← Quay lại trang sách

BỤT NHƯ-LAI HỒI CỐ LÝ

Trong cơn Bụt Cù-đàm truyền Chơn-Pháp tại Rajagriha, có nhiều dân theo đạo hằng hà sa số như hoa đua nở trên cây thì vua Đầu-đồ-ra là cha của Bụt ở tại cung trong xứ Ca-duy-la-việt buồn bực vô cùng, một ngày thêm một già.

Cách đã sáu năm con yêu dấu bỏ cha già, bỏ vợ yếu con thơ, bỏ sự giàu sang, ngôi báu mà đi vào rừng tìm chỗ u nhàn Uruwela tu niệm.

Lâu lâu có tin về đến Ca-duy-la-việt quốc một lần. Trong lúc sau đây trên trời dưới đất có trổ điềm cho nhơn dân xứ Ca-duy-la-việt hay rằng Thái-tử tu hành thông thạo các phép nay đã thành Bụt rồi.

Sau nữa khi Ngài qua tại xứ Xá-lợi mà truyền Chơn-ngôn, thiên hạ theo đạo đông lắm, thì bên Ca-duy-la-việt-quốc cũng có nghe tin.

Cho nên vua Đầu-đồ-ra bèn triệu một vị đại thần đến mà dạy rằng: «Trẫm muốn thấy mặt con Trẫm trước khi thăng hà. Ngươi hãy dẫn theo 1000 binh do đường hướng đông qua đến xứ Magahda là chỗ con Trẫm đang giảng dạy Chơn-Pháp mà nói với con Trẫm rằng nay Trẫm đã gần đất xa trời, muốn thấy mặt con trở về cố-lý».

Quan Đại-thần ấy phụng mạng do theo đường hướng đông đến chùa Welouwon ở gần cửa thành Rajagriha, trong lúc Bụt giảng dạy rất thạnh hành. Song khi nghe Bụt giảng dạy thì quan Đại-thần quên lịnh vua bèn cùng 1000 binh qui pháp, mặc áo cà-sa ở chung lộn cùng bổn đạo mà tu niệm. Khi vua Đầu-đồ-ra thấy sao Đại-thần không về, bèn sai sứ thứ nhì, sứ thứ ba, tới sứ thứ bẩy, mà cả thảy cùng binh-gia đều nghe Chơn-ngôn mà không chịu trở về. Thì vua Đầu-đồ-ra lấy làm phiền não, vua bèn đòi quan Tâm-phúc đến là ông Kaloudari. Vẩn ông Kaloudari nầy sanh trưởng một thời với Thái-tử Sỉ-đạt-tha. Cả hai thuở ấu-xung hằng tương thân tương ái. Vua phán cùng ông Kaloudari rằng: «Con hãy qua đó mà rước Bụt Cù-đàm về đây, Trẫm còn có một mình con là kẻ tin cậy mà thôi».

Khi Kaloudari qua bên đó nghe lời Bụt truyền giáo, bèn giải binh-giáp, mặc áo cà-sa và choàng dây tràng hạt mà tu theo các sứ kia.

Tuy vậy mà không quên lịnh vua sai. Nên khi đến ở đó được 7 ngày rồi ông bèn đến gần Bụt-Như-Lai lạy ta theo phép đoạn nói rằng: «Muôn lạy ngàn lạy Bụt-Như-Lai, nay mùa mưa đã mãn, giờ thượng trình đã đến rồi.

.

Nay cây cỏ đang trổ sanh hoa quả dọc theo đường, sen trắng, sen xanh đang đua nở trên mặt hồ.

Kìa các loài phi-cầm đang lăng lăng liếu liếu, chuyền qua bay lại mà lo làm ổ.

Giờ thượng-trình viển vọng đã đến rồi, tại xứ Ca-duy-la-việt, vua Đầu-đồ-ra đang phiền muộn, ước mơ cho đặng thấy mặt Ngài trở về cố-lý».

Bụt-Như-Lai nghe vậy bèn nhậm lời. Ngài liền nhứt định chọn một muôn đạo-nhơn xứ Magadha và một muôn đạo-nhơn ở xứ Ca-duy-la-việt là sứ và binh của vua cha đã sai qua đó mà họ theo tu không chịu về, cả thấy hai muôn đạo-nhơn theo hầu Ngài mà hồi cố-lý.

Đường đi từ đó qua cho đến Ca-duy-la-việt-quốc là 600 dặm; Ngài định đi 60 ngày cho đến nơi.

Qua ngày khỉ sự thượng-trình có trăng thì do theo đường hướng tây mà trực chỉ.

Ông Kaloudari tức tốc về xứ cho vua Đầu-đồ-ra hay rằng Thái-tử Sỉ-đạt-tha nay đã thành Bụt Chí-tôn, đã khấn chịu hồi cố-lý mà thăm cha già.

Nhờ phép của Bụt nên ông Kaloudari đằng vân không đầy một phút đã đến Ca-duy-la-việt-quốc rồi mà truyền tin lành.

Vua Đầu-đồ-ra khóc mừng, bèn dạy dọn yến mà đãi tôi trung là ông Kaloudari. Khi dự yến rồi, ông bèn bỏ cơm và đồ ăn vào đãy, đoạn đằng vân mà trở lại dưng cơm cho Bụt. Mỗi ngày ông Kaloudari cứ việc bay qua bay lại đem cơm nước sấm tại xứ Ca-duy-la-việt mà dưng cho Bụt đến lúc dừng chơn lại nghỉ mà dùng.

Còn tại thành Ca-duy-la-việt thì thiên hạ đang sắm sanh lễ vật sửa sang các cuộc huy hoàng đặng nghinh tiếp Bụt-Như-Lai cho xứng đáng.

Họ ra ngoài thành lựa một chòm cây sum sê, dọn quét sạch sẽ đặng cho Bụt-Như-Lai và các sãi tạm nghỉ tại đó.

Khi hay Ngài đi gần tới thành thì thiên hạ chạy ra ngoài thành mà nghinh tiếp, con nít đi đầu ôm bông mà rãi cùng đường.

Song các ông hoàng thấy Thái-tử Sĩ-đạt-tha được danh dự hiển vang dường ấy thì sanh lòng tật đố bèn nghĩ rằng: Vẩn va là cháu ta, ta há đi phải cung kính va sao?

Song le Bụt-Như-Lai đã rõ thấu lòng người, mạc hiện hồ ấn, mạc hiển hồ vi, bèn phi đằng lên mây cho mưa tuôn xuống làm cho thiên hạ và bông huê ướt dầm. Các ông hoàng cùng là dân thứ liền quì gối xuống, còn vua Đầu-đồ-ra lạy con mà nói rằng: «Khi mới sanh con ra thì cha đã một phen cúi đầu trước mặt con, đến sau vì có điềm tiền định cha lại lạy con trong lúc ăn lễ thân-canh tịch-điền. Nay con đã tốt chỗ lành rồi thì cha tuy đầu râu bạc trắng cũng cúi đầu lạy con lần nữa».

Đó Bụt-Như-Lai đã hồi cố lý, dừng chơn trước cửa thành trong vườn Nigraudatha mà nghỉ ngơi.

Sáng ra Ngài dẫn hai vạn đạo nhơn theo hầu Ngài mà đi phổ-quyến đặng ăn mỗi ngày. Khi dân thấy Ngài sao hạ mình đi xin ăn vậy thì lấy làm lạ mà nói rằng: «Có lẽ nào kỳ vậy, Thái-tử Rahula là con Ngài, bà Công-chúa Yasodhara (Ra-ru-đà-la) đi loan xa phụng tán, còn Ngài sao lại phải mặc áo vàng đến từ nhà mà hành khất từ bữa vậy?»

Khi vua cha Đầu-đồ-ra hay được việc ấy bèn đến mà la dứt con thì Bụt-Như-Lai trả lời rằng: «Dạ, thưa phụ-vương, phụ-vương phán rằng vẫn tôi là nhành vàng lá ngọc, không lẽ đi hành khất như rứa sao cho xứng đáng con vua. Thưa phụ-vương nay con đã thuộc về đám trọn lành không còn dính dấp sự sang trọng thế gian nữa rồi, nên con phải hành khất như đồ-đệ con vậy».

Vua Đầu-đồ-ra khi nghe Bụt-Như-Lai cắt nghĩa như thế thì hiểu là bổn tánh của con đã tột bực rồi.

Thái-tử Sĩ-đạt-tha nay đã thành Bụt, bèn về đền cũ. Bà Công-chúa Ra-ru-đà-la đang đợi Ngài trong cung.

Khi Bụt-Như-Lai vào nội cung thì bà Công-chúa Ra-ru-đà-la mọp xuống ôm chơn Ngài kê đầu và chơn, thì vua cha Đầu-đồ-ra thuật lại cho Ngài hay rằng trong lúc Ngài vắng mặt hèn lâu, dâu ở nhà trực tiết rất nên hiếu hạnh và giữ nghĩa cùng chồng trọn đạo.

Khi nghe tin Ngài đã qui tăng thì bà Công-chúa sấm áo vàng một màu áo với áo tăng mà mặc. Khi nghe Ngài mỗi ngày dùng có một bữa cơm thì bà Công-chúa cũng làm theo như vậy.

Từ ngày Ngài bỏ đền mà đi thì bà Công-chúa bỏ giường ngà chiếu ngọc cứ nằm giường bậy bạ nghèo nàn đặng mà hãm mình noi gương chồng, bỏ hết các hương vị khi trước ưa dùng và thân thể không hề trau tria như trước nữa.

Bụt-Như-Lai nghe nói vậy bèn đáp rằng: «Làm như vậy mới là phải đạo, sau chắc đặng công quả to».

Bà Công-chúa cứ một lòng muốn theo chồng mà tu niệm đặng đến nơi tột lành.

Cũng trong lúc ấy em Bụt là Ông Hoàng Nanda đặng tôn lên làm Thái-tử Đông-Cung. Song Bụt dạy em phải từ chức mặc áo vàng theo anh mà tu niệm thì em cũng vâng lời, dầu vợ mới gá tiếng khóc than năn nỉ thế mấy, đứng gần cửa sổ dòm theo dặn Thái-tử sao sao cũng trở về mặc lòng. Thái-tử cứ việc đi mà thôi.

Bởi đó con Bụt là Rahula được phong lên chức Đông-cung, bà Ra-ru-đà-la bèn sai con đến lạy cha mà lảnh gia tài.

Bụt bèn dạy rằng: Thái-tử là con ta rất yêu dấu, nay đến xin ta của cải thế gian là đồ hữu hình tắc hữu hoại, ta vẫn muốn cho nó của cải chẳng hề hư mất. Ngài nói rồi bèn dạy đồ-đệ Maukalan lấy dao cạo đầu Thái-tử và cho mặc áo vàng, choàng dây trường-hạt.

Ngài đã làm như vậy là có ý dạy hễ ai muốn vào niết bàn thành bụt thì phải qui tăng thì có thế dễ hơn là làm vua chúa ở đời. Ngài bèn ghi vào Bụt-Pháp rằng: tự tư dỉ hậu, ai muốn tu trì trước phải xin phép cha mẹ mới được. Vua Đầu-đồ-ra không ai kế trị mà khi thấy vậy bèn mừng.

Khi Bụt-Như-Lai ở tại Ca-duy-la-việt-quốc được ít lâu làm nhiều phép lạ, nhơn dân rất kính phục, hằng lo cho Bụt-Pháp thạnh hành, dụ dỗ thân quyến vào Chơn-đạo, đoạn Ngài từ biệt quê hương, bỏ núi Ca-duy-la-việt-quốc mà xuống đồng trảng sông Gange, đến đâu đều dạy thiên hạ phép mới, lần lần Ngài sang qua các xứ hướng nam và xứ Rajagriha.