SỰ TÍCH DZANECKA
Song trong hàng dân giã tại thành Rajagriha có nhiều người thấy thiên hạ vô số theo Bụt-Như-Lai mà thọ giáo thì có lòng kinh khủng, vả lại chẳng thiếu chi người khi nghe Ngài truyền Chơn-Pháp Chơn-Ngôn rồi bèn bỏ gia quyến mà đi tu đặng dõi theo Bụt-cả.
Như thế thì vợ của các người bỏ mà đi tu ấy sau sẽ trở nên thể nào? Quả thiệt Bụt Cù-đàm đến đây làm cho nhiều người phải cô thân góa bụa, không thế lại sanh con cháu. Đó, các công-tử trong xứ thảy đều theo Bụt mà qui-y thọ pháp, thì thành Rajagriha hết người sang trọng, lấy chi mà làm danh dự cho thành.
Các người ấy giận dữ quá lẻ bèn đón đồ-đệ của Bụt mà nhục mạ, các đồ-đệ báo cùng Ngài. Ngài bèn thuật một chuyện cho đồ-đệ nghe đặng vững lòng nhiệt thành; chuyện ấy như vầy:
«Thuở xưa kia trong xứ Mitila có một vua tên là Dzanecka cai trị một xứ rất to, danh tiếng cả dấy tứ phang. Hai ông Hoàng con tên là Arita và Paula lại làm cho danh vọng vua cha càng ngày càng tỏ rạng.
Vua cai trị xứ Mitila đặng năm chục năm rồi Ngài băng. Vẩn lúc sanh tiên tại vì vua nầy hằng lo cho dân an cư lạc nghiệp, lo cho xử sở phong nẫm thạnh vượng, nên hồn vua thượng cỏi tiên mà hưởng phước tiêu diêu.
Ông Hoàng anh là Arita lo tống táng vua cha một cách sang trọng, làm đủ các lễ nghi và trai giới theo lệ, đoạn thượng vị nối quyền cho cha, phong chức cực phẩm cho ông Hoàng em là Paula lảnh chức chấp chưởng binh quyền trong xứ.
Anh em đều thuận hòa cùng nhau, xứ sở càng ngày càng cường thạnh.
Song ngày kia có quan trong trào tánh hay ganh hiền ghét ngỏ bèn làm bổn-chương mà sàm tấu cáo gian cho ông Hoàng Paula. Vua anh hốt hỏa lôi đình không suy đi xét lại bèn cất chức em và hạ ngục.
Song nhờ vì vô tội mà ông Hoàng Paula thoát khỏi lao lung, trốn qua địa phận kia là chỗ thiên hạ còn nhiều người trung hậu cùng mình. Cả thảy khi nghe tin như vậy bèn tựu nhau đến mà phục sự, chiêu tập anh hùng, hưng binh đối địch cùng vua Arita.
Hai anh em đánh nhau một trận rất dữ. Binh vua bị tử trận không còn một ai, vua cũng bị trận ấy mà bỏ mạng, thì ông Hoàng Paula lên ngôi thế quyền cho anh.
Lúc ấy vợ vua Arita đang thọ thai. Khi nghe chồng bại trận mà bỏ mạng thì sợ hải quá chừng, bèn toan trốn qua xứ Tsampa là chỗ có bà còn ở đó. Song nghĩ rằng nếu đi tay không, ắt không khỏi đói khát, bà Hoàng hậu bèn đáo soát cùng viên tóm thâu bửu vật vàng ngọc giấu vào thúng, đoạn đổ lúa lên trên mặt, lấy quần áo rách mà đậy lại, cải trang giả thương khách, đội thúng lên đầu, từ biệt hoàng thành mà trốn chẳng ai hay biết chi ráo.
Khi đi đã khá xa, vì mỏi mệt mà dừng chơn, vào miễu kia cất gần quan lộ mà nghỉ mệt. Song bà Hoàng hậu lấy làm lúng túng chẳng biết đường nào về Tsampa. Đụng ai đi đường cũng hỏi, mà không ai biết. Bà giả hỏi đường về Tsampa mà thăm chồng là người buôn bán, mà cả thảy trả lời rằng không biết.
Có một hai người thấy bà nhan sắc lạ thường và lời nói cũng lấy theo tên ông cha mà đặt là Dzanecka. Thái-tử tự ấu chí trưởng đến 15 tuổi mà chưa rõ tông-tích là còn ai. Song ngày kia con nít nhà hoang thấy không cha bèn kêu ông hoàng nầy là: con đờn bà góa.
.
Khi Ngài thấy các thầy Ẩn tu còn gọi Ngài là Cù da02m thì Ngài nói rằng: ‘’Các người chớ gọi ta là Cù đàm nữa, vì nay ta đã thành Bụt chí tôn rồi’’.
Chàng ta lấy làm lạ bèn hỏi căn do thì mới rõ nguồn cơn tự sự: cha bị tử trận, mẹ bị phiêu lưu.
Chàng ta bèn sanh tâm khao khát sự hoán cừu. Song muốn phục nghiệp ông cha thì trước phải có binh gia và tiền bạc mới được. Chàng va bèn xuất thân buôn bán đặng kiếm bạc tiền mà cử đồ đại sự.
Tính rồi chàng va mới đi mướn một chiếc tàu, trương buồm nhắm thành Caumawatoura trực tấn.
Song ra khỏi vừa được hai ngày tàu bị một trận bão to thổi dập vào lố bể nát. Cả thảy bạn bè chết ráo, duy còn một mình ông hoàng-tử nhờ ôm được tấm ván nương theo lượng sóng mà chịu ba đào giữa biển minh mong.
May có một nàng tiên kia là thần coi việc biển giả thấy Thái-tử nầy gần lụy, bèn ra tay tế-độ, đem thẳng về xứ Mitila là chỗ khi trước vua cha trị-vì thiên hạ. Đến nơi nàng tiên để Thái-tử nằm trên thạch bàn là chỗ nhiều đời vua xứ Mitila thường hay tiệc yến tại đó. Thái-tử nằm trên thạch bàn ngủ an giấc điệp.
Song le áp ngày ấy vua xứ Mitila đã thăng hà để lại một nàng công-chúa mỹ danh là Thiwali. Trước khi tắt hơi vua có hội quần thần mà phán rằng: «Trẫm chết không con trai kế vị, thì người nào mà công-chúa Thiwali chọn làm chồng thì sẽ được kế-vị cho Trẫm làm vua xứ Mitila. Nên chư khanh khá chọn lựa kỉ càng, được người lịch lãm như vì Thượng-đế, mạnh như bão tố, thông minh như các đứng thiên-văn hữu danh, có sức giương cây cung nầy mà trăm tướng giương không nhút nhích, sẽ có tài tìm được cái chỗ Trẫm đã chôn giấu mười ché vàng, trí hóa phải bằng tài lực, thì mới nên gã công-chúa cho đó.
Quần thần tống táng vua một cách trọng thể. Khi các việc an bài, thì lại lo kiếm chồng cho công-chúa Thiwali. Chẳng thiếu chi nơi đến mà chưa ai đặng việc.
Quần thần phân phân bất nhứt, bèn để diên trì mà cầu may, dạy bắt một cặp bò trắng thắng vào xe đoạn cùng nhau lên ngồi thả vàm để bò đi thông dong tự ý.
Tuy con mắt phàm không thấy được chớ có tiên ra tay dẫn cặp bò trắng ấy kéo xe đến nơi thạch bàn là chỗ Thái-tử đang an giấc điệp.
Quần thần bèn kêu Thái-tử dậy rồi dắt đi ngả đông-môn mà về thành. Khi các quan thuật lại lời thác cố của vua, thì Thái-tử liền lấy cung mà giương dễ như chơi, đoạn đi tìm được mười ché vàng thì các quan bèn gã công-chúa Thiwali cho Thái-tử Dzanecka. (Anh em nhà chú nhà bác lấy nhau.)
Nhơn dân hớn hở, có vài ngàn Đạo-nhơn dùng bình-bát trắng múc nước mà đổ trên bệ ngai, chúc Tân-vương xứ Mitila muôn muôn tuổi thọ.
Vua nầy là con vua Arita Dzanecka ở ngôi lâu năm. Song số mạng Ngài đã có tiền định sau phải xuất gia đầu Bụt.
Số là ngày kia Ngài đi dạo trong ngự-huê-viên, bỗng thấy hai cây xoài, một cây thì cẳn còi khô héo, còn cây kia thì sum sê hoa quả, trái chín tương tợ trứng vàng. Ngài bèn thừa ưa hái một trái, thì các quan theo hầu liền bắt chước hái cả trái cả lá. Khi vua trở về thấy vậy bèn phán rằng: «Quả thật của cải thế gian đều có gian tặc mong nom, nay về tay người nầy, mai về tay người khác, thế cuộc nào khác cây xoài nầy. Bởi vậy ta khá tìm kiếm thứ của báu nào mà không ai tranh hành thì mới bền vững được».
Vua nghĩ như thế bèn lén mặt áo casa rồi bỏ đền mà đi.
Vua ra khỏi đền đi tìm nơi thanh vắng mà tu trì là vào rừng trên núi Himawonta. Song bà Hoàng-hậu rất nên buồn thảm, trông chồng một ngày một biệt, bèn đi kiếm và gặp Ngài liền theo Ngài lên núi.
Vẩn ngày kia Ngài đi ngang qua gần thành Daunou, Ngài dừng chơn trước phố người bán tên mà hỏi rằng: «Làm sao mà khi nhắm cây coi ngay hay vậy, mà mầy lại nhắm một con mắt, sao không mở hết hai con mà coi?» Người bắn tên trả lời rằng: «Dạ, bởi vì nếu tôi mở hết hai con mắt mà nhắm cây tên ngay hay vậy, thì chắc phải sai, vì hai con dành nhau làm cho tôi xem không chính đính».
«Còn thầy, sao thầy đã xuất gia đầu Bụt mà lại đem đàn-bà theo bên lưng làm gì ăn mặc nhổn nha như vậy? Quả thiệt người đàn-bà ấy là con mắt thứ nhì, nó sẽ làm cho thầy đi chẳng nhằm đường ngay mà vào nơi tốt lành vậy.»
Khi Ngài day lại thì thấy bầy con trẻ đang chơi có đứa nhỏ tay tả đeo một chiếc vòng vàng, tay hữu đeo một chiếc vòng vàng và một chiếc vòng bạc, Ngài bèn hỏi nó: «Sao khi mầy giơ tay mặt thì nghe rổn rảng mà tay trái lại yêm liềm?» Con nhỏ ấy đáp lại rằng: «Dạ thưa, tay mặt tôi không khác nào những người ở chốn hồng trần: vòng vàng, vòng bạc, vợ vợ, chồng chồng, cả cuộc hằng ngày hay động nhau thì thật tình trong lòng cũng động vậy. Còn tay trái tôi thì khả tỉ như các đạo-nhơn đà phủi rồi thế sự, vào nơi thanh tịnh mà lo việc tu nhơn tích đức đặng đến chốn tốt lành».
Khi Ngài nghe các lời tỉ thí cao sâu như vậy, Ngài bèn nhứt định từ cuộc thế tình mà tu trì chơn-đạo. Trước khi vào rừng cả, ngọn cao tột mây xanh trên núi Himawonta, Ngài bèn bẻ một nhành cây trao cho bà Hoàng-hậu mà phán rằng: «Đôi ta chẳng khác nào như nhành nầy đã lìa cội, há trông cho đây đó sum vầy được sao. Ấy vậy từ đây vợ chồng ta phải phân rẽ đôi phang».
Nói rồi Ngài bèn đi tuốt vào rừng. Bà Hoàng-hậu khóc lóc than van rất nên thê thảm, đoạn trở về Mitila mà tu nhơn tích đức, bố thí của cải cho kẻ nghèo nàn. Khi bà chết bèn đặng vào tiên cảnh mà hưởng phước tiêu diêu.
Còn vua Dzanecka là con vua Arita Dzanecka lập được nhiều công quả rất to, qua kiếp khác được thành Bụt. Bụt ấy là ta đây, đang giảng đạo cho các ngươi nghe.
Còn các người kia là: đứa con gái đeo vòng đó nay đã thành đồ-đệ yêu dấu của ta, người bán tên đó là Ananda (Át-nan-đà) là đồ-đệ trung tín của ta.
Bà Hoàng-hậu Thiwali sau đặt tên là Yasodara (Ra-ru-đà-la).
Mặc tình những đứa ít đức tin, để nó nhục mạ chúng ngươi. Chúng ngươi khá thình lòng giữ trọn làm theo các lời của đồ-đệ yêu dấu ta, là Purna trong khi ta sai nó qua xứ Chronaparenta mà truyền nhơn đạo.
Các lời đối đáp ấy như vầy:
«Purna ôi! Vẫn dân xứ Chronaparenta nhiều đứa tàn bạo độc dữ, nếu chúng nó nhục mạ mi, thì mi tính làm sao?
- «Dạ, Bạch quá Tôn-sư, tôi sẽ chẳng trả lời, miễn là chúng nó chửi mắng mà đừng lấy tay đánh hoặc lấy đá quăng thì cũng nên cho chúng nó là kẻ hiền lương đó.
- «Còn như chúng nó lấy tay đánh mi thì mi liệu thế nào?
- «Dạ, Bạch quá Tôn-sư, tôi cũng cho chúng nó là có lòng nhơn từ, vì chúng nó không dùng dao mà chém tôi.
- «Còn như chúng nó giết mầy, mầy mới liệu làm sao?
- «Dạ, Bạch quá Tôn-sư, ấy là chúng nó có lòng quảng đại, vì nhờ chúng nó, tôi tuy chịu đau ít hơi, mà được từ biệt xác phàm khốn nạn nầy».
Đó là các lời của Purna đáp từ cùng ta vậy. Hãy noi theo gương ấy mà đi tứ phang giảng dạy Chơn-ngôn.
Vì khi ấy Ngài đà đang sửa soạn sai một tốp đồ-đệ khác đi khắp xứ Kosala và xứ Nagadha mà truyền Chơn-pháp.