Bút ký Người đi săn

Bút ký Người đi săn

Tổng số chương: 26

Ai đã có dịp qua hạt Bônkhôpxki và hạt Jiđrinxki thì hẳn là phải ngạc nhiên về sự khác nhau quá rõ rệt giữa người tỉnh Orion và người tỉnh Kaluga. Người nông dân Orion tầm vóc vừa phải, hơi gù, cau có, mắt nhìn gườm gườm, ở những căn nhà tồi tàn bằng gỗ hoàn diệp liễu, phải làm lao dịch ( [1] ), không buôn bán, ăn kém, đi giày bện bằng vỏ cây. Người nông dân Kaluga ở nhà gỗ thông rộng thênh thang, tầm vóc cao lớn, mắt nhìn bạo dạn và vui vẻ, mặt sạch sẽ và trắng trẻo, thường buôn bơ và nhựa cây, vào những ngày hội hè thì diện ủng. Làng quê Orion (chúng tôi nói về phần phía đông tỉnh Orion) thường nằm lọt giữa những cánh đồng đã cày gần một cái khe đã biến thành ao chuôm bẩn thỉu. Ngoài mấy cây thùy liễu có thể bị đốn bất cứ lúc nào và hai ba cây phong khẳng khiu thì khắp xung quanh, suốt trong tầm mắt, không thấy một bóng cây nhỏ bé nào cả. Nhà thì cái nọ dồn sát vào cái kia, mái lợp rạ mục...

Làng Kaluga thì trái hẳn lại, xung quanh phần lớn là rừng. Nhà cách nhau thưa hơn và thẳng hàng hơn, mái lợp ván, cổng đóng chặt, hàng rào ở sân sau không đổ nát xiêu vẹo mở lối cho bất cứ chú lợn nào đi qua cũng có thể xộc vào thăm nhà... Và đối với người đi săn thì tỉnh Kaluga cũng là nơi tốt hơn. Ở tỉnh Orion, trăm năm nữa sẽ không còn một khoảnh rừng hay một vùng cây rậm rạp nào nữa, còn đầm lầy thì hiện giờ chẳng ai còn nhắc nhở đến. Ở Kaluga thì trái lại, rừng chạy dài hàng trăm dặm( [2] ), đầm lầy trải dài hàng chục dặm, loại gà rừng cao quý vẫn chưa tuyệt diệt, vẫn còn loại dẽ gà phúc hậu và chim đa đa vẫn làm cho người đi săn và chó vừa vui vừa hoảng hốt vì cái lối bay vù lên một cách đột ngột của nó.

Vì hay đến săn ở hạt Jiđrinxki, tôi đã gặp một tiểu địa chủ người Kaluga ở ngoài cánh đồng và làm quen được với ông ta. Đấy là Pôlutưkin, một người mê săn bắn, vì vậy là một người tuyệt diệu.

Thực ra ông ta có một nhược điểm: chẳng hạn, ông ta dạm hỏi tất cả những cô gái giàu có đến tuổi cập kê trong tỉnh, và khi bị cự tuyệt và bị cấm lui tới, ông ta phiền muộn thổ lộ nỗi đau xót với tất cả bạn bè và người thân, nhưng vẫn tiếp tục gửi quà biếu cha mẹ các cô gái mà ông đã dạm hỏi: quà đây chỉ là đào chua và tất cả những sản vật còn xanh trong vườn nhà ông ta. Ông ta thích kể đi kể lại vẫn một chuyện tiếu lâm mà chưa bao giờ làm cho ai phải buồn cười, mặc dù người ta tôn trọng phẩm giá của ông Pôlutưkin. Ông ta ca tụng các tác phẩm của Akin Nakhimốp( [3] ) và truyện Pinna( [4] ), ông có tật nói lắp và gọi con chó của mình là Axtơrônôm ( [5] ), đáng lẽ nói "nhưng" thì ông ta nói "cư mà"; ở nhà, ông ta tổ chức nấu ăn theo kiểu Pháp mà bí quyết của nó, theo cách hiểu của người đầu bếp của ông, là ở chỗ biến đổi hoàn toàn mùi vị tự nhiên của mỗi món ăn: thịt do nhà nghệ sĩ tài tình ấy chế biến đâm ra có mùi cá, cá có vị nấm, mì sợi có mùi thuốc súng, và không một miếng cà rốt nào lọt được vào món súp mà không có dạng hình thoi hay hình thang. Nhưng, trừ mấy thiếu sót vặt vãnh ấy, thì như tôi đã nói, ông Pôlutưkin là một người đặc sắc.

Ngay trong ngày đầu tiên mới quen biết, ông Pôlutưkin đã mời tôi về nghỉ đêm ở nhà ông.

- Nhà tôi cách đây những năm dặm - ông nói thêm - đi bộ thì xa; ta hãy đến nhà Khôr đã. (Bạn đọc cho phép tôi không phải diễn tả lối nói lắp của ông ta).

- Khôr là ai kia?

- Một gã mujich của tôi... Y ở cách đây không xa.

Chúng tôi đến nhà Khôr. Khu nhà của người nông dân này nằm trơ trọi giữa rừng, trên một bãi đất bằng phẳng, đã dọn quang và có trồng trọt hẳn hoi.

Mấy gian nhà bằng gỗ thông nối liền với nhau bằng những dãy rào. Trước căn nhà chính, một mái hiên chạy dài, tựa trên những cột đỡ mảnh. Chúng tôi vào. Một gã trai tuổi trạc đôi mươi, cao, đẹp ra đón chúng tôi.

- À, Fêđya! Khôr có nhà không? - Pôlutưkin hỏi.

- Thưa không ạ. Khôr ra thành phố. - Gã trai đáp và mỉm cười, phô ra hàng răng trắng như tuyết - ông cho lệnh thắng xe chứ ạ?

- Ừ, thắng xe. Nhưng mang nước kvax cho chúng ta đã.

Chúng tôi vào nhà. Tường nhà bằng gỗ súc sạch tinh, không dán một bức tranh Xuzđan ( [6] ) nào. Trong góc thờ, một cây đèn leo lét trước bức tượng thánh nặng nề mạ bạc. Chiếc bàn bằng gỗ bồ đề mới được cạo rửa cách đây không lâu. Giữa các súc gỗ và trên các khung cửa sổ, không có những chú gián hung tinh nghịch bò lung tung, không có những con gián đen tư lự ẩn náu. Gã trai trở lại ngay, mang theo cái cốc lớn màu trắng, đựng đầy nước kvax thơm ngon, với một khoanh bánh mì rất to làm bằng lúa mạch và một tá dưa chuột muối đặt trong cái đĩa gỗ. Gã đặt tất cả những món ấy lên bàn, đứng tựa lưng vào cửa và bắt đầu mỉm cười nhìn chúng tôi. Chúng tôi chưa kịp ăn hết những món ăn nguội thì xe ngựa đã lăn bánh lộc cộc trước thềm. Chúng tôi ra. Một thằng bé trạc mười lăm tuổi, tóc xoăn và má đỏ hồng ngồi điều khiển xe và phải khó khăn lắm mới kìm nổi con ngựa đực đốm trắng béo tốt. Xung quanh có sáu gã trai lực lưỡng phi thường, rất giống nhau và giống Fêđya. "Con của Khôr cả đấy!" - Pôlutưkin nói. "Vâng, các Khôr con cả đấy - Fêđya đỡ lời, anh ta đã theo chúng tôi ra thềm - và cũng chưa đủ mặt đâu: Pôtap vào rừng, Xiđor theo ông già Khôr ra thành phố... Cẩn thận đấy nhé, Vaxya - anh ta nói tiếp với chú bé đánh xe - phóng thật nhanh vào - em đánh xe hầu ông chủ đấy. Nhưng qua những chỗ xóc nhiều thì chú ý một chút, kìm bớt ngựa lại: không thì vừa phá hỏng xe vừa khuấy động ruột gan ông chủ đấy nhé!". Các Khôr con khác đều mỉm cười vì câu đùa châm chọc của Fêđya. "Cho Axtơrônôm lên!" - ông Pôlutưkin thốt lên một cách trịnh trọng. Fêđya có vẻ thích thú, bế bổng con chó đang nhe răng cười một cách gượng gạo lên và đặt nó vào xe. Vaxya giật dây cương.

Chúng tôi đi. "Kia là phòng giấy của tôi - ông Pôlutưkin bỗng nói với tôi và chỉ ngôi nhà gỗ nhỏ thấp lè tè - ông muốn tạt vào xem chút không?" - "Rất hân hạnh" - "Bây giờ chỗ này bỏ không dùng nữa rồi - ông ta vừa nói vừa xuống xe - Nhưng dù sao vẫn nên xem".

Văn phòng gồm hai căn phòng bỏ không. Người giữ nhà, một ông lão chột, từ sau nhà chạy tới. "Chào lão Miniaits - Pôlutưkin nói - nước đâu?" Ông già chột biến mất và lát sau trở lại mang theo chai nước và hai cái cốc. "Ông nếm thử đi - Pôlutưkin bảo tôi - nước này của tôi là nước nguồn, tốt lắm". Chúng tôi uống mỗi người một cốc, còn ông già rạp mình chào chúng tôi.

"Thôi, bây giờ ta có thể đi được rồi đấy - Người bạn mới của tôi nói - Trong phòng giấy này, tôi đã bán cho thương gia Anliuep bốn đêxiatin ( [7] ) rừng, và bán rất được giá. Chúng tôi lên xe, nửa giờ sau, xe đã vào sân nhà ông chủ.

Trong bữa ăn tối, tôi hỏi Pôlutưkin:

- Ông cho biết tại sao Khôr lại sống tách biệt với những nông dân khác của ông?

- Là vì thế này nhé: lão là tay mujich khôn ngoan. Hai mươi năm trước, nhà lão bị cháy. Hồi ấy ông cụ thân sinh ra tôi vẫn còn, thế là lão tới gặp ông cụ và nói: "Thưa ông Nhikôlai Kuzmits, xin ông cho con ra ở khu rừng cạnh đầm lầy của ông Con sẽ xin nộp tô thật cao. - "Nhưng tại sao anh lại ra ở bên đầm lầy?" - "Dạ, chẳng có gì lạ đâu ạ; nhưng xin ông đừng bắt con đi làm bất cứ việc gì, còn tô thì ông định cho bao nhiêu con cũng xin vâng". - "Năm chục rúp một năm?" - "Xin vâng" - "Mà không được khất lại đồng nào đâu, nhớ đấy" -  "Nhất định là con không dám lần chần...". Thế rồi y dọn ra ở đầm lầy. Từ đó, người ta đặt cho y cái biệt hiệu là Khôr ( [8] ).

- Lão làm ăn phất lắm phải không.

- Phất lắm. Bây giờ lão nộp tô cho tôi một trăm rúp mỗi năm, và có lẽ tôi còn tăng thêm nữa. Tôi đã nhiều lần bảo lão: này, Khôr, hãy chuộc mình ra đi, hãy chuộc mình đi?... Thế mà đồ quỷ, lão thề sống thề chết với tôi rằng lão không biết lấy gì để tự chuộc mình: lão bảo lão không có xu nào cả...Nhưng đời nào có chuyện ấy.

Hôm sau, uống chè xong, chúng tôi lập tức đi săn. Khi xe qua làng, ông Pôlutưkin bảo người đánh xe dừng lại bên túp nhà thấp và cất tiếng sang sảng gọi: "Kalinưts!" - "Dạ, thưa ông con ra ngay đấy ạ. - Tiếng nói từ trong sân đưa ra - Con đang bện lại chiếc giày". Chúng tôi cho ngựa đi bước một. Ra đến ngoài làng thì một người đàn ông trạc bốn chục tuổi đuổi kịp chúng tôi; ông ta cao, gầy đầu nhỏ, ngật ra phía sau. Đấy là Kalinưts.

Thoạt nhìn tôi đã ưa ngay khuôn mặt ngăm đen, phúc hậu, đôi chỗ điểm những nết rỗ hoa của ông ta. Sau này tôi được biết rằng Kalinưts ngày nào cũng đi săn với ông chủ, mang túi và có khi cả súng cho chủ, tìm ra chỗ chim thường đến đậu, đi kiếm nước, hái dâu rừng, dựng lán, chạy đi gọi xe ngựa.

Không có Kalinưts thì Pôlutưkin không thể đi đâu lấy một bước. Kahnưts tính tình rất mực vui vẻ, hiền lành, luôn miệng hát lẩm nhẩm và đưa cặp mắt vô tư lự nhìn khắp xung quanh, nói giọng mũi hơi khàn, vừa mỉm cười vừa nheo cặp mắt xanh nhạt và thường đưa tay nắm lấy chòm râu nhọn lưa thưa của mình. ông ta đi thong thả, nhưng bước dài, tì nhẹ vào chiếc gậy dài và mảnh. Ngày hôm ấy, ông ta đã nhiều lần nói chuyện với tôi, giúp tôi nhiều việc mà không hề có vẻ quỵ luỵ.

Nhưng đối với chủ thì ông ta chăm sóc như chăm một đứa trẻ. Khi cái nóng buổi trưa không thể chịu đựng nổi buộc chúng tôi phải tìm chỗ trú thì ông ta dẫn chúng tôi vào chỗ nuôi ong của ông ta ở sâu trong rừng. Kalinưts mở của một căn nhà nhỏ có treo những chùm cỏ khô thơm thơm, đưa chúng tôi vào và trải cỏ còn tươi cho chúng tôi nằm, còn ông ta thì đội lên đầu một cái túi lưới, lấy con dao, một cái bình và một thanh củi cháy dở rồi đi cắt tầng ong cho chúng tôi. Chúng tôi uống mật ong trong suốt âm ấm như uống nước suối và ngủ thiếp đi giữa tiếng ong vo ve đều đều và tiếng lá rì rào không ngớt. Một luồng gió nhẹ lùa qua làm tôi bừng tỉnh giấc... Tôi mở mắt và nhìn thấy Kalinưts: cửa mở hé, ông ta ngồi ở ngưỡng cửa và đang gọt cái thìa. Tôi ngắm nghía hồi lâu khuôn mặt hiền lành và sáng sủa như bầu trời chiều của Kalinưts. Ông Pôlutưkin cũng đã thức giấc. Chúng tôi không nhổm dậy ngay. Sau chuyến đi bộ lâu, lại được ngủ một giấc say sưa, được nằm ườn ra trên cỏ khô thì thật là thích thú: cơ thể cảm thấy khoan khoái và moi mỏi, mặt hơi nóng lên, mắt ríu lại vì một cảm giác lười nhác êm dịu. Cuối cùng, chúng tôi cũng dậy và lại đi lang thang đến tận tối. Trong bữa ăn tối, tôi lại nói về Khôr và Kalinưts.

"Kalinưts là một nông dân hiền lành, cần mẫn, tận tuỵ. Cư mà y không thể thu xếp được việc nhà cho tươm tất: tôi cứ lôi y đi luôn ấy mà. Ngày nào y cũng đi săn với tôi... Thế thì còn thu vén việc nhà vào lúc nào nữa, phải không ông?" Tôi đồng ý với ông ta, và chúng tôi đi ngủ.

Hôm sau, Pôlutưkin phải ra thành phố về một việc tranh chấp với Pitsukôp là người có ruộng ở cạnh ruộng của ông ta. Pitsukôp cày lấn sang đất của Pôlutưkin và lại còn dùng roi đánh một người đàn bà nông dân của Pôlutưkin ngay trên mảnh đất đã cày đó. Tôi đi săn một mình và trước khi trời tối tôi rẽ vào nhà Khôr. Ở ngưỡng cửa, tôi gặp một ông già hói, người thấp, vai rộng và chắc nịch: đấy chính là Khôr. Mặt ông ta hao hao giống Xôcrat: trán cũng cao và gồ lên như thế, mắt cũng nhỏ như thế, mũi cũng hếch lên. Chúng tôi cùng vào nhà.

Fêđya mang sữa và bánh mì đen đến cho tôi. Khôr ngồi xuống chiếc ghế dài và ung dung vuốt bộ lau loăn xoăn của mình, nói chuyện với tôi. Tôi cảm thấy ông ta có ý thức về phẩm giá của mình, ông ta nói năng và cử động khoan thai, thỉnh thoảng lại mỉm cười dưới bộ ria mép gài.

Tôi nói chuyện với ông ta về việc gieo hạt, về mùa màng, về đời sống nông dân... ông ta dường như đồng ý với tôi về tất cả mọi điều. Nhưng rồi tôi thấy xấu hổ, vì tôi cảm thấy tôi nói không ra đâu vào đâu kể cũng hơi kỳ lạ. Khôr đôi khi nói quanh co rắc rối, hẳn là vì thận trọng... Đây là một kiểu mẫu nhỏ về cuộc trò chuyện của chúng tôi:

- Này, ông Khôr - Tôi bảo ông ta - Tại sao ông không nói với ông chủ xin chuộc mình ra?

- Nhưng tôi chuộc mình ra để làm gì kia chứ? Bây giờ tôi biết ông chủ của tôi và biết số tô tôi phải nộp... ông chủ của chúng tôi tử tế lắm.

- Nhưng sống tự do vẫn hơn chứ.

Khôr  liếc ngang nhìn tôi.

- Thì đã hẳn - ông ta thốt lên.

- Ờ, thế thì tại sao ông không chuộc mình ra?

Khôr  lắc đầu:

- Thưa ông, ông bảo tôi lấy gì để chuộc mình kia chứ?

- Thôi xin ông, ông già của tôi ạ...

- Khôr  thành người tự do thì bất cứ ai không để râu cũng là chủ của Khôr ( [9] )- ông già hạ giọng nói tiếp như tự nói với mình.

- Thế thì chính ông cũng cạo râu đi.

- Râu là gì? Râu là cỏ: cạo đi được thôi.

- Ừ, thế thì có gì khó đâu?

- Như vậy có lẽ Khôr sẽ lập tức vào phường lái buôn. Lái buôn sống sung sướng và vẫn để râu.

- Thì chính ông cũng vẫn buôn bán đấy thôi? - Tôi hỏi.

- Tôi cũng có buôn một ít bơ và nhựa cây... Dạ thưa ông, ông truyền cho đánh xe chứ ạ?

"Lão già khéo miệng và tinh ranh gớm" - Tôi nghĩ.

- Không - Tôi nói - Tôi không cần xe. Ngày mai tôi sẽ đi săn quanh khu nhà ông; và nếu ông ưng thuận thì tôi sẽ ngủ đêm trong nhà chứa cỏ của ông.

- Hân hạnh cho chúng tôi. Nhưng ông ngủ trong nhà chứa cỏ liệu có thoải mái không? Tôi sẽ bảo bọn đàn bà trải chỗ nằm và đem gối đến cho ông. Này, các ả! - ông ta đứng lên, thét gọi - Lại đây các ả! Fêđya, con đi với chúng nó. Bọn đàn bà là đần độn lắm kia.

Mười lăm phút sau, Fêđya xách đèn đưa tôi vào nhà chứa cỏ. Tôi gieo mình xuống đống cỏ khô thơm thơm, con chó nằm khoanh tròn dưới chân tôi. Fêđya chúc tôi ngủ ngon. Cửa két một tiếng và đóng lại. Tôi nằm mãi không ngủ được. Con bò tới gần cửa, hai lần phì hơi ầm ĩ; con chó của tôi gầm gừ dữ tợn khiến nó phải bỏ đi. Một con lợn đi qua, khẽ ủn ỉn như đang có điều gì suy nghĩ. Gần đâu đây một con ngựa bắt đầu nhai cỏ khô và thở phì phì... cuối cùng tôi cũng ngủ thiếp đi.

Rạng sáng, Fêđya đánh thức tôi. Tôi rất mến gã trai vui tính, hoạt bát này, và như tôi đã nhận thấy, anh ta cũng được ông già Khôr  quý mến. Hai bố con thường bỡn cợt nhau, xem ra rất thân tình.

Ông già bước ra đón tôi. Không biết có phải vì tôi đã nghỉ đêm dưới mái nhà ông hay vì lý do gì khác, nhưng Khôr  đối xử với tôi niềm nở hơn hôm qua nhiều.

- Chúng tôi đã đặt ấm xamôva chờ ông - ông ta mỉm cười nói với tôi - Ta đi uống trà đã. Chúng tôi ngồi quanh bàn. Một người đàn bà khỏe mạnh, một trong các con dâu của Khôr, mang tới một bình sữa. Tất cả các con trai ông đều lần lượt vào nhà.

- Các con ông người nào cũng cao to cả! - Tôi bảo ông già.

- Vâng - ông lão vừa đáp vừa nhấm một miếng đường nhỏ xíu - Có lẽ chúng không có điều gì phải phàn nàn về tôi và bà lão nhà tôi.

- Họ đều ở với ông cả chứ?

- Vâng, tất cả. Chính chúng muốn như thế, và chúng tôi ăn ở hòa thuận với nhau.

- Có vợ hết rồi chứ?

- Riêng thằng mãnh này thì chưa. - ông già trả lời.

- Nhưng con lấy vợ làm gì kia chứ? - Fêđya phản đối - con sống thế này cũng thú lắm rồi. Con cần vợ để làm gì? Để cắn sủa nhau à?

- Thôi đi anh... Tôi biết tỏng anh rồi! Anh đeo những chiếc nhẫn bạc. Anh là anh cứ muốn luôn luôn được ngửi hơi các ả hầu gái cơ. "Thôi đi, anh không biết xấu hổ à?" - ông già nói tiếp, nhại giọng các ả hầu phòng - tôi biết anh rồi, anh không thích chân lấm tay bùn mà!

- Nhưng đàn bà thì có gì hay hớm?

- Đàn bà là người làm việc - Khôr  nói với vẻ quan trọng - Đàn bà là người hầu của gã mujich .

- Nhưng con cần người làm để làm gì?

- Ra thế đấy, anh thích bới đống than hồng bằng tay người khác kia. Chúng tôi biết bọn các anh rồi.

- À, nếu thế thì bố cưới vợ cho con đi. Sao? Thế nào? Sao bố lại im lặng?

- Thôi, thôi, đủ rồi, cái thằng chúa hay nói giỡn. Thấy không; chúng ta làm ông khách khó chịu rồi đấy. Tao sẽ cưới vợ cho mày, chắc chắn là thế... Còn thưa ông, xin ông đừng giận: nó còn ít tuổi còn gà tồ lắm ạ.

Fêđya lắc đầu.

- Khôr có nhà không? - Tiếng nói quen thuộc từ ngoài cửa vọng vào, và Kalinưts vào nhà, mang một chùm dâu mọc hoang ở ngoài đồng mà ông đã hái cho bạn. ông già Khôr  hớn hở ra đón bạn. Tôi ngạc nhiên nhìn Kalinưts: thú thực, tôi không ngờ một tay mujich như ông lại có cách biểu lộ tình cảm "trìu mến" như thế.

Hôm ấy, tôi đi săn muộn hơn thường ngày bốn tiếng, và ba ngày tiếp sau đó, tôi ở nhà Khôr. Những người mới quen làm cho tôi vui thích. Tôi không rõ bằng cách nào tôi đã chiếm được lòng tin cậy của họ, nhưng họ nói chuyện với tôi rất thoải mái. Tôi thích thú nghe họ nói và quan sát họ. Hai người bạn chẳng có chút gì giống nhau. Khôr là một người thiết thực, thực tế, một đầu óc quản trị, một phần tử duy lý. Kalinưts thì trái lại, thuộc loại những người duy tâm, lãng mạn những người cao hứng và hay mơ mộng. Khôr  hiểu hiện thực: ông ta làm nhà, dành dụm tiền, khéo lấy lòng chủ và những người quyền thế khác. Kalinưts đi giày bện bằng vỏ cây và sống tạm bợ qua ngày. Khôr  sinh con đẻ cái, có một gia đình đông đảo, ngoan ngoãn và hòa thuận. Kalinưts trước kia có một người vợ mà ông vẫn nể sợ, còn con thì chưa bao giờ ông có con. Khôr nhìn thấu ruột gan ông Pôlutưkin. Kalinưts tôn kính chủ. Khôr  yêu Kalinưts và che chở cho bạn. Kalinưts yêu mến và kính trọng Khôr. Khôr  ít nói, hay giễu cợt và hay nghĩ ngợi một mình. Kalinưts bày tỏ ý kiến một cách hăng say, tuy lời lẽ không bùi tai như một người thợ khéo nói ở nhà máy... Nhưng Kalinưts có những ưu thế mà chính Khôr phải thừa nhận, chẳng hạn: Kalinưts có phép phù chú xua đuổi được sự tức giận, sự sợ hãi, cơn điên rồ, trừ được sâu bọ; ông sai khiến được ong, ông ta làm gì cũng mát tay. Ngay trước mặt tôi, Khôr  nhờ Kalinưts đưa con ngựa mới mua vào chuồng, và Kalinưts nghiêm trang, tận tâm thực hiện yêu cầu của ông bạn già vốn hay hoài nghi. Kalinưts gần nhiên thiên hơn. Khôr  thì gần mọi người, gần xã hội hơn. Kalinưts không ưa lập luận và tin tất cả mọi cái một cách mù quáng. Khôr  thì thậm chí có cái nhìn mỉa mai đối với cuộc đời.

Ông ta thấy nhiều, biết nhiều, và tôi học được nhiều ở ông ta. Chẳng hạn, qua những câu chuyện của ông, tôi được biết rằng mỗi mùa hè, trước mùa cắt cỏ thường có một chiếc xe ngựa nhỏ hình dạng đặc biệt đến các làng. Một người mặc áo kafơtan ( [10] ), ngồi trong xe và bán lưỡi hái. Trả tiền ngay thì từ một rúp hai mươi nhăm cô pếch cho đến một rúp rưỡi tiền giấy, mua chịu thì ba rúp thường và một rúp bạc. Tất nhiên là tất cả nông dân đều mua chịu. Hai ba tuần sau, người đó lại đến và đòi tiền.

Nông dân vừa gặt yến mạch xong, thành thử có cái để mà trả. Người nông dân cùng với người lái buôn vào quán rượu và thanh toán nợ nần ở đấy. Một vài địa chủ nảy ra ý định bỏ tiền ra mua lưỡi hái và bán chịu cho nông dân cũng với giá như thế. Nhưng nông dân không hài lòng, và thậm chí chán nản: họ mất cái thú được búng vào lưỡi hái, lắng nghe tiếng thép ngân lên, lật đi lật lại lưỡi hái trong tay và hỏi gã lái buôn quỷ quyệt tới hai chục lần: "ông nghĩ thế nào, ông bạn, lưỡi hái không tốt lắm, phải không?" Cũng vẫn những trò ấy diễn ra khi mua liềm, chỉ khác cái là ở đây đàn bà can dự vào và đôi khi họ khiến cho người bán hàng phải nện họ một trận vì lợi ích của chính họ. Nhưng đàn bà đau khổ nhiều nhất trong trường hợp như thế này. Những người cung cấp vật liệu cho các nhà máy giấy trao việc thu mua giẻ rách cho một loại người mà ở một số vùng, người ta gọi là "phượng hoàng". "Phượng hoàng" ta được lái buôn trao cho hai trăm rúp tiền giấy và đi kiếm mồi. Nhưng trái với con chim cao quý mà y mang tên, y không tấn công trực diện và mạnh bạo: y dùng mưu ma chước quỷ. Y để xe ngựa ở một chỗ trong đám bụi cây gần làng, còn y cất lẻn ra phía sau nhà, như một người qua đường hay một người đi chơi phiếm. Linh tính báo cho bọn đàn bà biết "phượng hoàng" tới và họ lẻn ra gặp y. Cuộc mua bán diễn ra vội vã. Để lấy mấy xu đồng, người nông dân trao cho "phượng hoàng" chẳng những đủ mọi thứ giẻ rách, mà thường là cả áo sơ mi của chồng và cả váy của mình. Thời gian gần đây, bọn đàn bà coi việc ăn cắp của chính mình và tiêu thụ sợi gai mềm và đặc biệt là sợi gai thô ( [11] ) theo cách ấy là có lợi - thế là nghề nghiệp của các tay "phượng hoàng" đã được mở rộng và tiến thêm một bước quan trọng! Nhưng rồi các gã mujich tinh khôn hơn, và hễ thoáng thấy có gì đáng nghi ngờ, nghe phong phanh là "phượng hoàng" xuất hiện, thì họ tức tốc thi hành những biện pháp sửa chữa và phòng ngừa. Kể ra, nhưng vậy chẳng đáng bực lắm ư? Bán sợi gai mềm là việc của đàn ông, và đúng là trước nay họ vẫn bán, không phải bán ở thành phố, vì như thế thì phải tự mình đem hàng ra, mà bán cho những người đi buôn đi qua làng.

Những người lái buôn này vì không có cân nên tính một pút( [12] ) là bốn mươi nắm, mà các bạn cũng biết thế nào là nắm tay và lòng bàn tay người Nga, đặc biệt khi người đó "ra sức cố gắng"! Tôi, một người không có kinh nghiệm và chưa "thông thuộc" đời sống nông thôn (như ở Orion người ta thường nói), đã được nghe vô khối câu chuyện như thế. Nhưng Khôr không phải chỉ kể chuyện, chính ông cũng hỏi tôi nhiều điều.  Được biết tôi đã từng ra nước ngoài, sự tò mò của ông càng bừng lên mãnh liệt...

Kalinưts không chịu thua kém Khôr. Nhưng Kalinưts xúc động hơn khi nghe tả về thiên nhiên, núi non, thác ghềnh, về những ngôi nhà khác thường, những thành phố lớn. Khôr  quan tâm đến những vấn đề hành chính và chính trị. Ông ta lần lượt hỏi tất cả mọi chuyện: "Thế nào, việc đó ở nước họ cũng như ở ta hay là khác? Thưa ông, việc đó ra sao?..." "à, hay quá, lạy Chúa, đó là do ý Chúa!" - Kalinưts kêu lên trong lúc tôi kể chuyện. Khôr  thường im lặng, cau đôi lông mày rậm, chỉ thỉnh thoảng nhận xét: "Điều đó ở nước ta không hợp, còn cái ấy thì tốt, thế mới ổn". Tôi không thể kể lại với các bạn tất cả các câu hỏi của ông ta, và cũng chẳng cần thuật lại làm gì. Nhưng qua những cuộc chuyện trò của chúng tôi, tôi thu hoạch được một niềm tin vững chắc mà có lẽ bạn đọc không hề ngờ tới: Tôi tin chắc rằng Piôtr đại đế là một người Nga hoàn hảo, là người Nga chính trong những công cuộc cải tạo của ông. Người Nga tin chắc ở sức mạnh và sự vững vàng của mình đến nỗi sẵn lòng tự phá vỡ cuộc sống của mình: người Nga ít bận tâm đến quá khứ và mạnh dạn nhìn về tương lai. Cái gì tốt thì người đó thích, cái gì hợp lý thì người đó chờ đón, còn nó từ đâu tới thì cũng thế thôi. Lương tri của người Nga thích chế giễu lý sự cằn cỗi của người Đức. Nhưng, theo lời Khôr, người Đức là một dân tộc hay tò mò, và ông vui lòng học tập họ. Nhờ tình trạng đặc biệt của mình, tình trạng độc lập trên thực tế, Khôr  nói với tôi nhiều điều mà người khác thì có dùng đòn bẩy cũng không nậy ra được hay như nông dân thường nói, là có đưa vào cối xay mà nghiền cũng không ra. Ông thực sự hiểu tình thế của mình. Nói chuyện với Khôr, lần đầu tiên tôi được nghe những lời lẽ giản dị, thông minh của người mujich Nga. Theo tôi, những hiểu biết của ông khá rộng, nhưng ông không biết đọc.

Kalinưts thì biết đọc. "Gã vô công rồi nghề ấy chữ nghĩa khá lắm - Khôr  nói - ong của gã chẳng bao giờ chết cả". - "Thế ông có cho các con ông học chữ không?". Khôr  im lặng. "Fêđya biết chữ" - "Còn những người khác?" - "Những đứa khác không biết". - "Sao thế?" - ông già không trả lời và lái sang chuyện khác. Nhưng, dù rất mực khôn ngoan, ông ta cũng có nhiều thành kiến và thiên kiến.

Chẳng hạn, ông ta khinh miệt phụ nữ tới tận đáy lòng, và lúc vui đùa, ông ta thường giễu cợt và nhạo báng họ. Vợ ông, một bà già hay càu nhàu, suốt ngày không rời khỏi bếp lò, luôn mồm cằn nhằn và chửi mắng. Các con trai không chú ý gì đến bà, nhưng các con dâu thì bà có cách làm cho họ biết sợ Chúa. Chẳng phải vô cớ mà trong bài ca Nga, một bà mẹ chồng hát: "Mày đâu phải là con trai ta, mày đâu xứng làm chủ gia đình? Mày không đánh vợ, mày không đánh con vợ trẻ...".

Nhiều lần tôi định bênh vực các cô con dâu, thử khêu gợi cho Khôr thông cảm với họ, nhưng ông bình tĩnh phản đối: "ông cứ thích bận tâm đến những... chuyện vặt vãnh ấy làm chi, mặc cho các ả cãi cọ xâu xé nhau... Can chúng ra thì còn tệ hơn là đằng khác và cũng chẳng bõ bẩn tay". Đôi khi, bà lão ác nghiệt từ trên bếp lò lần xuống, gọi con chó giữ sân đang ở phòng ngoài: "êu, êu, lại đây, lại đây" và bất ngờ dùng cái cào than quất vào tấm lưng gầy guộc của nó, hay bà ta đứng dưới mái hiên và theo lối nói của Khôr - "sủa" tất cả những người đi qua. Tuy nhiên, bà ta sợ chồng, và khi chồng ra lệnh thì lập tức trở về chỗ của mình trên bếp lò. Nhưng nghe Kalinưts và Khôr  tranh cãi nhau về ông Pôlutưkin thì mới đặc biệt thú vị.

"Này, Khôr, anh đừng nói động đến ông chủ trước mặt tôi" - Kalinưts nói. "Thế tại sao ông ấy không đóng cho anh đôi ủng?" - Khôr phản đối, "Ủng với iếc! Tôi cần ủng làm gì? Tôi là dân mujich..." - "Thì tôi cũng là mujich, thế mà anh xem...". Khôr  vừa nói vừa giơ một chân lên cho Kalinưts xem chiếc ủng có lẽ làm bằng da ma mút - "Ôi chào, anh có phải cánh mujich như tôi đâu?" - Kalinưts trả lời. "Thì ít nhất ông ấy cũng nên cho anh tiền mua giày bện bằng vỏ cây chứ: ngày nào anh cũng đi săn với ông ấy cơ mà. Có lẽ mỗi ngày anh phải bện một đôi giày hẳn thôi".

- "Ông ấy vẫn cho tôi tiền mua giày đấy chứ". - "Phải, năm ngoái ông ấy biếu anh mười cô pếch".

Kalinưts bực tức quay đi, còn Khôr  cười sằng sặc và đôi mắt ti hí của ông ta hoàn toàn biến mất.

Kalinưts hát khá hay và đôi khi chơi balalaika. Khôr  nghe, nghe mãi, rồi đột nhiên ngả đầu sang một bên và cất giọng ai oán hát theo.

Đặc biệt ông ta thích bài: "Số phận của ta, ôi số phận". Fêđya không bỏ lỡ dịp chế nhạo bố, "Kìa, bố, sao lại tỏ ra mềm yếu thế!" Nhưng Khôr  vẫn chống tay lên má, nhắm mắt và tiếp tục than vãn về số phận của mình... Nhưng lúc khác thì không ai hoạt động hơn ông: lúc nào ông cũng loay hoay làm một việc gì: chữa xe ngựa, chống lại hàng rào, xem lại bộ dây cương. Nhưng ông ta không quan tâm lắm đến sự sạch sẽ, và có lần, khi tôi nêu lên nhận xét, ông ta trả lời rằng: "Nhà phải toát ra hơi hướng người ở".

Tôi phản đối: "Ông xem đấy, chỗ nuôi ong của Kalinưts sạch sẽ biết bao".

"Không sạch thì ong không ở, ông ạ" - ông ta nói và thở dài.

Lần khác, ông ta hỏi tôi: "Thưa ông, ông có đất thế tập không?" Có cách đây xa không ạ?

- Chừng một trăm dặm.

- Thế ông vẫn ở nơi đó đấy chứ, thưa ông?

- Tôi vẫn ở đấy.

- Nhưng có lẽ ông thích xách súng đi săn nhiều hơn đấy nhỉ?

- Thú thật là đúng như thế.

- Thưa ông, ông làm thế mà hay đấy: cứ bắn gà lôi cho thật nhiều vào và thay người trông coi ấp càng thường xuyên càng hay.

Sang ngày thứ tư, buổi chiều, ông Pôlutưkin cho người đến đón tôi. Tôi lấy làm tiếc vì phải chia tay với ông già. Tôi cùng với Kalinưts lên xe ngựa.

- Thôi, tạm biệt ông Khôr. Chúc ông mạnh khỏe.

Tôi nói:

- Tạm biệt Fêđya.

Vâng, rước ông đi, đừng quên chúng tôi nhé.

Xe chúng tôi chuyển bánh. Hoàng hôn vừa xuống, ráng trời đỏ rực.

- Thời tiết ngày mai đẹp lắm đây - Tôi nhìn bầu trời sáng sủa và nói.

- Không, trời sẽ mưa - Kalinưts bác lại - Vịt đang rũ lông cánh trong nước kia kìa, và cỏ bốc mùi rất rõ.

Xe chúng tôi đi vào giữa những bụi cây.

Kalinưts cất tiếng hát khe khẽ, người nảy chồm chồm trên ghế xà ích, và vẫn đăm đăm nhìn bầu trời hoàng hôn...

Hôm sau, tôi rời nhà hiếu khách của ông Pôlutưkin.

Danh sách chương


Sách tương tự