói năng sốt sắng, gắng làm sao thật thuyết phục, cuối cùng còn cho cả lời khuyên. Ở vào vị trí tôi, họ bảo, họ sẽ làm khác đi. Tôi nhả hạt ra tay, gật gù, không ra nghe hẳn. Giải thích hết cho tôi đường hướng chính kết luận của luận án phải là gì xong xuôi, họ đứng lên, chắc mẩm đã thuyết phục được tôi, và đề nghị đưa chúng tôi đi thăm nhà để cung cấp một số thông tin thực tiễn. Chúng tôi cất bước. Họ dẫn trước vào từng phòng, mô tả những thứ nhìn thấy cho chúng tôi. chúng tôi đi vòng một lượt hết các phòng theo kiểu tham quan bảo tàng, tay chắp sau lưng, vẻ dửng dưng hứng thú. Trong buồng tắm, họ lưu ý đường ống vừa được làm lại toàn bộ bằng chi phí của họ, gương treo tường cũng mới, hóa đơn họ vẫn giữ đây, còn nền lát được chưa đầy hai tháng. Thảm phòng ngủ mất của họ năm mươi sáu quan một mét. Mấy thanh treo áo ngoài hành lang, móc là gỗ anh đào dại, giá trên sáu trăm quan một cái. Đèn chùm tiền sảnh là đồ cổ, có thể ước tính giá trị gần ba nghìn quan, chúng tôi chăm chú nghe mấy con số, Edmondsson ý nhị mỉm cười với tôi, tôi thì muốn hỏi luôn cả giá cửa phòng khách. Quay về đó, họ mời chúng tôi ngồi, tiếp rượu đầy ly và, với những nụ cười bối rối lỗi lạc, gợi ý chúng tôi mua lại toàn bộ đồ nội thất lắp đặt trong nhà. Bằng không, họ bảo, xin thông cảm cho họ, họ tự thấy buộc lòng phải dỡ hết chỗ giá đỡ và rút thảm đi. Edmondsson, miễn chê trong vấn đề tiền nong, trả lời ngay là chúng tôi không cần đến giá để đồ và, về phần tấm thảm, thực tình nàng sẽ rất lấy làm cảm kích nếu họ giải phóng nền nhà cho chúng tôi được trải thảm của mình.
37) Chúng tôi đã đi vòng quanh căn hộ trống. Chúng tôi đã uống rượu Bordeaux bệt dưới sàn. Chúng tôi đã lấy hết đồ ra khỏi hòm xiểng, tháo hộp, dỡ va li. Chúng tôi đã mở cửa sổ cho bay hết mùi người thuê cũ. Chúng tôi ở nhà mình; trời se lạnh, chúng tôi cự nhau vì một manh áo ấm cả hai cùng muốn mặc.
38) Nhà mới được ăn mừng. Đôi chúng tôi mời đến rất sớm. Đó là bạn thuở nhỏ của Edmondsson. Họ ngồi vào tràng kỷ, vừa lau mắt kính vừa hà hơi, Lúc uống khai vị, còn lại mình tôi với hai thanh niên ấy, Edmondsson phải rút đi chuẩn bị bữa tối. Họ giữ im lặng. Họ bắt tréo chân, ngó quanh tường vách. Trao tôi vài nụ cười lịch thiệp rồi, họ bỏ mặc tôi đấy và bắt đầu rì rầm tán chuyện. Thôi để ý đến tôi, họ gợi lại những buổi tối mới đây, những kỷ niệm đi nghỉ, đợt trượt tuyết gần nhất. Rồi, do Edmondsson chưa quay lại, họ lấy mấy tờ tạp chí nằm trong tầm với. Họ giở lướt, chìa ảnh cho nhau xem. Tôi đứng dậy, bật đĩa hát rồi lại ra ngồi xuống. Ồ vui sao trước cửa nhà xe, cha hiện ra trên tầng xe hoa lệ, cha ơi, trời tối đen nhưng ánh đèn thoáng rọi, mình nhìn xa tít tắp sườn đồi. Charles Trénet, tôi nói. Trên đường Narbonne mình sẽ đi, xuyên đêm thâu sẽ vù tiếng máy, và tháp pháo đài Carcassonne mình sẽ thấy, ló ra ở Barbaira bên phía chân trời. Anh không có đĩa Frank Zappa à? Pierre-Étienne hỏi với vẻ bề trên thích thú. chẳng có cái nào, tôi nói. Tôi nhấp những ngụm nhỏ cho hết whisky và đặt ly xuống bàn. Từ trong bếp, Edmondsson hét vọng ra tầm mười phút nữa nàng mới xong. Trong lúc đợi, nàng tiếp tục váng lên, tôi đưa bạn chúng tôi đi thăm nhà được thì hay biết mấy. Bạn chúng tôi gập báo lại và, tay khoác tay, theo sau tôi trong hành lang, xoắn chặt vào nhau. Chúng tôi bắt đầu bằng buồng tắm. Tôi ngồi lên thành bồn tắm, để họ thỏa thuê ngắm nghía. Tiếp đó, tôi dẫn họ sang thăm phòng ngủ. Họ nán lại trước giá sách, rút ra mấy quyển, rồi lại xếp về chỗ. Tôi đợi ngoài hành lang. Ngang buồng vệ sinh, tôi mở cửa và, dẫn trước họ, điều khiển cánh tay lái họ về hướng mong muốn, khiến cả hai lọt được vào trong. Họ hối hả trở ra và, bước thong thả, ngó sang phải rồi sang trái, đi lại đường dẫn về phòng khách. Edmondsson cuối cùng cũng nhập hội. Nàng xin lỗi đã để phải chờ và hỏi họ thấy căn hộ thế nào. Tay nắm tay, bạn chúng tôi cho là căn hộ nhỏ - nhưng hài hòa. Chúng tôi ngồi vào bàn. Chúng tôi ăn măng tây; họ bàn chuyện chính trị quốc tế, chuyện bằng cấp đại học. Như đang kể chuyện cho ông bà nghe, Pierre-Étienne cho biết cậu ta học hành giỏi giang. Cậu có bằng cử nhân luật, cao học khoa học chính trị và đang tính lấy thêm mảnh bằng thạc sĩ lịch sử thế kỷ hai mươi. Nhưng, với cái bằng cuối cùng này, cậu chợn tuyển sinh đầu vào; giữa các thí sinh, cậu giải thích trong lúc ăn uống đúng mực, có sinh viên học viện hành chính quốc gia,spaghetti alle vongole rồi trường bách khoa nữa. Lực sĩ ném đĩa cả đấy, tôi vừa nói vừa lấy tiếp một cọng măng tây. Tôi chêm thêm, và lấy giọng nghiêm túc, mình mà tham gia hội đồng khảo thí thì ngộ. Người ta tưởng tôi giỡn. Tôi để kệ, nhưng, giả mà run rủi T. lại nhờ tôi hỗ trợ phỏng vấn tuyển sinh, thì tôi sẽ chẳng khoái làm thí sinh Pierre- Étienne đâu. Sau bữa tối, chúng tôi đánh cờ tỷ phú. Tôi rót whisky, chúng tôi chuyền súc sắc cho nhau, cất nhà, xây khách sạn. Cuộc chơi uể oải. Bạn chúng tôi rờ cẳng tay nhau, vuốt ngón tay nhau khi tung súc sắc; chúng tôi chuyện phiếm, Pierre-Étienne băn khoăn thế chiến thứ ba liệu có nổ ra không. Tôi kệ thây. Đè bẹp họ xong thì tôi đi ngủ (làm gì có bí mật, trong trò cờ tỷ phú).
39) Cái áo len sợi dày màu trắng, sườn thụng, vo lại nhìn giống vỏ bao khoai tây vứt xó. Dãy hình quả trám màu trắng và be vặn vào nhau ngang ngực; miếng da độn ở khuỷu làm ống tay như bị gãy. Tôi nhặt tấm áo vo cục dưới nền kho lên, và mở ra ngắm ở tiền sảnh. Nó bé bé: chắc đồ Edmondsson mặc hồi nhỏ đây mà. Tôi cởi áo khoác ra, tròng nó vào người. Đại khái thì cũng tạm ổn.
40) Ngồi cuối bếp, đầu cúi, tôi giằng ống tay áo len cố che lấy một phần cổ tay. Hai người Ba Lan, ngạc nhiên thay, chẳng nói năng gì. Kovalskazinski Jean-Marie vẫn đang dằn đầu một con thân mềm xuống thớt gỗ. Tay anh ta đỏ ửng, ướt, quắp lại. Anh ta sốt ruột, tôi cảm tưởng vậy, chớm mỏi lưng. Mỗi lần con dao lướt trên cái túi màu be co thắt về phần thân, anh lại xủng xẳng cảnh báo Kabrowinski đừng có chích vào, vì bên trong chứa mực. Kabrowinski chẳng tin, bảo đấy là gan và, để chứng minh, bén gọn một nhát, thọc con dao Opinel đúng chỗ bộ phận kia. Mực không phòi ra ngay, đầu tiên chỉ vài giọt, quánh đen, rỉ ra trên bề mặt, rồi vài giọt nữa, và cuối cùng một dòng tuôn từ từ ra thớt. Kovalskazinski Jean-Marie cởi cái khăn lau thắt ngang lưng, bỏ mặc việc đấy, ra ngồi cạnh tôi. Mặt căng thẳng, anh ta châm thuốc và, tiếng Pháp chen lẫn tiếng Ba Lan, trách Kabrowinski sao không nhờ hàng cá lột da mực luôn cho. Mà, anh ta nói, vẫn còn tận bốn con, nguyên xi, trong bồn rửa chứ. Kabrowinski không nghe. Ông chấm ngón tay vào mực và giải thích màu sepia được làm từ chính mực của con mực. Hồi trẻ, ông vẽ nhiều bức thủy mặc đẹp lắm. Đúng thế. Mơ màng, ông đem mực ra vòi nước xả mãi. Ông lấy giẻ lau thớt và, khi con mực đã rửa sạch lại nằm về chỗ, ông nhờ Jean-Marie Kovalskazinski làm ơn đến phụ một tay...
Chú thích:
[1] Nguyên văn: éclair, là loại bánh ngọt hình thuôn dài, nhân kem trứng, thường có hương vị cà phê hoặc sô cô la, bên trên phủ một lớp đường hoặc kem đông mềm. (Các chú thích trong sách là của người dịch.)
[2] Nguyên văn: mille-feuilles, gồm ba lớp bánh kẹp kem ngọt, trên mặt láng một lớp kem hoặc đường bột đun chảy.
[3] Tức mì ống xào ngao