← Quay lại trang sách

CẠNH HUYỀN

1) Tôi đi bất đồ, và chẳng báo ai. Tôi không đem theo gì. Tôi mặc com lê tối màu cùng áo choàng xanh tím than. Tôi bước trên đường: cây, hè phố, dăm khách bộ hành. Đến quảng trường, tôi thoáng thấy bóng xe buýt. Tôi rảo bước, băng ngang đại lộ và leo lên sau các hành khách khác. Xe chuyển bánh. Tôi ngồi phía đuôi xe, chỗ cái khoang vồng ra. Cửa kính mưa phủ dày. Đối diện tôi có hai người, một bà, một người đàn ông đọc báo. Giày người trước mặt tôi sũng nước, một vệt choèn loang quanh đế. Chúng tôi băng qua sông Seine, sang ngang lần nữa ở cầu Austerlitz. Đến bến nào tôi cũng quan sát khách lên xe, canh chừng mặt người. Tôi sợ gặp phải ai. Thỉnh thoảng, một khuôn mặt nhác trông nghiêng khiến tôi hốt và tôi cúi gằm xuống vì ngỡ nhận ra ai, rồi ngay khi người ta đối diện tôi, nhìn ra gương mặt xa lạ tôi thở phào và, đầy thiện chí, dõi theo cho đến khi người ta ngồi vào chỗ. Tôi xuống ở bến cuối, và hướng về nhà ga. Tôi lang thang một lúc ở sảnh chờ. Tôi mua vé, cố lấy giường nằm mà không kịp: tàu sắp sửa khởi hành.

2) Hôm sau, tàu tới nơi. Tôi xuống bến, vạ vật ở nhà ga, tay đút túi cái áo choàng thanh lịch. Cạnh cửa kính rộng, thụt vào, là văn phòng Nghiệp đoàn xúc tiến du lịch. Tôi xem ảnh, áp phích. Sau quầy, một cô đang nói chuyện điện thoại, tay phải ghi ghi chép chép. Khi cô bỏ máy, tôi bước vào và, đã yên chí được là cô có nói tiếng Pháp, nhờ cô đặt giúp phòng khách sạn. Phòng đơn hay phòng gia đình? cô hỏi. Tôi nhìn cô ngờ vực. Đâu, Cô đâu nói tiếng Pháp. Phòng cho tôi, tôi vừa hét vừa khoát tay trỏ vào mình từ đầu xuống chân.

3) Tôi đi quanh phòng. Giường phủ chăn lông màu gỉ sắt. Bồn rửa nhô khỏi tường, bên dưới đặt chậu vệ sinh nhựa. Một cái bàn tròn kèm ba ghế được bố trí giữa phòng rất dị. Cửa sổ rộng, có ban công. Không bỏ áo khoác, tôi xả cho nước chảy vào bồn rửa, giải thoát miếng xà phòng bé ton hon khỏi tờ giấy bọc và rửa tay. Nghếch nghiêng đầu lên, tôi quan sát mặt mình trong gương, rướn ra đằng trước để nhìn cho rõ cái cần cổ, lấm tấm những sợi lông sậm màu, lơ thơ. Nước vẫn chảy vào bồn sứ. vào cả khăn tôi nữa, lúc này.

4) Tôi đã ở cả đêm trên toa tàu, một mình, đèn tắt. Bất động. Nhạy với chuyển động, chỉ duy với chuyển động, chuyển động bên ngoài, hiển hiện, xê dịch tôi đi cho dù tôi bất động, và cả chuyển động bên trong thân thể đang tự hủy của tôi, chuyển động vô phương cảm nhận, làm tôi bắt đầu chú mục vào mỗi đó và muốn định hình bằng được. Nhưng nắm bắt nó làm sao? Nhận ra nó chỗ nào? Những cử động đơn giản nhất cũng làm lãng chú ý. Tôi chìa tấm hộ chiếu xanh cho viên cảnh sát Ý.

5) Tôi ra khỏi khách sạn sau khi đã vắt khăn lên sấy trên lò sưởi. Ngoài phố, tôi cà lưỡi vào răng, vào vòm miệng. Tôi thấy có vị tàu hỏa trong miệng, áo quần thì ẩm. Tôi phủi ống tay, vừa đi vừa giũ áo choàng. Đường phố hẹp ép chân bước theo một hướng, chẳng nghĩ ngợi gì tôi tiếp tục đi thẳng, qua mấy cây cầu. Tôi gặp được nhà băng có thể đổi tiền. Tôi mua một đài bán dẫn giá rẻ. Tôi uống tách cà phê xoàng, gọi thuốc lá. Trong một cửa hàng bách hóa Standa, tôi mua bộ đồ ngủ, hai đôi tất, cái quần lót. Tay lỉnh kỉnh túi, tôi dừng lần chót ở hiệu thuốc. Cửa ra vào rít lên. Viên dược sĩ không hiểu rõ ý tôi. Tôi phải đặt đống túi xuống để mô phỏng bàn chải đánh răng, dao cạo, xà phòng cạo râu.

6) Quay về khách sạn, tôi bị lạc giữa các tầng. Tôi đi dọc hành lang, leo cầu thang. Khách sạn vắng hoe; nó như mê cung, không đâu có chỉ dẫn. Quành khỏi một thềm nghỉ trải thảm bần, bài trí cây xanh, tôi rồi cũng thấy hành lang dẫn về phòng mình. Tôi bỏ đồ trong túi ra bàn, cởi áo choàng. Tôi thả người xuống giường. Tôi nằm đó cho hết buổi sáng, nghiêng bên mạng sườn, hoài công chỉnh đài bán dẫn. Tôi xoay vặn đủ hết các nút, chỉnh sang điều biến tần số, về lại sóng dài. Cái máy rẹt rẹt. Tôi lắc đài, chỉnh lại ăng ten.

7) Tôi không xuống ăn trưa.

8) Nhà tắm nằm ở tầng dưới. Muốn đến nơi, tôi phải men theo một hành lang dài, xuống cầu thang xoắn ốc và, ở thềm nghỉ, vào cánh cửa đầu tiên bên trái. Người dọn phòng mới chỉ đường cho tôi ban sáng. Ăn mặc chỉnh tề thì việc ấy không cho thấy khó khăn nào. Nhưng tôi lại đang đánh đồ lót, kèm đủ khăn tắm lẫn đồ vệ sinh, ẹp vào thành cầu thang, đợi một cặp quyết định hoặc bước vào phòng, hoặc đi ra. Vì lý do mờ mịt với tôi, họ chẳng có vẻ gì cả quyết. Tôi nghe được họ trao đổi - bằng tiếng Pháp - trên thềm nghỉ, có lẽ là trước cửa phòng họ, về tác phẩm của Titian, của Veronese. Người đàn ông nói về cảm xúc đích thực, về cảm giác thuần túy. Ông ta bảo thấy rung động vì tranh Veronese, rung động chân thành, độc lập với, ông ta bảo, mọi nền tảng văn hóa hội họa (đích thị dân Pháp đây rồi, tôi tự nhủ). Nép sát tường, càng lúc càng sốt ruột, tôi rình mọi tiếng động trên tầng, chỉ sợ bị bắt gặp đang mặc trơ quần lót, đứng phỗng ra, ở lồng cầu thang. Như thế, bỗng nghe tiếng chân bên trên đầu, tôi quyết định đi tiếp, phải đương đầu với ánh mắt hai cái người trên thềm nghỉ cũng mặc. Tôi hối hả bước nốt mấy bậc thang cuối ngăn tôi với họ, đi chậm lại và, chỉnh khăn quanh hông cho ngay ngắn, lấy vẻ ung dung nhất đời rẽ quành xuống. Tôi thấy mình dưới quầy bar khách sạn. Gần như không một bóng người. Cặp đang ngồi ở tràng kỷ quay lại ngó tôi. Người phục phụ quầy bar thì không ngước mắt lên.

9) Tường nhà tắm màu lục nhạt, sơn rộp rải rác. Khóa cửa lại, tôi cởi quần lót, móc vào tay nắm. Tôi tắm vòi trong bồn, lau người, lập cập về phòng, khăn vắt vai. Đồ lót mới nằm trên bàn. Tôi cắn đứt sợi dây đính hai chiếc tất với nhau. Len mềm, thơm. Tôi xỏ tất sạch, luồn quần lót mới. Tôi thấy khoan khoái. Tôi vật vờ tí chút trong phòng; phật phật cạp chun quần lót, đọc hướng dẫn ghim ở cửa, quy định về an toàn, giá phòng, phí ăn sáng. Quay lại bàn, tôi xỏ quần dài và mặc lại áo sơ mi đã bị hôi ở nách.

10) Chiều không tàn, như thường vẫn thế ở xứ lạ, nơi giờ phút, ngày đầu, có vẻ trì nặng, cơ hồ dài ra, chậm lại, không cùng. Nằm trên giường, tôi nhìn ánh xám xuyên qua cửa sổ. Căn phòng chớm trở tối, Đồ đạc nhòa đi, loãng ra trong ánh nhá nhem. Cái đài bán dẫn để hú họa ở một kênh đang phát nhạc rock and roll. Tôi nghe to hết cỡ và bàn chân xỏ tất, trên chăn lông, âm thầm ngoe nguẩy theo nhịp.

11) Tôi xuống ăn tối. Phòng ăn khách sạn nhỏ. Rèm cửa nặng, bằng nhung màu mận chín, đang buông, càng làm tăng cảm giác thân mật, chật chội. Bàn ăn, bài trí trang nhã, phần lớn không có người. Một phụ nữ đơn độc, tuổi đã cao, ngồi chiếm một góc. Trong khuông cửa kéo dài, tôi thấy được một phần sảnh đón của khách sạn, có màn hình ti vi đang nhấp nháy. Cái máy chắc đã bị ngắt âm, không nghe thấy tiếng động nào. Còn đâu, trong phòng ăn bao trùm một sự tĩnh lặng tuyệt đối, thỉnh thoảng lại càng được nhấn rõ hơn vì tiếng cạch dao dĩa kim loại của bà già đang ăn phía sau tôi. Xong bữa tối, tôi sang sảnh đón bên cạnh và ngồi xuống trước ti vi, đang chiếu những hình ảnh thảm họa lặng câm, khó hiểu.

12) Vắng âm thanh, hình ảnh bất lực không truyền tải nổi sự rùng rợn. Giả sử những giây cuối cùng của cuộc đời chín mươi tỷ con người đã chết, kể từ khi trái đất tồn tại, được quay rồi phát liên tục tại phòng chiếu, thì cảnh tượng, theo tôi, chẳng mấy mà gây buồn chán. Trái lại, nếu như năm giây cuối đời họ, những âm thanh đau đớn sau chót của họ, tập hợp hơi thở họ, tiếng rên la của họ, được ghi lại, rồi hòa âm trên một phim duy nhất và được công chiếu, to hết cỡ, ở phòng hòa nhạc, hoặc nhà hát lớn... Quang cảnh một sân vận động bóng đá cắt ngang suy tưởng của tôi, hai đội bóng đang khởi động trên sân. Tôi vội đứng dậy và, ngồi xổm đối diện cái máy, cố gắng bật tiếng.

13) Inter-Milan đấu với Glasgow Rangers ở vòng một tám cúp các câu lạc bộ vô địch quốc gia châu Âu. Trận đấu diễn ra ở Scotland. Muốn giành cơ hội cho trận lượt về, đội Ý khép thế trận, co lại phòng ngự. Cuộc chơi buồn tẻ. Vài pha đẹp, tuy vậy, làm tôi cảm động; có lúc tôi còn bật nhào về đằng trước, tay chống xuống đất, làm sao ghé thật sát màn hình. Phút hai mươi lăm hiệp hai, anh chàng phục vụ quầy đến nhập hội với tôi trước ti vi. Anh ta máy móc dịch ăng ten, chỉnh độ tương phản rồi mới ngồi xuống. Mười lăm phút cuối trận sôi động. Bên Scotland chuyền bóng dài, sút thẳng cánh, cố gắng mở tỷ số ở những phút cuối cùng. Khi một cú sút xa ba mươi mét bật cột dọc, tôi nín thở trao đổi ánh mắt chứa đầy ngụ ý với người phục vụ. Tôi châm thuốc và ngoái lại vì cảm nhận có người hiện diện đằng lưng. Phía sau chúng tôi, trước ngưỡng cửa, nhân viên lễ tân đang đứng đó.

14) Hôm sau, tôi tỉnh dậy sớm sủa, trải qua một ngày yên tĩnh.

15) Tôi bắt đầu rành khách sạn, hết bị lạc ngoài hành lang. Các bữa được phục vụ cách đều nhau, tôi ăn sáng thật sớm, thường là một mình dưới phòng ăn. Bữa tối cũng mình tôi, nhỉnh trước hai mươi giờ một chút. Khách chúng tôi trong khách sạn có vẻn vẹn không quá năm người. Thỉnh thoảng, ở một chỗ ngoặt cầu thang, tôi lại chạm mặt cặp người Pháp. Tôi còn ngạc nhiên, buổi nọ, thấy họ vào phòng ăn lúc tảng sáng. Họ băng ngang phòng không chào hỏi, dành cho tôi ánh mắt dửng dưng lúc lướt qua bên cạnh. Mới tinh mơ mà ngồi chưa ấm chỗ họ đã lao vào tranh luận (đó đích thị là dân Paris kỳ cựu). Họ bàn chuyện mỹ thuật, thẩm mỹ. Lập luận của họ, hoàn toàn trừu tượng, với tôi khoác một vẻ sắc bén dịu êm. Diễn đạt bằng ngôn từ trau chuốt, người đàn ông phô bày uyên bác, không thiếu hoài nghi. Người phụ nữ thì chăm chắm mỗi Kant, phết bơ lên bánh mì cho mình. Vấn đề trác tuyệt, theo tôi thấy, chỉ chia rẽ hai người họ ở vẻ ngoài mà thôi.

16) Hằng ngày, cuối buổi sáng, chị hầu phòng đến lau dọn phòng tôi. Nhường địa điểm cho chị ta, tôi xỏ áo khoác xuống tầng trệt náu mình. Tôi loanh quanh dưới sảnh, tay đút túi, cho đến lúc thấy chị kia, xách xô và chổi, tái xuất trên cái cầu thang xanh da trời. Khi ấy tôi lại leo về phòng và thấy giường đã được dọn gọn ghẽ, đồ vệ sinh xếp hoàn hảo trên giá bồn rửa.

17) Nếu có bước chân ra khỏi khách sạn, tôi cũng hiếm khi đi xa. Tôi quanh quẩn ở mấy phố lân cận. Tuy vậy, tôi phải một lần quay lại cửa hàng Standa: tôi cần sơ mi, quần lót mới thì đã bẩn. Cửa hàng sáng lựng. Tôi bước thong thả giữa các lối đi, dáng như thanh tra, thỉnh thoảng lại xoa đầu trẻ con. Tôi nấn ná trước đồ may mặc, chọn áo, sờ len áo chui cổ. Ở quầy đồ chơi, tôi mua một bộ phi tiêu.

18) Về phòng, tôi dốc túi ra, xé bao nhựa đựng món đồ chơi. Một cái đĩa đơn giản, rạch mấy đường tròn đồng tâm, kèm sáu cây phi tiêu cánh tròn, trang trí bằng lông chim. Tôi móc bia lên cửa tủ và, lui xa ra để có khoảng cách, mãn nguyện ngắm nghía.

19) Tôi tập trung cao độ lúc chơi phi tiêu. Tựa cứng vào tường, tôi nắm chặt mũi phi tiêu. Cả người tôi căng ra, mắt quắc lại. Tôi nhìn dính tâm bia với lòng quyết tâm ngùn ngụt, moi rỗng đầu - và phóng.

20) Các buổi chiều trôi qua yên ả. Có khi nào ngủ trưa, tôi tỉnh dậy quạu cọ, hàm đơ ra. Cài khuy áo khoác, tôi xuống quầy bar, vắng hoe vào giờ ấy. Hễ nhác thấy bóng tôi là người phục vụ rời ghế ngồi và, rề bước, đi trước tôi về quầy. Không cần tôi phải thốt lời nào, anh ta tỉnh bơ lắp phin vào bình, đặt lót tách trước mặt tôi. Phục vụ cà phê rồi, anh ta xê lọ đường ra tận tách của tôi, chùi tay và, lại cầm lấy báo, ra ngồi lại xuống ghế.

21) Tôi mua một tờ nhật báo hầu như hằng ngày. Tôi xem ảnh, đọc mục thời tiết, rất rõ ràng, gồm một bức vẽ cách điệu mô phỏng chuyển động của mây và bản kê nhiệt độ thấp nhất và cao nhất, ghi nhận được hoặc dự báo, trong ngày và ngày hôm sau. Tôi lướt qua cả các trang chính trị quốc tế, xem kết quả thể thao, quảng cáo phim kịch.

22) Dần dà, tôi bắt đầu kết thân với anh chàng phục vụ. Chúng tôi nghiêng đầu chào nhau mỗi lần đụng mặt ở cầu thang. Khi tôi tới uống cà phê, lúc xế chiều, chúng tôi còn hàn huyên, chúng tôi tán chuyện bóng đá, đua xe. Thiếu mất ngôn ngữ chung không làm chúng tôi nản lòng, về đạp xe chẳng hạn, cả hai thao thao bất tuyệt. Moser, anh ta bảo. Merckx, tôi lưu ý sau một hồi. Coppi, anh ta nói, Fausto Coppi. Tôi khuấy thìa trong tách cà phê, gật đầu đồng tình, trầm ngâm. Bruyère, tôi thì thào. Bruyère? anh ta hỏi lại. Đúng vậy, đúng vậy, Bruyère. Anh ta không có vẻ phục. Tôi nghĩ cuộc trò chuyện sẽ dừng lại đó, nhưng, lúc tôi sắp sửa rời quầy, níu tay tôi lại, anh ta bảo Gimondi. Van Springel, tôi đáp. Planckaert, tôi thêm. Dierieckx, Willems, Van Impe, Van Looy, de Vlaeminck, Roger de Vlaeminck và Eric, em trai. Người ta đối đáp lại kiểu gì được? Anh ta không cố. Tôi trả tiền cà phê và leo về phòng.

23) Phi tiêu cắm vào bia không chắc. Thỉnh thoảng, phập lỏng lẻo, long ra vì khúc đuôi nặng quá, chúng lại rụng xuống đất. Lần nào cũng làm tôi bực. Ngồi trên thành giường, tôi chuốt lại đầu mũi bằng lưỡi dao cạo.

24) Tôi tỉnh dậy lúc đang đêm. Trơ trọi. Bận đồ ngủ vật vờ một hồi trong phòng, tôi khoác áo choàng đi ra hành lang, chân đất, tay vươn trước mặt. Khách sạn tối om. Tôi vừa xuống cầu thang vừa nhìn quanh. Đồ đạc mang hình người, nhiều cái ghế ngó sững tôi. Mấy bóng đen và xám, có đốm mắt, lác đác, làm tôi hốt. Tôi so vai, khép cổ áo choàng. Dưới tầng trệt, mọi vật im lìm. Cửa ra vào khóa chặt về đêm, cánh đóng kín hết. Tôi lặng lẽ băng ngang sảnh và, quẹt bật lửa để tự dò đường trong bóng tối, men theo hành lang đến khu văn phòng. Ở đó, phân vân không biết đi đằng nào, tôi mở cửa kính dẫn vào bếp. Có đốm lửa bé tí của bật lửa rọi cho, tôi đi quanh căn phòng, chân không trên nền đá lạnh. Mọi thứ ngăn nắp, sạch sẽ, xếp gọn đâu ra đấy. Hai cái bàn to trống không dựng sát tường. Bồn rửa bát sáng bóng. Tôi ra đóng cửa lại sau lưng, và yên chí không có ai bám theo, khẽ hết sức mở tủ lạnh (tìm đùi gà).

25) Hôm sau, tôi cuối cùng cũng báo tin về cho Edmondsson. Tôi rời khách sạn và, ngoài phố, hỏi một người đang chạy bộ đường ra bưu điện (tôi vẫn khoái hỏi thăm những người vội vã). Anh ta trỏ nhanh hướng cho tôi và muốn tránh ra để tiếp tục đi đường của mình, nhưng, lịch thiệp chắn lối, tôi hỏi thêm cho rõ. Đến nước ấy, anh ta dừng hẳn và, bỏ công ngoái lại, với rất nhiều nhẫn nại, cho tôi mọi chỉ dẫn cần thiết. Tôi dễ dàng tìm ra. Văn phòng bưu điện hiện đại, quầy làm bằng gỗ bào nhẵn, có buồng điện thoại. Vài người đang hối hả dọc cái bàn viết, có sẵn mấy xấp mẫu khai, bút cắm bàn gắn dây xích. Tôi băng qua phòng và, ở quầy đầu tiên tới được, hỏi thăm thủ tục đánh điện tín. Tôi được đưa mẫu in. Tôi thảo một bài ngắn, ghi địa chỉ cùng số điện thoại khách sạn. Edmondsson sẽ nhận được tin tôi hôm nay luôn (tôi mong gặp lại nàng).

26) Về khách sạn, tôi dừng lấy chìa khóa và, nán lại trước quầy lễ tân, hỏi xem nhân viên trực có biết ở đâu đánh quần vợt được không. Anh ta phân vân, trả lời chắc khách sạn lớn nào đó có sân chơi, nhưng theo anh ta khả năng mùa đông thì đóng cửa. Muốn cho rõ, anh mở một quyển hướng dẫn, đeo kính lên và vừa lật trang vừa bảo tôi tốt nhất hãy ra Lido tìm hiểu. Tôi hỏi đến đó đi đường nào. Dễ thôi. Ra khỏi khách sạn, phải rẽ ngay vào (bỏ kính xuống, anh ta choãi tay trên quầy chỉ hướng cho tôi) phố đầu tiên bên phải, rồi đi thẳng tiếp đến dinh tổng trấn Venice Doges. Ở đó, tôi sẽ thấy buýt sông đưa đến tận nơi.

27) Cuối buổi chiều, tôi đang chơi phi tiêu trong phòng thì nhân viên trực quầy đến báo có người gọi điện. Tôi đi xuống và, cầm máy trên quầy lên, kéo rê dây vào núp trong góc. Ngồi xổm sát tường, tôi thì thào nói chuyện một hồi dài với Edmondsson.

28) Những buổi sau, chúng tôi lại gọi cho nhau, thường xuyên, chúng tôi nao lòng, mỗi lần, được nghe thấy nhau. Giọng chúng tôi mong manh, chung chiêng vì cảm xúc (tôi rất e dè). Nhưng chúng tôi cùng khăng khăng quan điểm riêng: Edmondsson bảo tôi về Paris, tôi thì lại đề nghị nàng đến chỗ mình.

29) Ngày của tôi, giờ đây, chia theo nhịp gọi điện của Edmondsson. Nàng gọi cho tôi ở phòng tranh mỗi khi giám đốc phải đi vắng (và, vì nàng không mất tiền liên lạc, chúng tôi cần giữ dây nói càng lâu càng tốt để tiết kiệm tối đa). Những khi chuyện trò lâu quá, mệt vì chồm hỗm cạnh máy, tôi ngồi bệt ra thảm ở sảnh vào. Edmondsson nói với tôi và tôi thấy thật dễ chịu; tôi vừa nghe vừa hút thuốc, chân xếp bằng tròn, lưng tựa vào tường. Mỗi lần tôi ngước nhìn lên, luống cuống trước ánh mắt tôi, anh chàng lễ tân làm như đang bận túi bụi sau bàn làm việc. Anh ta giở sổ, xem lại phiếu. Khi tôi mang trả máy, anh ta cười thoảng với tôi, ra điều mỏi mệt vì công việc.

30) Một hôm, đương ngồi bệt ở sảnh nói chuyện điện thoại, ống nghe kẹp giữa vai và cằm, bận rút thuốc trong bao ra, tôi thấy cặp người Pháp bước vào khách sạn. Họ dừng ở quầy lễ tân, lấy chìa khóa và, ung dung trò chuyện, đi ngang trước mặt tôi về phòng (theo tôi, họ đến Venice để gối chăn như hồi một ngàn chín trăm năm mươi chín).

31) Mỗi lần xong bữa, tôi lại vòng ra quầy bar nhặt mấy quyển tạp chí vứt vất vưởng khắp các bàn. Tôi leo về phòng và nằm trên giường xem lướt.

32) Tôi chẳng làm gì. Tôi bền bỉ chờ Edmondsson gọi điện. Tôi không rời khách sạn nữa, sợ lỡ mất lần gọi nào. Tôi thôi ngủ trưa, hết lươn khươn trong nhà tắm. Thường thường, tôi ngồi ghế ở lối vào, và đợi ngay trước mặt nhân viên lễ tân (tôi cần được cảm thấy gần Edmondsson).

33) Edmondsson ngày càng năng gọi cho tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi có cùng nhau, trên đường dây, những quãng lặng dài. Tôi thích mấy khoảnh khắc ấy. Kề ống máy, tôi căng ra nghe hơi thở, nhịp hô hấp của nàng. Khi nàng phá vỡ sự yên lặng, giọng nàng có giá.

34) Trên điện thoại, Edmondsson rất đỗi dịu hiền với tôi; nàng an ủi tôi khi tôi bảo. Nhưng nàng không hiểu được sao tôi lại không về Paris. Khi nàng đặt câu hỏi, tôi chỉ nhắc to lên: Sao anh không về Paris ấy hả? Thì đúng rồi, nàng bảo, tại sao? Có lý do nào không? Bất kỳ lý do nào tôi đưa ra được ấy? Không.

35) Cuối cùng Edmondsson đành đến tìm tôi.

36) Tôi ra ga đón nàng. Vì có mặt sớm, kiểm tra giờ đến chuyến tàu của nàng trên bảng thông tin xong, tôi rời nhà ga ra ngồi ngoài bậc thềm. Trời lạnh. Trên thềm có nhiều lắm là bốn người, ăn vận ấm áp. Bên cạnh tôi, một bà già, đâu như người Anglo-Saxon, cẩn thận cất áo len vào ba lô. Một anh lính hút thuốc, chân duỗi dài trên va li. Tôi liên tục xem giờ. Trước mười chín giờ mười bảy một chút, tôi đứng dậy hướng về phía bờ ke.

37) Tàu đến muộn hai tiếng rưỡi. Quanh tôi bỗng huyên náo hết lên, cửa bật mở, tiếng va li lộc xộc trên nền, tiếng người nói, gần như tiếng hét. Người đi trước tôi, người cắt mặt tôi. Vài người quệt vào tôi. Tôi chờ bên bờ ke, vươn thẳng, đầu nổi rõ. Vừa thoáng thấy tôi, Edmondsson đã khoát rộng tay ra hiệu bằng vợt tennis, đung đưa người tiến về phía tôi, phồng má, cười với tôi. Nàng ào tới gặp tôi. Tôi ngóng nàng. Nàng rờ mặt tôi, khen mái tóc sạch của tôi.

38) Chúng tôi hướng về lối ra, kề bên nhau, theo sau các hành khách khác; tôi xách va li cho nàng. Thỉnh thoảng, chúng tôi nhìn lén nhau, âu yếm. Chúng tôi không nói. Ngay giữa sảnh chờ, dừng lại, Edmondsson cởi khuy áo choàng của tôi và, luồn tay xuống dưới, vuốt ngực tôi. Nàng bước tiếp đầu tiên, ngoái lại và mỉm cười với tôi. Có một nốt son li ti trên răng nàng.

39) Tôi đã đặt bàn cho hai mốt giờ. Khi chúng tôi tới được nhà hàng, tuy đã mười một giờ hơn, viên giám sát, rất đon đả, không trách móc. Chúng tôi để va li và vợt dưới chân cây treo áo khoác rồi theo anh ta vào phía trong, đi sau là một bà hoài công nhét phiếu gửi đồ vào tay tôi, thậm chí còn cố giành lấy áo choàng lúc tôi cởi ra; nhưng tôi rất lẹ và, hết sức uyển chuyển, giơ áo xa khỏi tầm tay bà và cho được vào nơi yên ổn. Bà hằn học nhìn Edmondsson và bỏ phiếu lên bàn. Edmondsson ngồi xuống đối diện tôi. Chúng tôi thấy dễ chịu. Cái bàn, xếp khéo, tạo cảm giác bình yên, thoải mái. Ly mỏng, đĩa dày. Mấy loại bánh mì khác nhau, cắt lát hoặc thanh dài, bày trong giỏ.

40) Sang món tráng miệng, tôi kín đáo vơ cái áo choàng đang để trên mép ghế dài và, vẫn ngồi nguyên tại chỗ, khoác lên người, không kém phần kín đáo. Edmondsson tưởng tôi muốn ra về, nhưng đâu phải. Tôi nắm lấy tay nàng nhẹ vuốt. Cùng lúc, tay kia, với sự lẹ làng của ảo thuật gia, thò vào túi áo khoác rồi lại rút ra cùng một hộp nhỏ hình chữ nhật, đặt lên cổ tay nàng. Là một món quà. Edmondsson, bị bất ngờ, dịch tay, làm hộp rơi xuống khăn. Mắt nàng cười. Nàng nhẹ nhàng bóc giấy gói. Có giấy, giấy bên dưới giấy, giấy lụa trong hộp, bao kín cái đồng hồ đeo tay.

41) Ra khỏi nhà hàng, chúng tôi đà đận. Chúng tôi lững thững bước qua từng phố nhỏ, dừng chân trên mỗi cây cầu. Ở một quảng trường bé, có cây bao quanh, chúng tôi thấy ghế băng và ngồi xuống, đặt vợt bên cạnh. Mọi vật im ắng. Các cung điện để đèn, phía bờ đối diện, thắp sáng đêm. Con kênh tối thẫm, đen thẳm như mây. Nước, thoáng chốc chững lại, ôm lấy thềm một nhà thờ, rồi đổ dồn thành thác, lần lượt bỏ từng bậc thang ở lại.

42) Chúng tôi về khách sạn. Edmondsson, cởi đổ ngay, chỉ còn mặc sơ mi màu lam, mở phanh, nhón chân đi lại quanh phòng, bàn chải đánh răng ngậm trong miệng. Nằm trên giường, tôi lưu ý đơn giản với nàng là phía dưới bụng nàng để trần, chỗ khoảnh tam giác, còn sót quần chíp lông bò u, lông ngựa vằn. Nàng cúi xuống nhìn (và, sau một chốc, giật nhẹ lông phản đối đầy thực tầm).

43) Cùng nằm giường, chân hợp lại trong chăn, chúng tôi mở quyển tạp chí phụ nữ Edmondsson đem ở Paris sang. Tôi lật trang, và thỉnh thoảng Edmondsson bảo tôi quay ngược lại, níu tay tôi để xem một bức ảnh. Giở hú họa phần trang phục, chúng tôi bình phẩm về váy vóc, vest bộ, áo cardigan. chúng tôi đánh giá dung nhan người mẫu. Khi có cô nào tôi thấy đẹp không hợp nhãn Edmondsson, nàng nhún vai, coi thường tôi.

44) Nắng vào phòng, sáng hôm sau, khi tôi thức giấc. Phía dưới mấy tấm rèm mở hờ, dọc suốt bờ tường, ánh sáng cắt nhỏ bề mặt, vạch lên sàn những đường viền nóng bỏng. Tuy có vài vệt sáng, đôi chỗ rực hẳn lên, căn phòng, hoàn toàn im ắng, vẫn chìm trong cả mảng đầm tối. Edmondsson, cạnh tôi, đang ngủ: mặt nàng mịn; miệng nàng, vẹo đi vì gối, khẽ xếch ngược. Phía trên đầu nàng, những hạt bụi rỡ lên dưới tia nắng xéo. Tôi im lìm trở dậy mặc đồ. Trước khi ra khỏi phòng, lặng lẽ quay lại giường, tôi dém chăn cho nàng (và ngắm nàng).

45) Ánh nắng xuyên hành lang từ đầu này qua suốt đầu kia, cửa kính lóng lánh hết lên, cây xanh rạng ngời. Trời hửng rõ, tôi bước nhanh, tôi lâng lâng hạnh phúc. Trên cầu thang, tôi bắt đầu nhảy bậc, và gần như chạy khi xuống đến sảnh. Người trực quầy lễ tân ngăn lại lúc tôi đi ngang qua. Cô gái, là đi với ông phải không? ông ta hỏi. Eđmondsson ấy hả? tôi nói, nàng đẹp nhỉ? Ông kia, đuỗn ra sau quầy, trịnh trọng chỉnh kính và, nghiêng người sau bàn làm việc, chìa một quyển hộ chiếu cho tôi xem. Tôi mở ra và, đặt ngón tay vào ảnh thẻ của Edmondsson, để ông ta xác nhận đúng là chúng tôi đang nói về cùng một người.

46) Lom khom trước cửa kính, tay khum quanh mắt, tôi nhòm vào cửa hàng Standa, còn chưa mở, đấm khẽ mấy cú lên ô kính cố làm một cô bán hàng chú ý. Ngay khi một trong mấy cô rốt cuộc cũng để mắt đến tôi, tôi lễ phép chào và, trỏ đồng hồ đeo tay, nhìn cô ra ý hỏi để biết cửa hàng mở lúc mấy giờ. Sau vài lần ra dấu vô hiệu, cô ta lê bước lại gần tôi và, xòe rộng cả hai tay, cho tôi thấy chín ngón. Rồi, tiến sát hơn nữa, cả ngực lẫn bụng dán hết vào lớp kính chia cách chúng tôi tí ti, miệng gần như áp vào miệng tôi, nhả âm lả lơi: alle nove, làm nở ra một cụm hơi giữa hai người. Tôi liếc đồng hồ, tám rưỡi. Tôi rời khỏi đó, dạo quanh trong khu. Cuối cùng, tôi tìm được bóng tennis ở chỗ khác.

47) Quay về phòng, tôi khép cửa lại thật khẽ sau lưng và, để hộp bóng lên chăn lông, bò êm ru trên giường đến chỗ Edmondsson. Mắt vẫn nhắm, nàng bảo tôi nàng không ngủ và vừa kéo tôi áp lại vừa dùng vai thong thả hướng dẫn. Nàng đón tôi và, lặng lẽ, mở áo choàng cho tôi, cởi áo sơ mi của tôi. Má nàng còn ấm hơi ngủ. Tôi nhấc chăn lên và đặt mình vào thân nàng, ở trần áp da nàng, bụng ấp bụng, áo choàng trải rộng trên người chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu cử động; chúng tôi cử động chậm rãi và biết ơn nhau vì điều ấy. Về sau, chăn lật ra: cái hộp rơi xuống đất bật mở và bóng tennis văng hết ra khắp sàn.

48) Edmondsson trang điểm trước bồn rửa. Nàng đã vén một trong mấy tấm rèm lên, chèn ghế chặn lại, và ánh nắng tràn vào phòng. Tôi nằm ngửa thư giãn trên giường; tôi duỗi chân dưới một tia nắng và ngoẹo đầu ngắm mấy sợi lông. Edmondsson mỉm cười với tôi trong gương. Xong xuôi, nàng ra ngồi cạnh tôi rủ đi ăn sáng. Tôi mặc đồ và chúng tôi rời phòng. Ngoài cầu thang, bước xuống kẻ trước người sau, chúng tôi chạm mặt đôi người Pháp. Họ vừa đi qua, Edmondsson liền bảo tôi tay ấy nổi tiếng, J... d’Ormesson đấy. Rõ là chúng tôi số may, những đợt đi Ý. Mấy năm trước, ở Rome, chúng tôi đã sửng sốt thấy Ranger và Platone từ nhà hàng đi ra.

49) Trong phòng ăn khách sạn chỉ có mình chúng tôi, ngồi đối diện nhau cạnh cửa sổ. Qua rèm vải tuyn nắng chiếu cho mỏng tang, có thể thấy được chuyện gì xảy ra ngoài phố. Chúng tôi xong bữa sáng. Tay khoanh lại, hút thuốc bên tách cà phê đã hết, tôi kể là có mua hai sơ mi hiệu Benetton rồi, một màu vàng tái một xanh dương, song lại thiếu mất quần soóc. Edmondsson không nghe. Thôi được. Câu lạc bộ tennis, tôi tiếp tục, hôm trước tôi hỏi thăm qua điện thoại rồi, mở thông tầm, có thể thuê được sân không khó khăn gì. Điều tôi đề xuất, mà theo tôi là đơn giản nhất, là đến đấy trước bữa trưa. Tùy tình hình, tôi mỉm cười nói thêm, mình có thể ăn nhẹ ngay tại chỗ. Mà mình có nghe anh không đấy? tôi nói. Không, nàng không nghe. Nàng đã lôi quyển hội họa Ý trong túi ra và, mê mải đọc, vừa hích mũi vừa lật trang.

50) Chúng tôi leo về phòng và, ngồi hai bên mé giường, chẳng nói năng gì nữa. Chúng tôi nói hết với nhau rồi, chúng tôi không thuận. Edmonđsson, muốn tranh thủ trời nắng ấm, tính bát phố, dạo chơi, thăm bảo tàng. Theo nàng, chúng tôi đánh tennis cuối buổi chiều vẫn được, mà có khi còn hơn, nàng bảo, vì đỡ bị chói nắng. Trước chừng ấy thiếu nhiệt tình, tôi chẳng có gì mà nói; thôi, tôi chẳng nói gì nữa.

51) Thánh đường Saint-Marco sẫm tối. Tôi nhăn nhó theo sau Edmondsson, tay thọc sâu trong túi áo choàng, sệt đế giày trên nền đá cẩm thạch cong vểnh. Đây đó, dưới đất, tranh khảm nằm rải rác. Tôi để Edmondsson sải bước đi lên trước, về phía những bức khảm vàng và, trong lúc đợi nàng, tựa vào cột, nhìn các mái vòm trên đầu. Khi quay lại (trước đó tôi đã tìm được ghế băng để ngồi), nàng rủ tôi đi thăm kho bảo vật của nhà thờ và, giúp tôi đứng dậy, kéo tôi theo đuôi, trong gian giữa, chúng tôi trả tiền hai vé và tôi phải cúi đầu mới vào được cái nhà nguyện chật chội, thắp sáng bằng đèn điện. Mấy bức tường dựng kín tủ kính bày vũ khí, đồ gốm. Trong lồng thủy tinh, chính giữa nhà nguyện, đặt những báu vật khác, chúng tôi theo sau hai ông già đi dọc dãy tủ kính, và chốc chốc lại phải dừng vì họ liên tục đứng im trước mặt chúng tôi mà chỉ trỏ món đồ lạ nào đó cho nhau. Trong lúc họ, chúi hẳn về đằng trước, kính tháo ra, dềnh dang trước một cây nỏ (cứ như chưa thấy nỏ bao giờ vậy), tôi lách được qua và len lên trước. Tôi đi vòng quanh phòng rồi ra ngoài, đợi Edmondsson trong nhà rửa tội, dựa vào trụ tường.

52) Bên ngoài, ánh sáng làm tôi lóa mắt. Edmondsson ra chỗ tôi ở sân trước và lấy tay che nắng. Đứng cạnh nhau trước nhà thờ, mắt nheo lại, chúng tôi hỏi nhau sẽ làm gì. Edmondsson, giở lướt quyển hội họa Ý, muốn tham quan tiếp. Tôi cố gàn. Trước sự quả quyết tự tại của nàng (nàng không nghe tôi), tôi thấy rõ mình sẽ chẳng khiến được nàng đổi ý. Tôi quay về khách sạn một mình.

53) Khi Edmondsson về phòng với tôi, lúc xế chiều, tôi đang nhìn ra cửa sổ. Nàng ngồi xuống giường, và tháo giày. Người chúi ra đằng trước, nàng giải thích với tôi là đã phát hiện được ba bức họa mê hồn, rất mực đen tối, của Sebastiano del Piombo ở Gallerie dell’Accademia, rồi, không ngừng day chân, nàng hỏi tôi nghĩ sao về tác phẩm của vị danh họa. Khó nói đây. Hồi sau, vì nàng hỏi lại, tôi thú thật mình chẳng còn muốn đánh giá gì hội họa nữa. Edmondsson đứng dậy không gặng thêm. Đã cởi váy ra, nàng luc va li tìm váy thể thao. Tôi chêm thêm mình cũng chẳng muốn đánh tennis gì nữa. Edmondsson bèn mặc lại váy, nàng thấy tôi đến là rầy (mà tôi cũng chẳng có quần soóc gì nốt, tôi bảo).

54) Trước bữa tối một chút, chúng tôi ra ngoài tiếp. Edmondsson cầm tay tôi và chúng tôi bước chậm trên phố, dừng lại đọc mấy bức áp phích tường giới thiệu hòa nhạc, kịch, mấy tờ cáo phó. Một trong số ấy, giấy trắng diềm khung đen, thông báo nhẹ nhàng về cái chết của một chàng thanh niên hai mươi ba tuổi. Tôi giật tờ cáo phó xuống.

55) Chúng tôi tiếp tục tản bộ. Edmondsson nhìn tôi kiểu kỳ kỳ, và ánh mắt nàng đặt lên tôi làm tôi phiền. Tôi thân tình bảo nàng đừng nhìn nữa và, được mấy lúc, thấy đỡ hơn. Chúng tôi dừng xem quầy kính cửa hàng. Chúng tôi la cà cạnh một tiệm kim hoàn, vào một quán cà phê. Quán trang trí bằng gỗ ốp tường. Trong phòng tối, ngồi ghế nhung, mấy bà già đang ăn kem hoa quả bằng thìa dài, uống trà, sô cô la. Các bà nói êm ru. Edmondsson đã mở thực đơn trước mặt tôi. Tôi chẳng muốn ăn muốn uống gì. Cô phục vụ đứng chờ ngay cạnh bàn. Thấy nặng nề vì sự có mặt của cô ta, tôi bèn gọi bà đầm trắng - để cô ta đi quách cho xong.

56) Tôi nhìn bà đầm trắng tan chảy trước mặt. Tôi nhìn vani ngấm ngầm tan chảy bên dưới lớp sô cô la nóng. Tôi nhìn viên kem khắc trước còn tròn trịa từ từ tuôn thành những vệt trắng nâu đều đặn, quyện vào nhau. Tôi bất động nhìn chuyển động, mắt dán vào lót cốc. Tôi không cựa quậy. Tay đóng cứng trên bàn, tôi vận sức giữ sự bất động, ghìm hãm nó, nhưng cảm nhận rõ, cả trên thân mình nữa, chuyển động đang vuột đi.

57) Ra khỏi quán cà phê, chúng tôi quay về khách sạn. Tay xỏ túi áo choàng, tôi bước đi, đầu cúi, dận bước trên vỉa hè để nhấn thành phố chìm xuống nước. Mỗi lần xuống hết một cầu thang, tôi lại chụm chân kín đáo nhảy xuống đất và, đứng bên dưới chờ Edmondsson, tôi bảo nàng làm theo. Theo đà thành phố cứ mỗi thế kỷ lún thêm ba mươi xăng ti mét, tôi giải thích, tức mỗi năm ba mi li mét, tức mỗi ngày không phẩy không không tám hai mi li mét, tức mỗi giây không phẩy không không không không không không một mi li mét, tính hợp lý ra ta có thể, khi giậm mạnh chân trên vỉa hè, dự liệu góp phần nhất định vào sự lún chìm của thành phố.

58) Chúng tôi lạc đường, chúng tôi lạc lối. Edmondsson đợi tôi giữa một quảng trường nhỏ, còn tôi đi vòng quanh, xông vào từng con phố lân cận, cố nhận ra cái gì quen mắt. Vô hiệu. Chán cuộc dạo bộ không chịu kết đi cho (mặt trời thì đang lặn), chúng tôi quyết định về bằng buýt sông. Trong lúc Edmondsson mua vé dưới bến, tôi ra xem sơ đồ thành phố ở một bảng treo tường. Bên cạnh tôi, một bà di tay trên bản đồ, ngón trỏ dò mãi theo đường vạch một con phố. Bà ta làm tôi bực, tôi chẳng nhìn thấy gì. Tôi khẽ phát cho bà mấy cái vào tay.

59) Chúng tôi ăn tối ở một nhà hàng trong khu. Quay về phòng, tôi nằm vật ra giường chẳng buồn bỏ áo choàng. Một tay kê dưới gáy, tôi ung dung hút thuốc. Tôi ngó trần nhà, Edmondsson ngồi ghế đối diện tôi. Thảng hoặc, cuộc nói chuyện lúc bữa tối của chúng tôi nối lại kiểu đứt đoạn, rời rạc. Ngoài nhà hàng, khi Edmondsson nói đặt vé giường nằm, tôi đã bảo khỏi cần. Tôi không muốn về Paris. Không (tôi dứt khoát).

60) Hôm sau, tôi kiểu như không ra ngoài. Đọc Suy tưởng của Pascal (tiếc là bằng tiếng Anh, một ấn bản bỏ túi nằm trơ trên bàn ở khu quầy bar).

61) Tôi gặp Edmondsson khá thưa. Nàng hầu như chẳng ở khách sạn mấy khi. Sau bữa trưa, dùng chung dưới phòng ăn, chúng tôi ra quầy bar uống cà phê và, ngồi cạnh nhau trên ghế đôn cao, tán gẫu bâng quơ, chẳng hạn Edmondsson kể tôi nghe buổi sáng của nàng. Sau đó tôi leo lên phòng còn Edmondsson mất tăm cho đến xế chiều. Thỉnh thoảng, nàng còn ra ngoài tiếp sau bữa tối. Như thế, tối nọ, nàng đã dự một buổi hòa nhạc trong nhà thờ, biểu diễn tác phẩm Mozart và Chopin.

62) Khi chơi phi tiêu, tôi bình tâm, thư thái. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Sự trống rỗng dần dần xâm chiếm và tôi để nó thâm nhập cho đến lúc tiêu tan mọi dấu vết căng thẳng trong tâm tưởng. Thế rồi - bằng động tác chớp nhoáng - tôi phóng phi tiêu vào bia.

63) Tôi có mua một lốc giấy viết thư ngoài quầy báo và, trong phòng, ngồi bên cái bàn tròn to, vạch hai cột trên giấy. Ở cột đầu, tôi viết tên năm nước: Bỉ, Pháp, Thụy Điển, Ý và Mỹ và, bên cạnh, trong cột kia, tôi ghi lại kết quả các ván phóng tiêu. Sau vòng đầu, vòng loại, tôi tổ chức cuộc đấu giữa hai đội tuyển quốc gia đạt tổng điểm cao nhất. Trận chung kết đối đầu Bỉ và Pháp. Ngay lượt phóng đầu tiên, dân tộc tôi, hết sức tập trung, dễ dàng giành lợi thế trước đám người Pháp hậu đậu.

64) Tôi thích tranh Mondrian ở sự bất động. Không họa sĩ nào tiệm cận bất động gần tới độ ấy. Bất động không có nghĩa vắng chuyển động, mà là vắng toàn bộ viễn cảnh chuyển động, bằng với cái chết. Hội họa, nhìn chung, không bao giờ bất động. Giống như trong cờ vua, bất động của hội họa thì động. Mỗi bức tranh, uy lực bất động, là một tiềm lực chuyển động. Còn ở Mondrian, bất động là bất động. Có lẽ Edmondsson thấy Mondrian chán òm là vì thế. Tôi thì lại được ông trấn an. Tay cầm phi tiêu, tôi nhìn tấm bia treo trên cánh tủ, và thắc mắc sao tấm bia ấy lại khiến tôi nghĩ đến Edmondsson chứ không phải Jasper Johns[1].

65) Ác mộng của tôi cứng nhắc, nặng tính hình học. Kịch bản thì sơ sài, luôn ám ảnh: chẳng hạn, một cơn lốc xoáy trùm lấy tôi cuộn vào tâm, hoặc mấy đường thẳng đặt trước mắt tôi, và tôi cứ cố mãi để thay đổi kết cấu, thế đoạn này bằng đoạn kia, lao vào những chỉnh sửa không hồi kết cho chúng sáng sủa lên. Mấy ngày này, tôi chơi phi tiêu nhiều quá, thành thử về đêm, trên bề mặt giấc ngủ tôi trồi lên bóng dáng ám ảnh của những tấm bia.

66) Khi Edmondsson ở khách sạn buổi tối, xong bữa, tôi mời nàng ra bar uống tiêu vị. Đài đang phát nhạc sau quầy. Được một hồi, anh chàng phục vụ rời ghế và, không đáp lại những nụ cười mà tôi nghĩ là có thể trao được, nhân danh tình hữu hảo chúng tôi đã nuôi dưỡng khi Edmondsson chưa đến (anh phục vụ bạn tôi, hồi đầu tôi gọi như thế), cau có nghe gọi đồ và lẳng lặng phục vụ chúng tôi.

67) Một tối, tôi bảo Edmondsson ăn sớm nhỉnh hơn mọi bữa, vì lúc tám rưỡi, Inter Milan tiếp Glasgow Rangers ở trận lượt về vòng một tám cúp các câu lạc bộ vô địch quốc gia châu Âu. Mười lăm ngày trước, ở Scotland, hai đội đã có trận hòa. Xong bữa, Edmondsson cùng tôi ra sảnh chờ của khách sạn, chỗ đặt ti vi. Trận đấu bắt đầu ngay. Đội Scotland, rút về phòng ngự, chơi một lối lủng củng, lia chân triệt hạ đối thủ. Tôi ngồi cách màn hình chưa đầy mét. Edmondsson theo dõi trận đấu ở đằng sau, ngả nửa người ra đi văng. Nàng thấy tôi nhác giống một cầu thủ. Tôi phản đối (đó là một gã tóc hung lực lưỡng, mặt tàn nhang), ừ, nhang nhác, nàng bảo, ở dáng chạy. Yên nào, tôi nói; (Edmondsson biết dáng chạy của tôi chắc?). Nghỉ giữa hai hiệp, Inter Milan đã dẫn hai không. Chúng tôi leo về phòng trước khi hết trận.

68) Sáng ra, khi thức giấc, tôi nhìn ngày sắp đến như biển cả thẫm tối sau vành mắt nhắm, một biển cả mênh mông, mãi mãi lặng tờ.

69) Có khi tôi tỉnh dậy giữa khuya không mở mắt. Tôi giữ mắt nhắm và đặt tay lên tay Edmondsson. Tôi bảo nàng an ủi tôi. Giọng dịu dàng, nàng hỏi tôi muốn được an ủi chuyện gì. An ủi anh, tôi bảo. Nhưng vì chuyện gì mới được, nàng nói. An ủi anh, tôi bảo (to console, not to comfort).

70) But when I thought more deeply, and after I had found the cause for all our distress, I wanted to discover its reason, I found out there was a valid one, which consists in the natural distress of our weak and mortal condition, and so miserable, that nothing can console us, when we think it over[2] (Pascal, Suy tưởng).

71) Ngủ trưa xong, tôi không dậy ngay. Không, tôi thích chờ hơn. Xung động sớm muộn sẽ tới, cho phép tôi dịch chuyển, quên thân xác mình đi, nhẹ nhàng như với những cử chỉ mà ta không trù liệu.

72) Edmondsson muốn về Paris. Tôi thì lại tỏ ra lưỡng lự, chẳng muốn nhúc nhích.

73) Khi chúng tôi dùng bữa dưới phòng ăn khách sạn, tôi cảm nhận được ánh mắt Edmondsson trên mình. Tôi lẳng lặng ăn tiếp. Nhưng tôi muốn leo về phòng, tách mình ra. Tôi không muốn cảm thấy cái nhìn đặt vào mình nữa. Tôi không muốn bị nhìn thấy nữa.

74) Tôi hết muốn nói chuyện. Tôi khoác nguyên áo choàng trong phòng, chơi phi tiêu thâu ngày.

75) Edmondsson thấy tôi bí rị. Tôi bơ đi, cứ chơi tiếp. Nàng bảo tôi thôi, tôi chẳng đáp. Tôi phóng phi tiêu vào bia, tới rút ra. Đứng bên cửa sổ, Edmondsson ngó sững tôi. Nàng lại bảo tôi thôi lần nữa. Tôi lấy hết sức phóng phi tiêu về phía nàng, nó phập vào trán nàng. Nàng khuỵu xuống. Tôi lại gần nàng, rút phi tiêu ra (tôi run). Không hề gì đâu, tôi bảo, một vết trầy.

76) Edmondsson mất máu, tôi rê nàng ra khỏi phòng. Chúng tôi xuống lễ tân. Chúng tôi chạy khắp các hành lang, tìm bác sĩ. Tôi đặt nàng lên ghế trong sảnh khách sạn, lao ra ngoài. Nhưng đi đâu? Tôi chạy, tôi băng trên phố. Tôi dừng lại, quay bước. Khi tôi về khách sạn, nhiều người đang xúm quanh Edmondsson, nàng đã được trùm chăn lên vai. Một người khẽ bảo tôi nàng sẽ được đưa đi viện, xe cứu thương chuẩn bị tới nơi. Tôi thấy mình xuôi xuống, không muốn gặp ai nữa, tôi bước đi trong khách sạn, ra quầy bar uống whisky. Y tá rồi cũng tới. Tôi giúp Edmondsson đứng dậy, đỡ eo nàng, nàng tựa vai tôi. Chúng tôi ra phố, trèo vào xuồng. Xuồng nổ máy ngay, lao hết tốc lực giữa hai làn nước khổng lồ. Tôi ngồi phía trước, giữ mắt mở, đón gió táp thẳng vào mặt. Tôi ngoái lại và thấy Edmondsson, ngồi ghế dài, mặt bợt bạt, vai trùm chăn len đỏ và đen.

77) Edmondsson ngả người ra ghế, đắp chăn lên ngực. Nàng nằm duỗi dài, đầu vươn lên, mắt mở. Chúng tôi lướt vun vút trên dòng kênh, tránh những chiếc xuồng khác. Tôi nhìn viên y tá đang điều khiển trong cabin. Cứ đến khúc ngoặt, Edmondsson lại quặp vào ghế chặt hơn. Cánh tay nàng rơi đánh thõng ở một khúc quành rộng hơn, tay nàng ngật ra, nàng ngã xuống nền. Một y tá giúp tôi đỡ nàng dậy, chúng tôi giữ nàng ngồi bệt, lưng tựa vào ghế dài. Nàng bất tỉnh. Phải khiêng nàng khi đến được bệnh viện. Tôi đi cạnh mấy viên y tá, siết chặt tay nàng. Tôi được bảo chờ ở đó, trong hành lang.

78) Tôi ngồi đợi trên ghế băng. Hành lang vắng tanh, dài hút, trắng một màu. vắng bặt tiếng động, chỉ có mùi ether: sự xông lên của tử khí, quánh đặc, làm tôi khó ở. Tôi phục ra ghế, khép mắt lại. Thỉnh thoảng, có người vào hành lang, lướt qua tôi và đi tiếp về đầu đằng kia.

79) Tôi đứng dậy và dạo vài bước ngay trước ghế. Dần dà tôi lùi ra xa, tiến xích về cuối hành lang. Tôi đi qua cửa kính vào một sảnh hẹp, tối thui, có thang máy công vụ và cầu thang. Tôi ngồi xuống mấy bậc đầu tiên và nán lại đó, lưng tựa vào tường, cho đến khi nghe tiếng lục tục phía trên đầu. Tôi đứng dậy và leo cầu thang. Lên tầng, tôi quanh sang trái và men dọc cái hành lang dài. Hai bên tôi, tường trổ những ô cửa cao tít, Tôi dừng lại nhờ một y tá nói cho... tôi không rõ nữa. Anh ta ngó tôi lạ lùng và nhìn theo tôi. Tôi bước gấp, trèo những cầu thang khác. Lên tầng bốn, tôi ngồi xuống ghế dài, đối diện thang máy. Được một hồi, cửa tự động mở ra trước mặt tôi. Tôi vào buồng thang. Thang rất rộng, màu xám. Tôi ấn nút xuống. Cửa tự động đóng lại. Thang máy khởi động, từ từ hạ xuống. Nó dừng lại, Cửa tự động mở. Tôi bước ra và đẩy cửa kính hành lang, Edmondsson đang ở đó.

80) Chúng tôi hôn nhau trong hành lang trắng.

Chú thích:

[1]: Jasper Johns (1930-): họa sĩ, nhà điêu khắc người Mỹ. Tác phẩm Mục tiêu bốn mặt của ông thể hiện một tấm phi tiêu, phía trên có nửa dưới bốn khuôn mặt.

[2] Tiếng Anh trong nguyên bản. Nghĩa là: Nhưng khi đã ngẫm kỹ hơn và tìm ra nguyên nhân mọi nỗi khổ của chúng ta, tôi lại muốn tìm hiểu lý do của những nỗi khổ ấy, và thấy có lý do chắc chắn, thuộc về nỗi khổ tự nhiên trong thân phận mong manh và phàm trần của chúng ta, thảm thương đến chừng không có gì an ủi được ta, khi ngẫm kỹ hơn.