← Quay lại trang sách

PHÉP LẠ TẠI XỨ THAWATTIE

Khi ấy đến mùa mưa năm thứ bảy thì Bụt-Như-Lai bèn vào chùa Welouwon gần thành Rajagriha mà tạm nghỉ (kiết hạ). Vẫn trong thành ấy có một người cự phú mà tánh tình cứng cỏi không chịu theo đạo Bụt, mà cũng không chịu giữ theo đạo cũ xưa nay, và muốn cùng cả gia quyến kiếm tìm đạo nào trọn lành hơn hết thì mới chịu theo.

Người cự phú ấy mới lập một thế mà thử, là lựa một khúc cây bạch-đàng, kêu thợ đẽo ra như hình cái bình-bát của sãi hay dùng mà đi phổ khuyến vậy, rồi để trên bình-bát ấy một câu như vầy: «Ai giỏi bay lên trên không đem được cái bình-bát nầy xuống cho ta thì ta mới tin nghe theo lời người ấy». Các việc dọn rồi va bèn dựng một cây cột cờ bề cao 60 hắt, rồi treo cái bình-bát ấy trên ngọn.

Vẫn khi ấy trong xứ có được sáu thầy ẩn-tu rất thông minh cứ một việc không tin đạo Bụt, chẳng hề bỏ qua dịp nào mà không bài bát và bỏ vạ cáo gian cho Ngài.

Nhiều khi các thầy ẩn-tu ấy năn nỉ người giàu có nầy báo lén giao bình-bát cho đó, đặng cho dân chúng tin rằng họ có phép nhiều hơn, song va không chịu làm như thế.

Ngày kia, Đại-đồ-đệ của Bụt là ông Maukalan đang đi xin ăn, đi qua ngang gần cột cờ có treo cái bình-bát làm bằng cây bạch-đàn, ông bèn hỏi thăm treo như vậy nghĩa là gì? Vả lại ông sẵn lòng mà làm phép lạ y như lời ước của tên cự phú đặng mà tán tụng oai danh của Bụt. Song le tăng-sư đi theo ông thấy vậy bèn bạch rằng: «Việc nhỏ mọn như vậy lựa phải Đại-đồ-đệ của Bụt ra tay mà làm chi cho mất công, để cho bần tăng làm cũng được mà». Nói rồi tăng-sư định thân tưởng niệm một hồi bèn bay bổng lên trên không trung, dùng hai ngón chơn cặp theo một cục đá to bằng đền vua, bay đảo qua đảo lại cho thiên hạ coi một hồi, rồi lại gần ngọn cột cờ mà mở lấy bình-bát đem xuống đất. Tên cự-phú và các người đứng coi, lại có sáu thầy ẩn-tu lén đến đó xem, thấy vậy bèn cùng nhau theo Đại-đồ-đệ Maukalan về đến chùa.

Khi Bụt hay việc ấy, Ngài bèn quở đồ-đệ sao việc nhỏ mọn cà rỡn vậy đi làm phép lạ chi cho vô ích. Các thầy ẩn-tu nghịch đạo ấy bèn cắt nghĩa cho dân nghe rằng: Bụt mà rầy đồ-đệ không cho làm phép lạ như vậy là vì Bụt không chắc mình làm phép lạ được. Ngài hay được bèn tâu với vua xứ Rajagriha khi ấy có đến coi, ráng trong bốn tháng nữa, Ngài sẽ làm phép lạ tại xứ Thawattie, lạ cho đến đổi kẻ nghịch đạo sẽ phải khâm phục.

Các Ngài ẩn-tu nghe Ngài nói vậy thì trong lòng lo sợ hằng ở gần Ngài luôn, ngày đêm không dám bỏ đi. Vì Ngài có nói làm phép lạ thứ nhứt dưới bóng cây xoài, nên các thầy ẩn-tu sai lén người đi đốn, nhổ hết các xoài trong xứ Thawattie.

.

Qua đến ngày rằm tháng Tabaong nhằm tháng hai tây, Bụt cùng Đồ-đệ (tự tứ) bèn từ biệt Rajagriha mà qua xứ Thawattie. Đi dọc đàng hèn lâu Ngài bèn ghé lại trước cửa thành, thì có một người làm rẩy, rất khiêm cung đường xa chạy lại đem dưng cho Ngài một trái xoài. Ngài bèn nhặm lấy và ăn rồi Ngài giao hột cho Át-năn-đà dạy đem đi lựa chỗ mà trồng đặng mà phá nghi đám nghịch đạo. Vừa trồng rồi thì xoài vừa trổ lên một cội to bề cao 50 hắt. Các sái nghịch đạo thấy phép lạ như vậy phải mãn diện đàm tu kinh hoàng mà chạy trốn mất. Người đầu đảng tên là Pourana tức mình bèn lấy đá cột cổ nhảy xuống sông trầm nghịch mà thác, hồn xuống rốt đáy địa ngục, kêu là ngục Awidzi.

Đó rồi Ngài cứ làm phép lạ: là Ngài lập trên không-trung giữa trời một đường cái từ Đông qua Tây mỗi đầu thấu tột biên cảnh thế gian. Khi mặt trời trịch qua khỏi giờ ngọ mà khỉ sự ngã về Tây, thì trước mặt bá tánh đến coi đứng chặc đôi ba cái thành vậy, Ngài bèn bước lên thang mà lần theo đường đã lập giữa trời ấy.

Khi ấy có một bà tên là Garamie thuộc đám 500 bà công theo bà Hoàng-hậu Papzapati vào chùa mà tu đó, là một cô vải sốt sắn, bước lại gần Ngài mà bạch rằng: «Bạch quá Tôn-sư, cần gì mà Tôn-sư phải mất công vô ích như vậy. Tôi đây là một vải mạt cũng đủ sức mà làm cho các đứa nghịch đạo phải cúi dầu xưng phục». Ngài nghe nói vậy bèn hỏi: «Vậy chớ ngươi tính làm phép lạ gì?»

- Dạ, Bạch quá Tôn-sư, tôi sẽ hóa nước lụt ngập tràn khắp mọi nơi, rồi tôi lặn về hướng Đông mà trồi lên hướng Tây như một con gà nước vậy. Khi thiên hạ thấy tôi lội thì chi cho khỏi họ hỏi rằng: «Ủa, gà nước ở đâu mà nhẹ nhàng lặn lội hay và mau lẹ vậy?» Thì tôi đáp rằng: «Con gà nước nầy là vãi Garamie, con của Bụt-Như-Lai chớ chẳng ai đâu!»

Thì mấy đứa nghịch đạo sẽ nói rằng: «Nếu vãi Garamie mà làm được như thế thì tôn-sư nó lại làm phép chi chẳng đặng sao?» Song Bụt không nhận lời mà nói rằng: «Vẫn bá-tánh nhóm đến đây đặng coi ta làm phép lạ, nên ta phải làm cho họ coi».

Nói đoạn Ngài nhảy lên trời do theo đường giữa không-trung đặng thiên-hạ coi cho tường tận, rồi Ngài hóa ra một ngọn sông thanh thủy bắt từ đầu Ngài xẹt lên trên trời, dưới chơn một cái sông lửa xẹt xuống tột đất, con mắt hửu xẹt lửa sáng lòa, con mắt tả xẹt nước, lửa nước xen lộn nhau mà không hề chỏi nhau. Ngọn thanh thủy xẹt lên cho đến từng trời các Bụt-tổ ở, xẹt xuống thì thấu đáy địa-ngục. Mình Bụt chói lòa hào-quang rỡ rỡ, cả ngày Ngài cứ làm nhiều phép lạ đặng mà truyền Chơn-Pháp.

Chiều lại Ngài mới nghĩ như vầy: «Khi xưa các Bụt-tổ trong mùa mưa đã làm các phép lạ rồi thì đi tạm nghỉ tại nơi mô? Thì trí hóa Ngài bèn hiểu các Bụt-tổ khi ấy rút lên cỏi thần tiên Thawadeintha đặng truyền cho mẹ hay biết Chơn-Pháp.

Bởi ấy Ngài cũng làm y như trước, cũng bay bổng lên chóc núi Miên-mô mà thượng tiên-vức Thawadeintha.

Bá-tánh thấy Bụt biến đi đâu mất thì lấy làm sảng sốt, ta nha thiết xỉ chẳng cùng rằng: «Cha chả, đứng trọn lành như vậy đi đâu mất, biết đời nào cho chúng ta được thấy mặt nữa?»

Song Đại-đồ-đệ Maukalan muốn vổ về bá-tánh bèn nói rằng: «Bá-tánh chớ khá buồn rầu, Tôn-sư đã lên cỏi tiên Thawadeintha đặng truyền Chơn-Pháp cho từ-mẫu Ngài hiểu, từ-mẫu Ngài là bà Maya Tịnh-diệu. Đúng ngày rằm tháng mười trăng ló mặt thì Ngài sẽ trở về đây cùng chúng ta». Thảy thảy thiện-nam tín-nữ (1) điều tin Đại-đồ-đệ Maukalan bằng lời, đốn lá cất nhà tạm ở đó mà chờ Bụt-Như-Lai trở về, hằng ngày cứ việc nghe Đại-đồ-đệ Maukalan truyền luật đạo.

Chú thích:

(1) Thiện-nam tiếng chà-và kêu là Upasakas Ưu-bà-tát. Tín-nữ: Ưu-bà-rị.