ÔTNÔĐVORETS ([25]) ÔPXIANIKÔP
Bạn đọc thân mến, các bạn hãy tưởng tượng một người thân hình đẫy đà, cao lớn, tuổi chừng bảy mươi, mặt hao hao giống Krưlôp, có cái nhìn sáng sủa và thông minh dưới hàng lông mày thấp, phong thái trang nghiêm, nói năng ôn tồn, dáng đi thong thả: đấy chính là Ôpxianikôp. Ông ta mặc chiếc áo xẻ vạt màu xanh rộng thùng thình, có ống tay dài, cài cúc đến tận trên cùng, cổ quàng chiếc khăn lụa màu hoa cà, đi đôi ủng đánh bóng loáng có tua viền, và nói chung nom ông ta giống một phú thương. Tay ông ta rất đẹp, mềm mại và trắng, trong lúc nói, ông ta mân mê những chiếc cúc áo ngoài của mình. Ôpxianikôp oai vệ và ít cử động, nhanh trí và lười nhác, trực tính và ương bướng, ông ta khiến tôi nhớ tới những người quý tộc trước thời Pie... Cái áo Fêriz ( [26] ) có lẽ thích hợp với ông ta. Đây là một trong những người cuối cùng của thế kỷ trước. Mọi người quanh vùng đều kính trọng ông và coi việc được làm quen với ông là một vinh dự. Các ôtnôđvorets khác chỉ còn thiếu điều cầu nguyện cho ông nữa thôi, thấy ông từ xa họ đã bỏ mũ, họ tự hào về ông. Nói chung, cho đến nay, ở nước ta thật khó mà phân biệt được người ôtnôđvorets với người mujich: tài sản của người ôtnôđvorets có khi còn kém hơn tài sản của người mujich, bê của người đó không bao giờ được ăn cái gì khác ngoài cháo bột mì đen, ngựa thì dở sống dở chết, dây thắng ngựa thì làm bằng thừng.
Ôpxianikôp là một ngoại lệ vượt ra ngoài quy tắc chung, tuy không nổi tiếng là người giàu có. Ông ta và vợ ở trong ngôi nhà nhỏ ngăn nắp, ấm cúng, nuôi mấy người đầy tớ, cho họ mặc kiểu Nga và gọi họ là người làm. Người làm của ông ta còn làm ruộng nữa. Ông ta không làm ra bộ ta là quý tộc, không đóng vai điền chủ, như người ta thường nói, không bao giờ "tự quên mình", không bao giờ ngồi xuống ngay khi mới được mời lần đầu, và khi có khách mới vào thì thế nào ông ta cũng đứng lên, nhưng đứng lên với vẻ đường hoàng, vừa niềm nở vừa trang trọng đến nỗi khách bất giác cúi rạp xuống chào ông ta. Ôpxianikôp theo phong tục cổ, không phải vì mê tín (tính tình ông ta khá tự do), mà là do thói quen. Chẳng hạn, ông ta không thích xe có lò xo, vì ông thấy xe lò xo không giống xe thời xưa, và ông ta thường đi xe đrôjki ( [27] ) hay xe tải nhỏ, đẹp có đệm da; và ông tự tay điều khiển con ngựa hồng rất hay của mình (ông ta chỉ nuôi toàn ngựa hồng). Người đánh xe, một gã trẻ tuổi, má đỏ au, tóc húi bằng trước trán, mặc áo bành tô và đội mũ lông cừu thấp, lưng thắt dây da, kính cẩn ngồi cạnh ông ta. Ôpxianikôp bao giờ cũng ngủ sau bữa ăn trưa, thứ bẩy thì đi nhà tắm, chỉ đọc toàn sách kinh (lúc đó ông ta trang nghiêm đeo đôi kính gọng bạc lên mũi), ngủ sớm và dậy sớm. Nhưng ông ta không để râu và tóc thì húi theo kiểu Đức. Ông ta tiếp khách rất dịu dàng và thân mật, nhưng không cúi chào họ, không rối rít, không thết họ đủ mọi thứ quả khô và thức ăn muối. "Mình ơi! - ông ta nói chậm rãi, không đứng lên và hơi quay đầu về phía vợ - Có cái gì đem lên mời các ông xơi". Ông ta coi việc bán lúa mì là một tội lớn, vì đấy là món quà Chúa ban cho. Năm 40, mọi nơi đều đói và vật giá đắt kinh khủng, ông ta phân phát tất cả thóc dự trữ của mình cho các điền chủ và nông dân quanh vùng. Năm sau, họ mang sản vật đến trả nợ ông với lòng biết ơn. Những người láng giềng của Ôpxianikôp thường chạy đến nhờ ông phân xử, dàn hòa họ với nhau, và hầu như bao giờ cũng nghe theo sự phân xử của ông, nghe lời khuyên của ông.
Nhờ ông, nhiều người đã giải quyết dứt khoát được những cuộc tranh chấp về địa giới... Nhưng sau hai ba lần va chạm với các điền chủ, ông tuyên bố từ bỏ việc làm trung gian cho các bà các cô. Ông ta không thể chịu nổi sự hấp tấp, sự cuống quít lo sợ, sự ba hoa của đàn bà và "sự náo động". Có lần, nhà ông bị bén lửa. Một người làm cuống cuồng chạy đến tìm ông, la to: "Cháy! Cháy" - "Này, có gì mà anh gào tướng lên như thế?" - Ôpxianikôp bình tĩnh nói. - Đưa cho tôi cái mũ và cây can". Ông ta thích tự mình tập dượt ngựa. Có lần, một con bitiúc ( [28] ) bất kham đưa ông lao vùn vụt xuống một cái khe. "Này, thôi, thôi, chú ngựa giống non, chú sẽ toi mạng mất thôi" - Ôpxianikôp khiển trách nó một cách hiền hậu và lát sau ông đã lao xuống khe cùng với chiếc xe đrôjki , cả thằng bé ngồi phía sau và con ngựa cũng chịu chung số phận. May thay, dưới đáy khe có cát ùn thành đống. Không ai bị dập thương, chỉ có con ngựa bị trẹo chân. "Đấy, mày thấy không, ta đã bảo mà" - Ôpxianikôp nói tiếp bằng giọng điềm tĩnh và đứng lên khỏi mặt đất.
Ông đã tìm được người vợ xứng đáng với mình: Tatiana Ilinitsna Ôpxianikôva là một người đàn bà tầm vóc cao, trang nghiêm và trầm lặng, lúc nào cũng trùm chiếc khăn lụa màu nâu trên đầu. Bà nom có vẻ lạnh lùng, tuy không ai phàn nàn về sự nghiêm khắc của bà, mà trái lại, nhiều người nghèo gọi bà là mẹ và ân nhân. Những đường nét đều đặn trên mặt, cặp mắt to thẫm màu, đôi môi mỏng vẫn còn cho thấy hồi xưa bà có sắc đẹp lừng lẫy một thời. Vợ chồng Ôpxianikôp không có con.
Tôi quen biết ông ở nhà Rađilôp, và hai ngày sau tôi đến thăm ông. Ông có nhà. Ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn bằng da và đọc sự tích các thánh. Con mèo xám nằm trên vai ông, khẽ gừ gừ Như thường lệ, ông tiếp tôi một cách dịu dàng và đường bệ. Chúng tôi nói chuyện.
- Luka Pêtơrôtvits này, ông nói thực đi nhé - Tôi hỏi, nhân câu chuyện - Có phải hồi xưa, hồi ông còn trai trẻ, mọi cái đều khá hơn không?
- Có cái thì khá hơn thật đấy. - Ôpxianikôp đáp - Chúng tôi sống yên tĩnh hơn, phong lưu hơn, đúng thế... Nhưng dù sao bây giờ vẫn hơn thời trước, và con cái ông sẽ còn sống khá hơn bây giờ, nhờ ơn Chúa.
- Thế mà tôi tưởng ông sẽ ca ngợi thời trước, Luka Pêtôrôvits ạ.
- Không, tôi chẳng có lý do gì đặc biệt để ca ngợi thời trước. Cứ lấy ví dụ như thế này chẳng hạn: bây giờ ông là một điền chủ, cũng như ông của ông trước đây, nhưng uy quyền của ông sẽ không được như trước! Và chính bản thân ông cũng không phải là con người như thời ấy. Ngay bây giờ, chúng tôi vẫn bị những kẻ quyền thế khác chèn ép, và có lẽ không thể khác được. Cứ xay lại cám may ra sẽ được bột. Không, bây giờ tôi không thấy những cái mà hồi trai trẻ tôi đã thấy rất nhiều.
- Cái gì chẳng hạn?
- À, thế thì tôi lại xin nói về ông của ông chẳng hạn. Một người có nhiều quyền thế! Ông cụ bắt nạt anh em chúng tôi, có lẽ ông cũng biết đấy, ông không thể không biết đất của ông được... dải đất hình chiếc nêm chạy từ Tseplưghin đến Malina ấy mà... Bây giờ ông trồng lúa mạch... Nhưng chính ra nó là đất của chúng tôi, tất cả khu đất ấy vốn là của chúng tôi. Ông của ông đã chiếm chỗ đất ấy. Ông ấy đi ngựa đến, chỉ tay và nói: "Chỗ đất này là của ta!" - thế là ông ấy chiếm phăng luôn. Bố tôi - cầu cho cụ yên vui trên thiên đàng - bố tôi là người ưa chuộng lẽ công bằng, và nóng tính nữa, bố tôi không chịu nổi, mà ai là người vui lòng chịu mất tài sản của mình kia chứ, thế là ông cụ đâm đơn ra tòa. Có một mình bố tôi kiện thôi, những người khác không dám theo, họ sợ. Thế rồi có người báo cho ông của ông rằng Piôtr Ôpxianikôp kiện ngài về việc chiếm đoạt ruộng đất... ông của ông lập tức sai tên quản chó Bans dẫn một bọn đến bắt bố tôi và giải về đằng nhà bên ấy. Hồi ấy tôi còn bé, tôi đi chân đất chạy theo bố. Rồi sao?... Bố tôi bị giải đến dưới cửa sổ nhà ông và bị đánh đòn. Còn ông của ông đứng trên bao lơn nhìn; bà của ông ngồi dưới cửa sổ và cũng xem bọn chúng đánh bố tôi. Bố tôi kêu la: "Bà Marya Vaxiliepna, bà xin hộ tôi với chứ, ít ra bà cũng nên thương người một chút mới phải!" Nhưng bà ta chỉ thản nhiên nhổm lên xem. Thế rồi họ đã ép bố tôi phải cam kết từ bỏ khu đất của mình và còn bắt bố tôi phải cảm ơn vì đã được tha chết. Từ bấy đến nay, chỗ đất ấy vẫn là của gia đình bên ông. Ông hãy đi hỏi nông dân của ông xem khu đất ấy tên là gì? Nó được gọi là cánh đồng gậy gộc, vì đã chiếm được bằng gậy gộc. Bởi thế, những con người nhỏ bé chúng tôi không lấy gì làm luyến tiếc trật tự cũ cho lắm.
Tôi không biết trả lời Ôpxianikôp ra sao, và không dám nhìn vào mặt ông ta.
- Hồi ấy chúng tôi lại còn có một người láng giềng khác tên là Kômôp Xtêpan Nictôpôliônưts. Ông ta làm tình làm tội bố tôi không còn thiếu nước gì nữa. Ông ta nghiện rượu và thích thết khách. Hễ ông ta đã làm một ngụm và nói câu tiếng Pháp "xe bồng" ( [29] ), rồi cơn thèm rượu bốc lên là khốn với ông ta đấy. Ông ta sẽ cho người đi mời tất cả những người láng giềng đến nhà. Chiếc xe ba ngựa của ông ta đã sửa soạn sẵn, không đến là ông ta lập tức lên xe xộc tới nhà, con người đến là kì lạ! Lúc tỉnh táo, ông ta không hề nói dóc, ấy thế mà hễ rượu vào là ông ta bắt đầu kể rằng ở Pite ông ta có ba ngôi nhà tại phố Fôntanka: một ngôi nhà quét vôi đỏ có một ống khói, một ngôi nhà quét màu vàng có hai ống khói, còn ngôi nhà thứ ba quét vôi xanh thì không có ống khói nào cả; và kể rằng ông ta có ba con trai (nhưng ông ta chưa bao giờ lấy vợ): một con ở bộ binh, một con ở kỵ binh, còn con thứ ba thì sống tự do... ông ta còn nói rằng mỗi con ông ở một nhà. Con cả ông thường được các đô đốc đến thăm, con thứ hai thường có các vị tướng đến nhà, còn khách của con thứ ba toàn là người Anh. Thế rồi ông ta đứng lên và nói: "Chúc sức khỏe con trai cả tôi, nó là đứa con đáng trọng nhất của tôi - nói xong là khóc, kẻ nào dám bài bác thì thật là lôi thôi to. "Ta sẽ bắn chết và sẽ không cho chôn...", ông ta nói. Có khi ông ta chồm lên và hét: "Nhảy đi, hỡi các con chiên của Chúa, nhảy đi cho vui và để an ủi ta!". Thế là anh cứ việc mà nhảy, nhảy đến chết thì thôi, nhưng vẫn phải nhảy. Ông ta hành hạ bọn thiếu nữ con các nông nô của mình mới tội làm sao. Nhiều khi họ phải hát đồng ca thâu đêm suốt sáng, và cô nào lên được giọng cao nhất thì sẽ được thưởng. Rồi đến khi họ mệt quá không hát được nữa thì ông ta gục mặt vào hai bàn tay và kêu lên một cách đau xót: "Trời ơi, tôi là kẻ tứ cố vô thân! Người ta ruồng bỏ tôi, tội nghiệp thân tôi!" Những người coi ngựa lập tức thúc giục các cô gái hát to nữa lên. Bố tôi vốn được ông ta ưa thích: ông ta sẽ ra lệnh cho bố tôi làm gì đây? Thật suýt nữa thì ông ta đã đẩy bố tôi xuống mồ. Và có lẽ ông ta sẽ đẩy bố tôi xuống mồ thật, nhưng may thay, chính ông ta lại ngoẻo trước: ông ta trèo lên chuồng chim bồ câu lúc đang say rượu, và ngã lộn xuống... Đó, chúng tôi có những người láng giềng như thế đấy!
- Thời đại đã đổi khác biết bao! - Tôi nhận xét.
- Đúng, đúng - Ôpxianikôp xác nhận - Quả thực là thời xưa quý tộc sống xa hoa hơn. Còn các quan lớn thì khỏi phải nói. Ở Matxcơva, tôi đã biết họ rồi. Nghe nói là bây giờ họ đều về đấy cả.
- Ông đã từng đến Matxcơva rồi à?
- Vâng, lâu rồi, lâu lắm rồi. Năm nay tôi đã bẩy mươi hai, mà tôi ra Matxcơva năm mười sáu tuổi.
Ôpxianikôp thở dài.
- Ông đã gặp những quan chức lớn nào ở đấy.
- Tôi đã thấy nhiều ông quan to, và bất cứ người nào cũng có thể nhìn thấy họ. Cuộc sống của họ phơi bày ra trước mắt mọi người, phú quý tột bậc. Duy có bá tước Alecxây Grigôriêvits Orlôp Tsemenxki đã quá cố là không ai bì kịp. Tôi thường gặp bá tước luôn; chú tôi là quản gia của bá tước. Bá tước sống ở cổng Kaluga, khu Sabôlôpka. Đấy mới thật là một vị đại quan! Tướng mạo uy nghi, phong độ niềm nở trang nhã, thật khó mà tưởng tượng được người nào hơn thế và không thể tả lại được. Chỉ riêng tầm vóc ngài cũng đã trang trọng rồi, cả sức lực, cả cái nhìn của ngài nữa. Khi chưa biết ngài thì ta không dám đến nhà ngài, ta sợ, ta cảm thấy rụt rè. Nhưng đã đến nhà ngài thì ta cảm thấy như được mặt trời sưởi ấm, và ta vui hẳn lên. Ngài cho phép bất cứ người nào cũng có thể đến gặp ngài, ngài vui lòng tiếp tất cả mọi người. Khi đua ngựa, ngài tự điều khiển ngựa và ai muốn đua với ngài cũng được. Ngài không bao giờ vượt đối thủ ngay, không làm người ta tức giận, không chèn người ta, mà sát đến đích ngài mới vượt lên. Và rất mực dịu dàng, ngài an ủi đối thủ, khen ngựa của người đó. Ngài nuôi những con bồ câu nhào lộn loại nhất. Đôi khi ngài ra sân, ngồi vào chiếc ghế bành và ra lệnh thả bồ câu bay lên. Còn xung quanh, trên các mái nhà, có những người cầm súng phòng khi diều hâu đến thì bắn. Dưới chân bá tước có để các chậu bạc đựng nước, ngài nhìn xuống nước xem chim. Hàng trăm người nghèo khổ, cùng khốn được ngài cho bánh ăn... và ngài ban phát cho họ bao nhiêu tiền! Thế nhưng khi ngài nổi giận thì thật như sấm sét, sợ lắm, nhưng không có gì đáng khóc cả; ngài mỉm cười ngay thôi mà. Ngài thết tiệc thì cả Matxcơva say sưa! Ngài tài trí tuyệt vời! Ngài đã từng đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ cơ mà. Ngài cũng thích môn vật. Các đô vật từ Tula, từ Kharkôp, từ Tambôp, từ khắp nới được đưa đến thi tài với ngài. Người nào thắng được ngài thì ngài ban thưởng rất hậu và hôn môi người đó... Hồi tôi ở Matxcơva, có lần ngài mở một cuộc hội săn chưa từng thấy ở nước Nga: tất cả những người đi săn trong vương quốc được mời tới vào một ngày đã định, cách ba tháng sau. Thế rồi người ta đổ đến, đem theo chó, thợ săn. Đúng là một đạo quân, một đạo quân thật sự! Thoạt tiên họ được chén thoả thích, rồi bắt đầu khởi hành. Người đến đông nghịt!... Và ông có biết thế nào không?... Con chó của ông nội ông vượt tất cả các con khác.
- Con Milôvitka phải không? - Tôi hỏi.
- Milôvitka, Milôvitka... Thế rồi bá tước hỏi ông cụ: "Bán cho tôi con chó của ông nhé, ông muốn lấy bao nhiêu thì lấy". Ông cụ nói: "Thưa bá tước không ạ, tôi không phải là lái buôn: vật tồi vô ích thì tôi không bán, còn nếu là vì danh dự thì tôi có thể nhường vợ tôi được, nhưng không bao giờ tôi nhường Milôvitka... Thà tôi tự nộp mình làm tù binh cho bá tước còn hơn". Alecxây Grigôriêvits khen: "Tôi mến yêu ông" - bá tước nói. Ông của ông cho con chó trở về bằng xe ngựa. Khi Milôvitka chết, ông cụ cho chôn trong vườn, có kèn trống hẳn hoi: con chó cái ấy được chôn cất tử tế, trên mộ dựng tấm bia đá.
- Thì Alêcxây Grigôriêvits có xúc phạm đến ai bao giờ đâu - Tôi nói.
- Ấy, sự đời bao giờ cũng thế, kẻ thiếu bản lĩnh thì lại hay lên mặt.
- Thế còn gã Bausơ mà ông vừa nói đến là người thế nào - Tôi hỏi sau một lúc im lặng.
- Ông có nghe nói về Milôvitka thì sao lại không biết về Bausơ nhỉ? Đấy là người chịu trách nhiệm chính về việc trông nom và luyện chó của ông nội ông. Ông nội ông yêu y không kém gì Milôvitka. Y là người táo tợn và bất kể ông cụ ra lệnh gì, y cũng thi hành tức thì, dù có phải nằm lên lưỡi dao nhọn y cũng không từ. Có khi y bỗng dở chứng, y xuống ngựa, nằm xuống đất... Hễ chó không nghe thấy tiếng y nữa thì thôi xong! Chúng không bám theo vết con mồi vừa chạy qua nữa, muốn nhử gì thì nhử, chúng cũng không xông lên nữa. Chà, thế là ông nội ông nổi trận lôi đình! "Ta mà không treo cổ cái thằng vô tích sự ấy lên thì ta cứ chết quách đi cho rồi! Ta sẽ lột xác thằng phản Chúa ấy, lộn đằng trong ra ngoài! Ta sẽ kéo chân nó qua cổ họng nó, quân sát nhân ấy!" Rút cục là ông cụ đến hỏi xem y cần gì, tại sao y không hò chó nữa? Những lúc ấy, Bausơ thường đòi rượu vang, uống xong y nhổm dậy và lại cất tiếng hò, điều khiển chó hết sức tài tình.
- Hình như ông cũng thích đi săn phải không, Luka Pêtơrôvits?
- Kể thì cũng thích... đúng thế, nhưng không phải bây giờ, bây giờ thời của tôi đã qua rồi, thời trai trẻ kia... ông biết đấy, do địa vị của tôi, cái trò giải trí đó có điều không tiện. Anh em chúng tôi không nên theo đòi những người quý tộc. Đúng vậy, trong bọn chúng tôi, đôi khi cũng có kẻ nghiện rượu và bất tài giao du với các ông quý tộc... Nhưng nào có sung sướng gì cho cam?... Chỉ tự làm nhục mình. Được người ta cho một con ngựa cà khổ, hay vấp ngã, cứ là bị người ta tát tai, hất mũ xuống đất luôn! Có khi người ta vờ quật roi vào ngựa, nhưng lại quật vào kẻ đó. Vậy mà kẻ đó vẫn phải cười và làm cho những người khác cũng cười. Không, tôi xin nói với ông như thế này: địa vị càng nhỏ thì càng phải giữ mình cho nghiêm không thì chỉ tự mình bôi nhọ mình.
- Đúng thế - Ôpxianikôp thở dài, nói tiếp - Từ thuở tôi ra đời đến nay đã bao nhiêu lần vật đổi sao dời, thời đại ngày nay đã khác rồi. Đặc biệt là trong giới quý tộc, tôi thấy có sự thay đổi lớn. Quý tộc nhỏ ở địa phương thì hoặc là đi làm viên chức, hoặc là không còn ngồi yên vị tại chỗ nữa. Những người quý tộc cỡ lớn hơn thì không còn nhận ra họ được nữa. Tôi đã quan sát kỹ nhiều người quý tộc lớn trong dịp phân chia địa giới. Và tôi phải nói với ông: nhìn họ tôi sung sướng trong lòng: họ hồ hởi, lễ độ. Duy có điều này làm tôi ngạc nhiên: họ đã học được đủ mọi thứ, nói năng bùi tai đến nỗi nghe mà cảm kích, vậy mà họ chẳng nghĩ ra được một việc làm gì nên hồn, thậm chí họ không cảm thấy lợi ích của chính họ. Gã nông nô làm quản lý cho họ muốn uốn họ theo chiều nào cũng được, như uốn một cái ách cổ ngựa. Chắc ông cũng biết Kôrôlép Alêcxanđr Vlađimirôvits chứ? Ông ta lại không là quý tộc sao? Đẹp trai, giàu có, đã qua các trường "cao học", hình như cũng đã từng ra nước ngoài, nói năng lưu loát, nhã nhặn, bắt tay tất cả chúng tôi. Ông có biết ông ta không... Thế thì nghe tôi kể đây này. Tuần trước, chúng tôi đến Bêrêzôpka theo lời mời của người trọng tài ( [30] ) là Nikifo Ilits. Nikifo Ilits
nói với chúng tôi: "Thưa các vị, cần phải phân rõ địa giới. Thực là nhục, vùng ta đi sau tất cả các vùng khác, chúng ta hãy bắt tay vào việc đi". Thế là chúng tôi bắt tay vào việc. Những cuộc bàn bạc, tranh cãi bắt đầu, đó là chuyện thường. Người được uỷ nhiệm của chúng tôi bắt đầu đề ra yêu sách. Nhưng Ôpsiunikôp Porfiri làm dữ trước tiên... Mà hắn làm dữ vì lẽ gì kia chứ? Bản thân gã không có một tấc đất: gã được anh gã uỷ quyền đến đây. Gã quát tháo: "Không! Các người không bịp nổi tôi đâu. Không, các người gặp phải tôi là không ổn rồi! Đem địa đồ lại đây? Hãy trao đứa đo đất cho tôi, đưa thằng bán Chúa đến đây!" - "Nhưng rút cục thì anh đòi hỏi gì mới được chứ!?" - "Ôi chà? Ngốc ơi là ngốc! Thế anh tưởng tôi sẽ nói ngay cho anh biết đòi hỏi của tôi ư?... Không, anh hãy mang địa đồ lại đây, thế đấy?" Rồi gã đấm tay xuống các tấm địa đồ. Marfa Đmitơriepna tức lắm. Bà ta thét lên: "Sao anh dám làm nhục thanh danh tôi!' Gã nói: "Tôi cũng không mong con ngựa cái nâu của tôi có được cái thanh danh như của bà". Người ta cưỡng bức đổ rượu mạnh cho gã say mèm. Dẹp yên được gã lại đến những đứa khác làm loạn. Còn Kôrôlep Alêcxanđr Vlađimirôvits thân mến của tôi ngồi trong một góc, thỉnh thoảng lại gặm cái cán can và lắc đầu. Tôi ngượng tái người, chỉ muốn chuồn đi cho rồi. Ông ta sẽ nghĩ gì về chúng tôi? Kìa, Alêcxanđr Vlađimirôvits của tôi đã đứng lên, tỏ ý muốn nói. Người trọng tài lính quýnh, tuyên bố: "Thưa các vị, Alêcxanđr Vlađimirôvits muốn ngỏ lời với chúng ta". Và không thể không khen ngợi những người quý tộc: tất cả đều lập tức im tiếng. Thế là Alêcxanđr Vlađimirôvits bắt đầu nói, đại ý là: hình như chúng ta đã quên rằng chúng ta họp nhau ở đây để làm gì: tuy việc phân định địa giới cố nhiên có lợi cho các chủ đất, nhưng thực chất, người ta làm việc đó cốt là để cho người nông dân dễ sống hơn, để cho người nông dân làm tròn được nghĩa vụ của mình. Chứ như bây giờ thì chính người nông dân cũng không biết nổi mình phải làm chỗ đất nào và có khi cày ở nơi cách xa ruộng mình tới năm dặm đường, mà không thể bắt vạ người đó được. Rồi Alêcxanđr Vlađimrôvits nói rằng người địa chủ không quan tâm đến phúc lợi của nông dân là có tội, và xét cho cùng lợi ích của nông dân và lợi ích của chúng ta là thống nhất: cái gì tốt cho họ thì cũng tốt cho chúng ta, cái gì hại cho họ thì cũng hại cho chúng ta... Vì vậy, không thỏa thuận với nhau về những chuyện lặt vặt thì thật là tội lỗi và phi lý. Ông ấy cứ thế nói thao thao bất tuyệt... Và nói mới hay làm sao? Thật là rung động lòng người...Những người quý tộc thì ai nấy đều tiu nghỉu. Còn tôi thú thực là suýt ứa nước mắt. Của đáng tội, trong các sách cổ cũng chưa từng có những lời lẽ hay như thế... Thế rồi rút cục ra sao? Chính ông ấy không chịu nhường bốn đêxiatin đầm lầy có rêu và cũng không muốn bán. Ông ấy bảo: "Tôi sẽ cho người của tôi làm khô đầm lầy ấy và sẽ xây dựng ở đó một xưởng làm dạ, sản xuất theo kỹ thuật mới. Tôi đã chọn chỗ ấy: tôi có những ý định riêng...". Nếu đúng như thế thì còn tạm được, nhưng thực ra chỉ tại Karaxikôp An tôn, gã láng giềng của Alêcxanđr Valađimirôvits, đã tiếc tiền không nộp cho viên quản lý của ông ta một trăm rúp tiền giấy mà thôi. Thế là chúng tôi ra về, chẳng làm được việc gì. Còn Alêcxanđr Vlađimirôvits thì đến giờ vẫn cho mình là đúng và vẫn nói về xưởng làm dạ, có điều là ông ta không bắt tay vào việc làm khô đầm lầy.
- Thế trong khu điền trang của ông ta thì ông ta làm ăn thế nào?
- Ông ấy đưa ra toàn cái mới. Nông dân không ưa, nhưng chẳng cần gì phải nghe họ. Alêcxanđr Vlađimiarôvits làm rất hay.
- Thế là thế nào, bác Luka Pêtôrơvits? Tôi cứ tưởng bác vẫn ưa thích thời xưa kia đấy.
- Tôi thì lại khác. Tôi không phải là quý tộc, cũng không phải là địa chủ. Sản nghiệp của tôi như thế nào?... Và tôi cũng không biết làm cách nào khác. Tôi cố gắng hành động theo lẽ công bằng và theo luật pháp, và cũng cảm tạ Chúa đã cho tôi được như thế. Các ông chủ trẻ không ưa trật tự trước kia: tôi cho rằng đó là điều đáng khen... Đã đến lúc phải biết nghĩ. Duy có một điều đáng buồn là các ông chủ trẻ khôn ngoan quá. Họ sử dụng người nông dân như con rối: xoay chiều này, lật chiều kia, làm gẫy rồi quẳng đi. Cả tên quản gia là một gã nông nô, hay tên quản lý (thường là một người Đức) cũng lại vồ lấy người nông dân như con thú vồ mồi. Mà không có lấy một ông chủ trẻ nào nêu gương cho thấy cần phải quản lý công việc như thế nào. Rút cục rồi ra sao? Chẳng lẽ cho đến ngày nhắm mắt tôi cũng không được thấy trật tự mới ư? Thế là thế nào nhỉ? Cái cũ đã chết, còn cái mới chưa ra đời!
Tôi không biết trả lời Ôpxianikôp ra sao. Ông ta nhìn quanh; nhích lại gần tôi và hạ giọng nói tiếp:
- Ông có nghe nói về Vaxili Nikôlaits Liubôzvônôp không?
- Không, tôi chưa hề nghe nói đến người ấy.
- Ông hãy làm ơn giải thích cho tôi rõ những chuyện kỳ lạ như thế là thế nào? Tôi không còn hiểu ra sao nữa. Tôi đã được nghe nông dân của ông ấy kể chuyện, nhưng tôi vẫn không thể hiểu rõ gì hơn qua những câu chuyện của họ. Ông biết chứ, ông ta còn trẻ, mới được hưởng gia tài sau khi mẹ chết cách đây ít lâu. Thế rồi ông ta về đất thế tập của mình. Nông dân đổ đến xem ông chủ. Vaxili Nikôlaits ra gặp họ. Nông dân thấy lạ quá: ông chủ mặc quần vải bông như gã xà ích, đi ủng có viền; chiếc sơmi đỏ và áo kafơtan cũng là áo xà ích; râu để mọc lờm xờm, đầu đội chiếc mũ nhỏ xíu đến kỳ quặc và khuôn mặt cũng kỳ quặc không kém: say không rõ say, tỉnh không ra tỉnh. Ông ta nói: "Chào anh em! Chúa phù hộ anh em". Nông dân rạp xuống chào ông, nhưng không ai nói gì: họ e sợ, ông biết đấy. Chính ông ta dường như cũng rụt rè. Ông ta nói với họ: "Tôi là người Nga, các anh cũng là người Nga. Tôi yêu mến tất cả những gì là Nga...tâm hồn tôi là một tâm hồn Nga, dòng máu cũng là máu Nga..." Thế rồi đột nhiên ông ta ra lệnh: "Nào, anh em, hát lên một bài dân ca Nga!" Cánh nông dân bủn rủn cả người sửng sốt bàng hoàng. Một gã mạnh bạo đã toan cất tiếng hát, nhưng lại ngồi thụp xuống, nấp sau lưng những người khác. Điều đáng ngạc nhiên chính là ở chỗ này, đôi khi ở nước ta có những địa chủ như thế, ngang tàng, ăn chơi bạt tử, đúng thế. Họ mặc theo lối xà ích, họ khiêu vũ chơi ghi ta, hát và uống rượu với gia nhân, chè chén với nông dân. Thế nhưng ông Vaxili Nikôlaits này thì không khác gì một thiếu nữ: lúc nào cũng đọc đọc viết viết, không thì lại hát những bài tụng ca, nhưng chẳng chuyện trò với ai, lẩn tránh mọi người, thơ thẩn dạo chơi một mình trong vườn, như có điều gì chán ngán hay buồn rầu. Người quản gia cũ lúc đầu hoảng quá: trước khi Vaxili Nikôlaits đến, y chạy khắp các nhà nông dân, thăm hỏi tất cả mọi người. Rõ ràng là con mèo biết nó đã chén miếng thịt của ai? Nông dân thì hy vọng, thầm nghĩ: "Đừng giở trò vô ích, chú em ạ! Phen này rồi chú mày sẽ bị lôi cổ ra, chú bồ câu nhỏ ạ? Rồi chú mày sẽ tha hồ nhảy cỡn lên, ai bảo ăn không của người khác cho lắm vào..." Nhưng sự thể đâm ra lại khác, biết trình bày với ông làm sao đây? Đến trời cũng chẳng hiểu được! Vaxili Nikôlaits gọi y đến và vừa nói với y vừa đỏ mặt lên và thở hổn hển: "Anh hãy đối xử công bằng với mọi người trong địa hạt của tôi, đừng chèn ép ai cả, nghe chưa?". Rồi từ đó đến nay, ông ta không đòi hắn tới lần nào. Ông ta sống trên đất của mình như người khác lạ. Thế rồi tên quản gia đã hoàn hồn, còn nông dân thì không dám bén mảng đến gặp ông ta: họ sợ. Lại còn điều đáng ngạc nhiên này nữa: ông chủ chào hỏi họ, niềm nở với họ, vậy mà họ vẫn sợ, đói mà không dám kêu. Sao lại quái gở thế, thưa ông?... Hay tôi về già đâm ra đần độn thì không hiểu.
Tôi trả lời Ôpxianikôp rằng có lẽ ông Liubôzvonop ốm.
- Ốm đau gì? Béo tròn béo trục, và mặt thì tròn xoay, tuy còn là trẻ... Nhưng cũng chả biết đâu được! (Và Ôpxianikôp thở dài đánh thượt một tiếng).
- Thôi, mặc các ông quý tộc - Tôi khơi mào - Bác có thể cho tôi biết những gì về giới ôtnôđvorets , bác Luka Pêtơrôvits.
- Không, về chuyện đó thì xin ông miễn cho tôi khỏi phải nói đến - ông ta vội vã thốt lên - thực ra thì... tôi cũng muốn kể ông nghe... nhưng thôi! (Ôpxianikôp khoát tay). Ta uống trà với nhau thì hơn... Dân mujich bao giờ cũng là dân mujich. Nhưng thực tình mà nói thì chúng tôi phải làm gì kia chứ?
Ông ta im lặng. Người nhà đưa trà lên. Tatiana Ilinitsna đứng lên và ngồi gần chúng tôi hơn. Suốt buổi tối, bà ta đã mấy lần đi ra rồi lại trở vào, đi lạii êm như ru, không một tiếng động. Bầu không khí im lặng bao trùm trong phòng. Ôpxianikôp nghiêm trang và thong thả uống hết chén trà này đến chén khác.
- Hôm nay Mitia đến thăm chúng ta - Tatiana Ilinitsna nói thấp giọng.
Ôpxianikôp chau mày.
- Nó cần gì?
- Nó đến xin tha thứ.
Ôpxianikôp lắc đầu.
- Đấy ông xem - Ôpxianikôp lại tiếp tục nói với tôi - ông bảo nên đối xử thế nào với những người họ hàng? Không thể khước từ họ được...Tôi cũng được Chúa ban cho một thằng cháu trai. Nó là thằng có đầu óc, linh lợi, cái đó thì không ai chối cãi được: nó học giỏi, nhưng tôi không trông mong nó sẽ làm được điều gì hay ho cả. Nó đã từng ra làm việc nhà nước, nhưng rồi lại bỏ việc: nó không có đường tiến thân...Nó có phải là quý tộc đâu? Mà ngay cả những người quý tộc cũng không phải một lúc đã được thăng quan ngay. Thế là bây giờ nó ăn không ngồi rồi...Nhưng nếu chỉ có thế thôi thì chưa đến nỗi nào, đằng này nó lại đi làm thầy dùi kia chứ? Nó làm đơn kiện cho nông dân, viết đơn trình báo, dạy khôn các ông xôtxki ( [31] ), tố giác những người đạc điền, lê la ở các quán rượu, giao du với những người về phép vô thời hạn ( [32] ), với các tiểu thương thành thị và những người quét sân ở các nhà trọ. Như vậy thì tai họa nào có xa xôi gì? Các ông cảnh sát trưởng của trấn và quận đã nhiều lần đe nạt nó. Phúc cho nó là nó có tài bông phèng: nó làm cho họ phải buồn cười, nhưng rồi sau đó lại chơi xỏ họ...Này, nó đang ở trong buồng của mìng phải không? - ông ta nói thêm, hỏi vợ - tôi biết mà mình là chúa hay thương người, bao giờ cũng bênh che cho nó.
Tatiana Ilinitsna cúi đầu xuống, mỉm cười và đỏ mặt lên.
- Tôi nói có sai đâu - Ôpxianikôp nói tiếp. Chà, mình thật là hỏng quá? Nào, bảo nó vào đây, thì cũng đành vậy thôi. Vì ông khách quý, tôi sẽ tha thứ cho thằng ngu dại... Nào, bảo nó vào đây bảo nó đi...
Tatiana Ilinitsna tới gần cửa và gọi to: "Mitia!"
Mitia, một gã trai trạc hai mươi tám tuổi người cao, cân đối, tóc xoăn vào phòng, và thấy tôi gã dừng lại ở ngưỡng cửa. Y phục gã mặc là y phục kiểu Đức, nhưng chỉ riêng những nếp bồng quá to ở vai cũng đủ chứng tỏ rõ ràng rằng người thợ may bộ quần áo ấy thậm chí không phải là người thợ Nga thời nay, mà là người thợ Nga cổ xưa.
- Nào, lại gần đây, lại gần đây - ông già lên tiếng - Ngượng ngùng gì nào? Cám ơn thím đi: mày được tha thứ rồi đấy...Đây, thưa ông, tôi xin giới thiệu - ông ta vừa nói tiếp vừa chỉ Mitia - cháu ruột tôi đấy, vậy mà tôi không thể nào dạy được nó. Tệ hại hết chỗ nói! (Tôi và gã trai cúi chào nhau).
- Nào, nói đi, mày lại làm cái trò bậy bạ gì thế? Mà làm gì để cho người ta phải kêu ca về mày, kể đi.
Có lẽ Mitia không muốn trình bày và biện bạch trước mặt tôi.
- Để rồi cháu sẽ nói, chú ạ - Gã nói lí nhí.
- Không để sau gì hết, nói ngay đi - ông già nói tiếp - Tao biết, mày ngượng với ông đây chứ gì, như vậy càng hay, mày hối lỗi đi. Nào, nói đi tôi nhờ...Chúng tôi nghe đây.
- Cháu chẳng có gì mà phải xấu hổ. - Mitia bắt đầu nói với vẻ sôi nổi và lắc đầu một cái - Chú hãy thử xét xem. Các ôtnôđvorets ở Rêsêtilôp đến tìm cháu và bảo: "Cậu can thiệp hộ chúng tôi với, người anh em" - "Có chuyện gì thế - "Thế này này: các cửa hàng bánh mì của chúng tôi đều gọn gàng sạch sẽ nghĩa là không thể tốt hơn được. Thế rồi một viên chức đột nhiên đến và bảo: ông ta được lệnh đi xem xét các cửa hàng. Xem xong ông ta nói: "Cửa hàng của các ông lộn xộn lắm, có nhiều thiếu sót quan trọng, cần phải trình lên cấp trên" - "Nhưng có điều gì sơ suất kia ạ?" - "Cái đó thì tôi biết thôi ông ta nói"... Chúng tôi họp bàn và quyết định: cho gã viên chức nọ một món thật hậu vào, nhưng ông già Prôkhôrưts can ngăn chúng tôi, ông bảo như thế thì chỉ làm cho họ ăn quen bén mùi. Thực ra thì có gì đâu? Có thể là chúng ta chẳng bị phạt gì hết... Thế là chúng tôi nghe theo ông già, còn gã viên chức kia cáu và khiếu nại, viết tờ trình lên trên. Bây giờ người ta tra xét trách nhiệm của chúng tôi" – "Có thật là cửa hàng các ông hoàn toàn tốt không?" - cháu hỏi. "Chúa thấy đấy, hoàn toàn tốt và có một lượng bánh hợp pháp..." - "Thế thì các ông chẳng việc gì phải sợ" - cháu nói. Và cháu làm đơn cho họ...Hiện giờ vẫn chưa biết là ai sẽ được...Còn nếu do chuyện này mà họ kêu ca với chú về cháu thì dễ hiểu thôi: chiếc áo sơmi mình đang mặc là gần thân mình hơn cả, đối với ai cũng thế.
- Đối với ai cũng thế, nhưng có lẽ không phải là đối với cháu - ông già nói thấp giọng... - Thế còn mày mưu mô những gì cùng với nông dân Sutôlômôpxki vậy?
- Làm sao chú biết được?
- Vậy mà ta biết đấy.
- Lần này cháu cũng lại đúng, một lần nữa xin chú xét cho. Một người ở cạnh làng Sutôlômôpxki tên là Bexpanđin bắt đầu cày bốn đêxiatin đất. Bảo đấy là đất của y. Nông dân Sutôlômôpxki làm theo chế độ tô, địa chủ của họ ra nước ngoài, vậy thì ai là người bênh vực họ, chú thử xét xem? Mà ruộng ấy là của họ, không thể nào chối cãi được, ruộng của nông nô, từ bao đời nay rồi. Họ đến tìm cháu, bảo: "Cậu viết hộ lá đơn". Thế là cháu viết cho họ. Bexnanđin biết chuyện và hăm dọa. "Ta sẽ vặn bật hết xương bả vai của nó ra, mà có khi còn lấy cả đầu nó nữa ấy chứ...". Để rồi xem y sẽ lấy đầu cháu như thế nào, hiện giờ thì nó vẫn còn nguyên vẹn.
- Thôi đi, đừng có huênh hoang: rồi cái đầu mày sẽ không tránh khỏi tai vạ đâu - ông già thốt lên - Mày là thằng điên rồ!
- Nhưng thưa chú, chẳng phải là chú đã từng nói với cháu rằng...
- Ta biết, ta biết cháu sẽ nói với ta - Ôpxianikôp ngắt lời anh ta, đúng thế, con người ta phải sống theo lẽ công bằng và có bổn phận giúp đỡ những người ở gần ta. Có khi cũng không nên tiếc thân mình... Nhưng có phải cháu vẫn luôn luôn hành động như thế không? Cháu có để cho người ta kéo cháu vào quán rượu không? Cháu có làm cho người ta phải thết đãi cháu, cúi chào cháu, năn nỉ cháu không? "Đmitơri Alêcxêiêvits, anh giúp chúng tôi với, chúng tôi sẽ xin hậu tạ? - Rồi họ giúi và tay anh tờ một rúp hay tờ giấy xanh, có không nào? Không à? Nói đi, có không nào?"
- Chuyện đó thì đúng là cháu có lỗi - Mitia cúi mặt, đáp - Nhưng cháu không lấy của người nghèo và không làm trái với lương tâm. - Bây giờ thì anh không lấy, nhưng túng bí thì anh sẽ lấy. Không làm trái lương tâm... ôi chao? Mà chắc anh bênh vực toàn những vị thánh cả đấy! Thế anh quên Borka Pêrêkhôđôp rồi chắc?...Ai lo liệu cho anh ta? Ai bênh vực anh ta?
- Pêrêkhôđôp mắc nạn là lỗi tự anh ta...
- Tiêu tiền của nhà nước... Chuyện đùa đấy hẳn?
- Nhưng thưa chú, chú thử nghĩ xem: nghèo túng, gia đình...
- Nghèo túng, nghèo túng... Rượu chè, cờ bạc thì có.
- Vì đau xót nên anh ta mới đâm ra uống rượu Mitia hạ giọng nói.
- Vì đau xót! Nếu anh hằng tâm như thế thì nên giúp đỡ anh ta, chứ không nên cùng ngồi với người say trong các quán rượu. Về cái tài khéo nói thì chưa ai bằng anh!
- Anh ấy là người rất tốt...
- Người nào quen anh cũng là người tốt cả... Mà này, - Ôpxianikôp nói với vợ - Họ đã gửi cho anh ta...ờ, cái đó thì mình biết rồi đấy...
Tatiana Ilinitsna gật đầu.
- Những ngày gần đây anh biến đi đâu? - ông già lại lên tiếng.
- Cháu ở thành phố.
- Chắc là anh lại chơi bi da và uống trà, đánh ghi ta, lui tới các nhà chứa, thảo đơn từ trong các buồng kín, trưng diện với bọn con trai nhà buôn chứ gì? Đúng không nào? Nói đi?...
- Có lẽ đúng đấy ạ - Mitia mỉm cười, nói - à phải rồi! Suýt nữa thì cháu quên: Funtikôp Antôn Pariênưts mời chú chủ nhật này đến ăn với ông ta.
- Ta không đến ăn với gã bụng phệ ấy. Ông ta sẽ làm một con cá đáng giá một trăm rúp mà lại dùng bơ hỏng để rán. Mặc ông ta!
- À, cháu vừa gặp Fêđôxya Mikhailôpna.
- Fêđôxya nào?
- Fêđôxya của ông địa chủ Garpentsenkô, cái ông đã mua Mikulinô trong cuộc bán đấu giá ấy mà. Fêđôxya là người ở Mikulinô. Chị ta sống ở Matxcơva, làm nghề thêu thùa và nộp tiền niên phú rất chu tất, một trăm tám mươi hai rúp rưỡi mỗi năm. Chị ta thông thạo công việc của mình: Ở Matxcơva chị ta nhận được những món hàng tốt. Còn bây giờ, Garpentsenkô gọi chị ta về, và giữ chị ta ở làng mà chẳng trao cho chị nhiệm vụ nào cả. Chị ta muốn tự chuộc mình ra, và đã nói với chủ nhưng ông ta vẫn không quyết định gì cả. Chú quen Garpentsenkô, chú có thể nói với ông ấy một chút được không?...Fêđôxya sẽ trả tiền chuộc hậu hĩ đấy.
- Dùng tiền của anh để trả chứ? Phải thế không? Thôi, thôi được, ta sẽ nói với ông ấy, ta sẽ nói. Nhưng không biết có ăn thua gì không - ông già nói tiếp, vẻ mặt bực bội - Cầu Chúa tha lỗi. Garpentsenkô là kẻ biển lận: hắn mua hối phiếu, cho vay nặng lãi, điền trang của hắn là do hắn mua đấu giá đấy... Mà chẳng biết ai lôi kéo hắn tới vùng ta? Ôi chao, tôi chán cái dân thập phương đến lập nghiệp ở đây lắm rồi? Làm cho hắn hiểu ra lẽ phải cũng không dễ đâu, nhưng cứ thử xem.
- Chú lo liệu hộ, chú nhé.
- Được, ta sẽ lo liệu. Nhưng cháu phải cẩn thận, coi chừng đấy? Thôi, thôi, đừng có biện bạch...Cầu Chúa che chở cho anh, Chúa phù hộ anh! Nhưng từ nay trở đi phải cẩn thận, không thì tai họa đấy chứ không bỡn đâu, Mitia ạ, ta nói thực đấy, khéo không mà mất mạng. Không phải lúc nào ta cũng gánh đỡ được cho cháu... bản thân ta cũng chẳng có quyền thế gì. Thôi, bây giờ thì đi đi.
Mitia ra. Tatiana Ilinitsna ra theo.
- Pha trà ngon cho nó uống thoả thích đi, mình ạ - Ôpxianikôp nói với theo... - Nó không phải đứa ngốc nghếch đâu - ông ta nói tiếp - lại có lòng tốt nữa, nhưng tôi sợ cho nó... Chết thật, ông thứ lỗi tôi làm ông mất nhiều thời giờ quá về những chuyện vớ vẩn.
Cửa phòng ngoài chợt mở ra. Một người thấp bé, tóc bạc, mặc chiếc áo dài xẻ vạt bằng nhung bước vào.
- A, Frantx Ivanưts! - Ôpxianikôp kêu lên. Chào ông! Chúa vẫn gia ơn cho ông chứ?
Bạn đọc thân mến, cho phép tôi giới thiệu với bạn ông này nữa.
Frantx Ivanưts Lơgiơn (Lejeune), người láng giềng của tôi và là một địa chủ vùng Orion, đã đạt được danh hiệu quý tộc Nga bằng con đường không bình thường lắm. Ông ta sinh ở Orlêăng, bố mẹ là người Pháp. Cùng với Napôlêông, ông ta sang xâm chiếm nước Nga, giữ chân lính đánh trống. Thoạt tiên, mọi việc đều trơn tru như được bôi dầu mỡ, và ông bạn người Pháp của chúng ta vào Matxcơva đầu cất cao kiêu hãnh. Nhưng trên đường trở về Mr. Lejeune đáng thương sa vào tay nông dân Xmôlenxk, lúc ấy ông ta gần chết cóng và không có trống. Những người dân Xmôlenxk nhốt ông ta một đêm trong căn nhà ép dạ bỏ không, rồi sáng hôm sau họ dẫn ông ta tới cái hố băng gần con đập. Họ yêu cầu người lính đánh trống của "la grand armée" ( [33] ) chiều theo ý họ, nghĩa là ngụp dưới băng.
Mr. Lejeune không thể thuận theo đề nghị của họ và ông cũng bắt đầu nói bằng một thứ thổ ngữ Pháp, thuyết phục các nông dân Xmôlenxk để cho ông về Orlêăng. Ông ta nói: "Messieurs, ở đấy tôi có une tendre mère ( [34] ). Nhưng những người mujich có lẽ không biết vị trí địa lý của thành phố Orlêăng nên vẫn tiếp tục đề nghị ông đi du lịch ngầm dưới đáy dòng sông Gnilôterki ngoằn ngoèo và đã bắt đầu khuyến khích ông bằng những cái đẩy nhẹ vào cột sống cổ và sống lưng thì bỗng nhiên, Lơgiơn sung sướng vô cùng vì có tiếng nhạc ngựa giòn giã. Một chiếc xe trượt lớn chạy ra đê, đệm tựa lưng cao ngất phủ tấm thảm sặc sỡ, thắng ba con ngựa Viatka( [35] ) lông như lông chó sói. Một địa chủ to béo má đỏ hồng, mặc chiếc áo khoác ngắn bằng da lông chó sói ngồi trong xe.
- Các người làm gì thế - ông ta hỏi những người nông dân.
- Thưa ông, chúng tôi dìm một thằng Pháp.
- A? - Người địa chủ thốt lên một cách hờ hững và quay đi.
- Monsieur! Monsieur! - Anh chàng khốn khổ kêu lên.
- À, à! - Chiếc áo lông chó sói thốt lên với vẻ trách móc - Hắn cùng với bè lũ mười hai dân tộc dị giáo tràn vào nước Nga, đốt cháy Matxcơva, tên đáng nguyền rủa, hắn đã kéo đổ cây thập tự trên nóc nhà thờ Ivan Vêliki, vậy mà bây giờ lại kêu cầu: muxiê, muxiê, bây giờ thì cụp đuôi lại! ăn cắp thì phải đền tội... Đánh xe đi, Finka-a!
Những con ngựa rời chỗ.
- À, nhưng hãy dừng lại đã! - ông địa chủ nói thêm...- Này, muxiê , có biết nhạc không?
- Sauver moi, sauver moi, mon bon monsieur? ( [36] ) Lơgiơn nhắc lại.
- Một dân tộc hèn kém! Thậm chí không một tên nào trong bọn chúng biết lấy một tiếng Nga! Muyzic, muyzic, xavê muyzic vu? xavê? Nào, nói đi? Comprơnê? Xavê muyzic vu? Fortôpiano juê xavê?
Rút cuộc Lơgiơn đã hiểu ông địa chủ muốn gì và gật đầu.
- Oui, monsieur, oui, je suis musicien; je joue tous les instruments possibles! Oui, monsieur...Sauvez moi, monsieur( [37] ).
- Thế thì Chúa của anh thật có phúc - ông địa chủ đáp... - Các người hãy thả y ra, đây ta cho các người hai mươi côpêch uống rượu.
- Đa tạ ông chủ, xin đa tạ. Ông cứ đem hắn đi ạ.
Lơgiơn được đưa lên xe. Anh ta vui sướng đến nghẹn thở, khóc, run rẩy, cúi chào, tạ ơn ông địa chủ, cám ơn người đánh xe và đám nông dân. Trên người anh ta chỉ có độc một chiếc áo chẽn màu lục với những dải băng hồng, mà trời rét ghê gớm. Ông địa chủ lẳng lặng nhìn những bàn tay, bàn chân thâm tím, cóng đờ của anh ta, bọc anh ta vào chiếc áo lông của mình và đưa anh ta về nhà. Đầy tớ trong nhà đổ đến. Anh chàng người Pháp được cấp tốc sưởi ấm, cho ăn và cho mặc. Ông địa chủ đưa anh ta đến giới thiệu với các cô con của mình - Các con - ông ta nói với các con - Đây, ba tìm được thày cho các con rồi. Các con vẫn luôn luôn nài ba cho chúng con học nhạc và thổ ngữ Pháp thì đây là một người Pháp, anh ta biết chơi fortôpianô nữa... Nào, Muxiê - ông ta vừa nói tiếp vừa chỉ chiếc fortôpianô cà khổ mua được từ năm năm trước của một người Do Thái chuyên buôn ô đờ-côlônhơ. - Cho chúng tôi xem tài nghệ của anh đi: Juê ?
Tim như ngừng đập, Lơgiơn ngồi xuống ghế: cả đời anh ta chưa sờ đến những chiếc fortôpinanô.
- Juê đi, juê đi - ông địa chủ nhắc lại.
Anh chàng khốn khổ nện một cách tuyệt vọng vào các phím đàn như đánh trống, gặp đâu đập đấy. Sau này, anh kể lại: "Tôi nghĩ rằng vị cứu tinh sẽ nắm lấy cổ áo tôi và lẳng tôi ra khỏi nhà". Nhưng, thật là ngạc nhiên cho nhà ứng tác bất đắc dĩ, lát sau ông địa chủ vỗ vai khen. "Khá, khá.- ông ta thốt lên - Tôi thấy là anh biết chơi đấy. Bây giờ thì đi nghỉ đi".
Hai tuần sau, Lơgiơn được ông địa chủ cho sang ở với người khác, giàu và có học thức, người này yêu mến anh vì tính anh vui vẻ và hiền lành. Rồi anh lấy một cô học trò của mình, ra làm việc nhà nước, được ban danh hiệu quý tộc. Sau này Lơgiơn gả con gái của mình cho một địa chủ Orion tên là Lôbưzanhiep, người này là lính long kỵ giải ngũ và hay làm thơ, và chính Lơgiơn cũng chuyển đến ở Orion.
Chính Lơgiơn ấy - hay Frantx Ivanưts, như hiện nay người ta vẫn gọi ông ta - đã vào phòng Ôpxianikôp lúc tôi ở đấy. Hai người chơi thân với nhau.
Nhưng, có lẽ bạn đọc đã chán ngồi với tôi ở nhà Ôpxianikôp bởi vậy tôi xin ngừng lời.