← Quay lại trang sách

Chương 4 .

Một diễn đàn mới

Trong cuộc gặp gỡ tháng 7 với Xuân Thuỷ, J.Sainteny nói rằng Tổng thống Mỹ nhờ ông hai việc. Thứ nhất là chuyển thư của Nixon gửi Hồ Chủ tịch, ông đã làm xong; việc này chỉ có ba người biết và bây giờ có thêm Xuân Thuỷ nữa. Phó Tổng thống Agnew và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ cũng không biết. C. Lodge, trưởng đoàn Mỹ ở Hội nghị Paris cũng không biết. Thứ hai là bố trí cho H.Kissinger gặp Xuân Thuỷ. Ông J. Sainteny đề nghị cuộc gặp giữa hai người sẽ vào ngày 4 tháng 8, hôm đó Kissinger sẽ từ Lon don đến. J.Sainteny còn sẵn sàng dành nhà riêng của ông ta cho cuộc tiếp xúc đó. Bộ trưởng Xuân Thuỷ đồng ý.

Cũng trong tháng 7 này, toàn thế giới nín thở nhìn Neil Amstrong, con người đầu tiên của Trái Đất, từ con tàu Apollo XI đặt bước chân đầu tiên xuống bề mặt Mặt Trăng. Ngày 23 tháng 7, Nixon đi tới Nam Thái Bình Dương để đón Amstrong đổ bộ xuống biển. Đây là cơ hội tốt để ông đi thăm một loạt nước: Guam, Philippin, Inđônêxia, Thái Lan, miền Nam Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan, Rumani và Anh. Trong dịp này, Kissinger sẽ bí mật qua Paris để gặp Bộ trưởng Xuân Thuỷ.

Cuộc gặp diễn ra tại nhà riêng của ông Sainteny, số 204 phố Rivoli. Chiều hôm đó, Kissinger cùng đi với Anthony La ke, người phụ tá thân cận, và tướng Vernon Walters, tuỳ viên quân sự của Mỹ, Xuân Thuỷ đi cùng Mai Văn Bộ và Nguyễn Đình Phương. Đây là lần đầu tiên Kissinger gặp Xuân Thuỷ. Ông ta chưa gặp Xuân Thuỷ nhưng cũng đã nghe tiếng.

Ngay trong lần gặp đầu, cũng như sau này, Kissinger thấy sự đàng hoàng và sự tự tin của ông Xuân Thuỷ cũng như ông Lê Đức Thọ và các đồng chí khác của các ông đã gây ấn tượng sâu sắc đến ông ta. Họ là những người đánh du kích, sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài thất thường, chỉ xảy ra trong khuôn khổ những lần đấu tranh của họ. Mặc dầu vậy “khi họ đối diện với người đại diện của cường quốc hùng mạnh nhất thế giới, họ tỏ ra tinh tế, kỷ luật và kiên nhẫn biết bao" (H.Kissinger Sđd, tr. 292.). Ít nhất khi tiếp xúc với các chiến sĩ Việt Nam, ông Kissinger đã thấy phẩm chất khác thường của họ làm cho người đại diện của cường quốc hùng mạnh nhất thế giới phải kiêng nể?

Vào câu chuyện, Kissinger hoan nghênh cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên như thế này. Nhìn Mai Văn Bộ hôm ấy làm phiên dịch cho Xuân Thuỷ, ông nói đã biết Mai Văn Bộ từ năm 1967 và rất tiếc khi đó tìm mọi cách mà không gặp được vì ông ta có mang theo thông điệp của Johnson. Ông nhắc lại quá trình theo dõi của ông ta về vấn đề Việt Nam và biết tinh thần dũng cảm và phẩm giá của nhân dân Việt Nam. Ông ta nói rằng trong bất cứ cuộc thảo luận nào giữa hai bên đều được phía Mỹ tiến hành với sự kính trọng tinh thần dũng cảm và phẩm giá của nhân dân Việt Nam. Ông ta hỏi là đã có thư trả lời cho bức thư của Nixon chưa?

Xuân Thuỷ:

- Chúng tôi đã được ông Sainteny chuyển bức thư không đề ngày tháng của Tổng thống Nixon gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức thư đó đã được chuyển về Hà Nội.

Kissinger:

- Đó là lề lối làm việc quan liêu của Hoa Kỳ, không đề ngày tháng vào bức thư của Tổng thống. Tôi không biết lý do vì sao như vậy Nhưng ngày của bức thư đó là ba ngày trước khi bức thư đó được chuyển đến các ngài.

Tiếp đó Kissinger bắt đầu nói về một số vấn đề mà Tổng thống Nixon yêu cầu ông ta thông báo lại cho ta. Ông ta nói rằng ở Washington người ta đọc rất kỹ tất cả những lời phát biểu của Xuân Thuỷ, nhưng "chúng tôi khó mà đành giá là các ngài làm như vậy chỉ để đạt mục đích tâm lý hay các ngài thành thật nghĩ như vậy".

Sau khi nhắc lại Mỹ có thiện chí và thành thật muốn hoà bình, ông nói: Đến tháng 11 này thì cuộc đàm phán đã được một năm (ý ông ta muốn nói thoải mái chấm dứt ném bom miền Bắc - Tác giả). Trong thời gian đó, Hoa Kỳ đã làm những việc đơn phương rất có ý nghĩa: ngừng tăng quân, ngừng ném bom bộ phận rồi chấm dứt ném bom hoàn toàn, rút 25.000 quân chiến đấu Mỹ, đã tuyên bố chấp nhận kết quả bầu cử tự do ở miền Nam. Rồi ông ta phàn nàn: Hầu như chưa có đáp ứng có ý nghĩa nào. Ở cấp cao nhất có thể được và hết sức thành thật, Hoa Kỳ định có một cố gắng nửa để giải quyết cuộc tranh chấp này trên một cơ sở đúng đắn... vào thời gian chấm dứt ném bom cách đây một năm, ngày 1 tháng 11.

Rồi ông ta xin phép đọc trả lời những điểm mà phía Việt Nam đã nêu lên nhiều lần, câu trả lời đã được đích thân Tổng thống thông qua:

- Hoa Kỳ sẵn sàng rút tất cả lực lượng của Mỹ không trừ một loại nào ra khỏi Việt Nam, xem đó như là một bộ phận của chương trình rút các lực lượng ngoại nhập.

“Tôi nói điều này hoàn toàn không có một sự bảo lưu nào".

- Hoa Kỳ không có ý định duy trì một căn cứ nào trên lãnh thổ Việt Nam.

"Điều này cũng hoàn toàn không có sự bảo lưu nào".

- Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận bất kỳ kết quả nào của một quá trình chính trị tự do.

Ông ta đưa ra một số ý kiến về quá trình chính trị đó:

- Quá trình chính trị hợp lý phải ghi nhận tương quan lực lượng hiện có... Không bên nào có thể đòi bên kia chấp nhận một cương lĩnh chính trị trên cơ sở những đề nghị tỏ ra bên kia thất bại mà không có sự phản đối... Chúng tôi không đòi hỏi các ngài phải giải tán các lực lượng cộng sản, các ngài cũng không được đòi hỏi chúng tôi phải giải tán lực lượng không phải cộng sản.

Ông cũng nhắc lại sẵn sàng thảo luận mười điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và các điểm khác của Mỹ. Ông ta cho Bộ trưởng Xuân Thuỷ biết rằng để chứng tỏ thiện chí của Hoa Kỳ, từ nay đến ngày 1 tháng 11, Mỹ sẽ rút thêm một số quân nữa khỏi miền Nam, phần nào nhiều hơn số lượng lần trước... sẽ giảm bớt mười phần trăm số phi vụ của máy bay B52 và hoạt động của máy bay chiến thuật.

Ông ta tiếp:

- Để làm cho cuộc đàm phán được nhanh chóng, Tổng thống Hoa Kỳ sẵn sàng mở thêm một con đường tiếp xúc nữa với Việt Nam... cử một phái viên cao cấp có thẩm quyền để đàm phán đi đến kết quả... Nếu cuộc đàm phán này có được thì Hoa Kỳ sẽ điều chỉnh các hoạt động quân sự để tạo ra một hoàn cảnh thuận lợi nhất để đi đến một giải pháp.

Người ta hiểu người phái viên cao cấp có thẩm quyền đó không phải ai khác mà chính là Kissinger. Ông ta nói tiếp:

- “Tổng thống cũng yêu cầu tôi nói với các ngài một cách hết sức trân trọng là nếu đến 1 tháng 11 không có sự tiến bộ quan trọng nào để đi đến một giải pháp thì chúng tôi buộc phải tiến hành một cách hết sức miễn cưỡng những biện pháp có hiệu quả lớn lao".

Ông Kissinger cải chính rằng cuộc chiến tranh này không phải là cuộc chiến tranh của Nixon vì nếu cuộc chiến tranh là của ông Nixon thì ông ta không thể tự cho phép mình không thắng trong cuộc chiến tranh đó.

Ông ta không quên phàn nàn về đặc điểm các cuộc tiếp xúc giữa hai bên ở Hội nghị Paris và cho rằng Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận tình trạng đó quá thời hạn mà ông ta đã nói ở trên.

Xuân Thuỷ hỏi rõ thêm một số vấn đề như ý nghĩa và mối liên quan giữa việc rút thêm quân và giải quyết tất cả các vấn đề từ nay đến 1 tháng 11, vấn đề diễn đàn mới ngoài Kléber. Ông Cố vấn Nhà trắng giải thích thêm và nói rõ về điểm sau cùng này như sau:

Ông sẵn sàng đến Paris hoặc một nơi nào khác thuận tiện vào những ngày cuối tuần để thảo luận với Xuân Thuỷ hoặc một người nào khác, chẳng hạn Bộ trưởng Ngoại giao hoặc Thủ tướng của Việt Nam, miễn là có sự bảo đảm rằng các cuộc gặp gỡ đó dẫn đến một giải pháp nhanh chóng và giải quyết những vấn đề quan trọng nhất. Ông ta nhấn mạnh "Việc tôi tham gia là bí mật".

Xuân Thuỷ nói tóm tắt quá trình can thiệp và xâm lược của Mỹ, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử, mục tiêu đấu tranh của ta hiện nay, giải pháp mười điểm của Mặt trận và thái độ của Việt Nam đối với Lào và Campuchia. Đồng chí nhấn mạnh: Mỹ phải rút quân, từ bỏ Thiệu- Kỳ-Hương, lập Chính phủ liên hiệp.

Kissinger ngắt lời Xuân Thuỷ:

- Chúng tôi sẵn sàng thảo luận giải pháp mười điểm nhưng chúng tôi không sẵn sàng thảo luận bất cứ giải pháp nào với tính chất như một học sinh đi thi phải hỏi vấn đáp về Thập Điều, chúng tôi cho rằng mười điểm là mười điểm chứ không phải là mười điều lệnh. Về vấn đề rút quân Hoa Kỳ không điều kiện... ngài cũng như chúng tôi đều biết rằng cần phải có sự có đi có lại để thiết lập một mối tương quan lực lượng trong trường hợp có sự rút quân đó.

Bộ trưởng Xuân Thuỷ nhắc lại việc rút quân Mỹ và quân các nước ngoài thuộc phe Mỹ là không điều kiện. Còn lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên miền Nam Việt Nam giải quyết với nhau.

Nhắc đến tám điểm của Nixon, Xuân Thuỷ nói:

- Chúng tôi phải đặt câu hỏi tại sao Mỹ đưa quân đến nhanh được mà lại không rút nhanh được? Tại sao các ngài không đề ra năm hoặc sáu tháng rút hết quân Mỹ khỏi miền Nam?

Kissinger:

- Tôi xin trả lời ngay, hay đợi ngài nói hết?

Xuân Thuỷ:

- Tôi xin nói hết đã. Mỹ nói rút 25.000 quân - 25.000 so với 540.000 quân Mỹ không có nghĩa lý gì. Dù nay mai Mỹ có rút thêm phần nào lớn hơn 25.000 quân nữa thì cũng không có nghĩa lý gì. Chính sách của các ngài là chính sách rút quân nhỏ giọt, kéo dài sự chiếm đóng quân sự của các ngài ở miền Nam Việt Nam. Chúng tôi nghi ngờ thiện chí của các ngài. Vấn đề thứ hai là chế độ ở miền Nam, Chính quyền ở miền Nam, tuyển cử ở miền Nam, ông Nixon chỉ nói phớt qua nhưng vấn đề quan trọng là ai đứng ra tổ chức tuyển cử. Tổng thống Nixon nói Chính quyền Sài Gòn hiện nay là hợp hiến, hợp pháp và tán thành đề nghị tuyển cử của Nguyễn Văn Thiệu. Nếu chúng ta ngồi ở đây nói chuyện với nhau một cách thẳng thắn và thực tế thì chúng ta không nên nói như thế, bởi vì cái hợp hiến, hợp pháp của Chính quyền đó như thế nào thì nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới đều biết.

Xuân Thuỷ tiếp tục lên án Thiệu-Kỳ-Hương là phát xít, không muốn hoà bình. Nếu Mỹ cứ duy trì Chính quyền đó thì không giải quyết được vấn đề - và đòi thay đổi con người và chính sách của Chính quyền đó.

- Chính quyền Sài Gòn còn lại - chúng tôi cũng thừa nhận nó là một thực tế, nhưng phải có một Chính phủ liên hiệp lâm thời ba thành phần đứng ra tổ chức bầu cử mới là hợp tình hợp lý...

Kissinger hỏi về những điểm khác so với những điều đã nói tại chỗ Kléber. Xuân Thuỷ nói:

- Điều khác hôm nay là tôi đã nói rõ với ngài về rút quân thế nào, thứ hai là Chính phủ liên hiệp lâm thời là thế nào, thành phần nó ra sao, nó không phải hoàn toàn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời mà là nhiều thành phần: một bên là Chính phủ Cách mạng Lâm thời, một bên là phần còn lại của Chính quyền Sài Gòn sau khi đã thay đổi Thiệu-Kỳ-Hương và thay đổi chính sách tán thành hoà bình, độc lập, trung lập, dân chủ, hai bên sẽ thương lượng với nhau cùng với những người khác tán thành hoà bình, độc lập, trung lập, dân chủ để thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời.

Kissinger nhắc lại về vấn đề rút quân là kết quả của một giải pháp:

- “Các ngài có thể điều chỉnh tốc độ rút quân của chúng tôi bằng tốc độ rút quân của các ngài. Nếu các ngài không muốn xem lực lượng Mỹ và lực lượng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như nhau thì chúng ta có thể thảo luận một phương thức khác trong đó vẫn giữ được sự khác nhau".

Ông ta nhắc lại Hoa Kỳ sẽ không thay Thiệu hoặc Kỳ hoặc Hương, cũng như không đòi thay đổi người lãnh đạo nào đó của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, rồi ông nói rằng không có ý định giành ở bàn Hội nghị lợi thế nào cả mà Hoa Kỳ không thực hiện được trong chiến tranh, không có ý định làm nhục ai cả.

So sánh hai vấn đề quân sự và chính trị, Kissinger cho rằng phía Việt Nam cho Mỹ nói chưa thật chính xác về vấn đề rút quân, còn phía Mỹ lại cho rằng Việt Nam quá chính xác về vấn đề chính trị. Rồi ông kêu gọi đi vào vấn đề chứ không nói về các điểm nữa nếu muốn hoàn thành công việc vào 1 tháng 11.

Kissinger thừa nhận vấn đề chính trị là phức tạp hơn nhiều nhưng bây giờ chưa phải là lúc thảo luận. Ông ta nói rằng không thể đánh lừa ta đi vào một giải pháp không phù hợp và Hoa Kỳ cũng không chấp nhận một giải pháp mất thể diện.

Cuộc tranh luận còn kéo dài thêm, nhưng cuối cùng chấm dứt với sự thoả thuận giữ bí mật cuộc nói chuyện và có gì mới sẽ thông báo cho nhau. Theo yêu cầu của Việt Nam, ông ta để lại địa chỉ của tướng V.Walters để ta liên hệ. Phía ta giới thiệu Mai Văn Bộ.

Kissinger xin rút lui trước để ra sân bay đi Bỉ, nhưng Xuân Thuỷ và Mai Văn Bộ đã đứng dậy bắt tay những người đối thoại của mình và bước ra trước. Đây là lần đầu tiên đại diện có thẩm quyền cao nhất của Tổng thống Nixon chính thức trình bày quan điểm của họ một cách rõ ràng đồng thời đây là một cuộc thăm dò có ý nghĩa chiến lược mà Mỹ tiến hành trong lúc ta gặp khó khăn.

Cuộc gặp đầu tiên Xuân Thuỷ - Kissinger đã giúp hai bên trình bày quan điểm của mình. Điều quan trọng hơn là nó đã mở ra một diễn đàn mới, song song với diễn đàn Kléber, vạch con đường để đi tới một giải pháp cho vấn đề Việt Nam.

Đánh vào “đất thánh” Campuchia

Từ mùa hè đến cuối năm 1969, trên chiến trường miền Nam nhân dân ta tiếp tục gặp khó khăn. Hoạt động quân sự giảm, chủ yếu là pháo kích vào một số căn cứ địch, đợt mạnh nhất là vào tháng 11 nhưng ít kết quả. Trong khi đó "ở khu V, vùng giải phóng ở đồng bằng và giáp ranh bị thu hẹp”. Ở Nam Bộ, đến cuối năm 1969 địch đã lấn và chiếm gần hết vùng giải phóng của ta ở nông thôn đồng bằng Nam Bộ. Địch tăng tỷ lệ quân cơ động tại chỗ và lực lượng tổng dự bị chiến lược lên hơn hai lần... Hình thái cuộc chiến tranh đang xấu đi theo chiều hướng bất lợi cho cách mạng và chiến tranh cách mạng... Lịch sử đi vào một khúc quanh co (Đại tướng Văn Tiến Dũng. Toàn thắng Sđd, tr. 47-48.).

Trên toàn chiến trường địch lập 5800 ấp chiến lược, đóng 6964 đồn bốt kiểm soát 10.000.000 dân. Vùng giải phóng và làm chủ của ta từ 7.700.000 dân đầu năm 1968 nay tụt xuống còn 4.700.000 dân. Địch còn tăng cường đánh phá rất ác liệt các tuyến vận tải Bắc - Nam hòng cắt đứt việc tiếp tế hậu cần cho miền Nam (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ. Tập II, tr. 40.)

Giữa lúc đó thì Hồ Chủ tịch qua đời, để lại di chúc thiêng liêng:

“Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa nhưng nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là điều chắc chắn".

Những lời tâm huyết đó không chỉ là niềm tin mà còn là tâm tư của Người lúc ra đi khi miền Nam còn gặp khó khăn.

Mỹ nuôi nhiều hy vọng. Họ tích cực tìm thắng lợi trên chiến trường. Trong cuộc gặp gỡ với Xuân Thuỷ hôm 18 tháng 7, C. Lodge nói:.

- “Chúng tôi nhận thấy các hoạt động quân sự và thâm nhập vào miền Nam Việt Nam ở mức độ thấp hơn trước. Nếu chúng tôi có thể tin chắc rằng sự thay đổi ấy là một khuynh hướng lâu dài thì Tổng thống Nixon sẽ chú ý tới điều đó trong khi quyết định về mức quân số và thời gian biểu của việc giảm bớt lực lượng Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nếu ngài có thể bảo đảm với chúng tôi điều đó thì chúng tôi hoan nghênh”.

Để tăng sức ép với Việt Nam và tranh thủ dư luận, ngày 15 tháng 9, Nixon tuyên bố đợt rút quân mới 35.000 người và nhắc lại rằng: "Thời gian cho các cuộc thương lượng có ý nghĩa đã đến".

Hai hôm sau, trước Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, ông ta lại nói "thời gian cho hoà bình đã tới" và kêu gọi Đại biểu 126 nước dùng các cố gắng tốt nhất về ngoại giao để thuyết phục Hà Nội đi vào nghiêm chỉnh thương lượng để chấm dứt chiến tranh (R.Nixon. Hồi ký. Sđd tr. 397-398.)

Washington còn gây sức ép với các nước có tàu chở hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam như Chypre, Malta, Singapor, Somalie. Nước nào không nghe thì Mỹ cắt viện trợ, Mỹ còn tung tin sẽ phong toả cảng Hải Phòng và tiến công miền Bắc nước ta.

Nếu như tình hình trên chiến trường tạm thời thuận lợi cho Washington thì tình hình chống chiến tranh Việt Nam ở trong nước làm ông ta rất lo ngại.

Trong sáu tháng đầu cầm quyền của Nixon, nhân dân Mỹ còn giữ thái độ chờ xem. Nhưng lúc nào họ đã thấy rằng không phải Bắc Việt Nam mà chính là Mỹ đang kéo dài chiến tranh. Vì vậy cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ nổi lên ngày càng mạnh.

Từ đầu tháng 7, Phụ nữ Đấu tranh cho hoà bình đã tổ chức đốt thẻ gọi quân dịch ở New York. Họ cử người sang Canada gặp Đại biểu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Nhiều thị trưởng gửi thư lên Nixon đòi đình chỉ gọi con em của họ sang Việt Nam. Các cuộc biểu tình chống chiến tranh liên tiếp diễn ra trước Lầu Năm Góc. Tổ chức các nhà kinh doanh vì hoà bình ở Việt Nam báo cho Nixon biết là "tuần trăng mật" đã qua rồi. Nhiều cuộc biểu tình trước nhà riêng của Nixon tại miền Tây nước Mỹ đã xảy ra khi ông về nghỉ. Ngày 3 tháng 9, 250 nhà tâm lý học Mỹ biểu tình trước Nhà Trắng tố cáo cuộc chiến tranh là một sự điên rồ.

Các hoạt động trên được các báo chí Mỹ hết sức ủng hộ và đưa lên trang nhất. Sau khi Hồ Chủ tịch mất, phong trào lại rộ lên.

Sau kỳ nghỉ hè, các nghị sĩ ở hai Viện liên tiếp lên tiếng phản đối chính sách của Nixon ở Việt Nam. Họ nói kế hoạch hoà bình của Nixon là quá mập mờ và đòi ông có sáng kiến mới cho hoà bình sau cái chết của Hồ Chủ tịch. Họ tố cáo Chính quyền Sài Gòn là trở ngại chính cho hoà bình. Có người đòi rút quân Mỹ trước cuối năm 1970.

Càng gần đến ngày "tạm ngừng hoạt động", các nghị sĩ chống chiến tranh càng đẩy mạnh hoạt động đòi Hoa Kỳ phải chấm dứt các cuộc tấn công ở miền Nam chừng nào Việt cộng không lợi dụng tình hình. Nhiều nghị quyết đòi cắt kinh phí cho chiến tranh Việt Nam được đưa ra bắt đầu cuối năm 1970. Ngày 10 tháng 10, giám đốc của 79 Trường Đại học và Cao đẳng gửi thư cho Nixon đòi đưa ra một chương trình rút hết quân Mỹ về nước.

Ngày 15 tháng 10, bắt đầu đợt "tạm ngừng hoạt động", 20.000 người biểu tình ở New York, 30.000 người ở New Haven Green, 50.000 người trước Đài kỷ niệm Washington, 100.000 người ở Boston. Hàng ngàn cờ Mặt trận được giương cao. Tất cả đòi hoà bình ngay tức khắc.

Đó là hình ảnh của nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về một cuộc chiến tranh “không ai muốn" mà Nhà Trắng rất đau lòng. Uy tín của Nixon giảm sút mạnh mẽ. Kissinger phải cay đắng mà nhận xét rằng:

“Các con chim bồ câu đã tỏ ra là một giống chim đặc biệt dữ tợn và những năm tháng qua đi đã không làm cho chúng hiền hơn" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd. tr. 308. ).

Nixon phải chống đỡ với tình hình nội bộ mà ông không kiểm soát nổi, nhưng vẫn theo đuổi ý đồ tìm chiến thắng trong chiến tranh.

Ngày 3 tháng 11 năm 1969, Nixon đọc diễn văn bác bỏ tất cả các yêu sách của lực lượng chống chiến tranh. Ông nói rằng kế hoạch để chấm dứt chiến tranh của ông là chiến lược gồm hai mặt: Việt Nam hoá và thương lượng. Mỹ sẽ tiếp tục cuộc chiến tranh cho đến khi có một giải pháp hoà bình công bằng và danh dự và cho đến khi Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ được. Ông ta đưa ra thời hạn rút hết quân trong một năm. Tiếp đó kêu gọi "đa số thầm lặng” trong nhân dân Mỹ ủng hộ ông.

Mấy hôm sau, đại sứ Liên Xô ở Hà Nội thông báo cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

“Diễn văn ngày 3 tháng 11 của Nixon hoàn toàn không có nghĩa là để không muốn tiếp tục đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Paris hoặc ở một nơi nào khác, hoặc thông qua những nước khác”.

- Hoa Kỳ sẵn sàng thảo luận bất cứ đề nghị nào... nhằm giải quyết vấn đề Việt Nam, sẵn sàng giải thích diễn văn ngày 3 tháng 11 của Nixon nếu phía bên kia có vấn đề gì đặt ra liên quan đến bài phát biểu đó.

- Hoa Kỳ tiến hành thương lượng với thái độ nghiêm chỉnh và muốn tìm giải pháp thoả hiệp nếu phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không đòi chỉ thảo luận mười điểm của họ và đòi thực hiện không điều kiện mười điểm đó.

- Chính phủ Hoa Kỳ hy vọng rằng việc giảm thâm nhập của quân miền Bắc, giảm thương vong của Mỹ và giảm các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam trong thời gian qua là kết quả của một quá trình nào đó của Hà Nội bắt đầu từ khi Kissinger gặp Xuân Thuỷ ngày 4 tháng 8 đến nay.

- Chính phủ Hoa Kỳ sẽ hoan nghênh quá trình này (tức ba việc nói trên) nếu nó phù hợp với đường lối chính trị của nhà lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Washington hiểu như vậy không đúng và phía bên kia muốn xét lại quá trình đó thì Hoa Kỳ buộc phải có biện pháp trả đũa".

Người Mỹ hy vọng Hà Nội thay đổi đường lối sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời.

Ngày 29 tháng 11, tướng Walters đến gặp Mai Văn Bộ, nói rằng Cố vấn về an ninh của Nhà Trắng, Tiến sĩ Kissinger mong được gặp Bộ trưởng Xuân Thuỷ vào ngày 13 hoặc 14 tháng 12 (H.Kissinger nói tướng Walters gặp Xuân Thuỷ là không đúng. Xem: H. Kissingcr. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 456.).

Mấy hôm sau, C. Lodge từ biệt Xuân Thuỷ vì ông không còn đảm đương trách nhiệm trưởng đoàn đàm phán của Mỹ ở Paris nữa - và cũng không nói ai sẽ thay ông ta.

Ngày 10 tháng 12, Hà Nội chỉ thị cho đoàn Việt Nam ở Paris:

"Xuất phát từ tình hình chung, nhất là sau diễn văn ngày 3 tháng 11 của Nixon, ta tỏ thái độ cứng để tấn công lại Mỹ, không chịu sức ép của họ".

Ngày 12 tháng 12, Mai Văn Bộ trả lời cho tướng Walters:

“Hoa Kỳ vẫn giữ lập trường như trong diễn văn chiến tranh ngày 3 tháng 11 năm 1969 của ông Nixon. Hơn thế nữa, ông Nixon còn hạ thấp Hội nghị Paris về Việt Nam, đòi chúng tôi có đáp ứng thì mới cử người chính thức thay thế ông Lodge. Từ tháng 8 năm 1969, ông Nixon đã bác bỏ tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời: "Nếu Hoa Kỳ tuyên bố rút hết toàn bộ và không điều kiện quân Mỹ và quân nước ngoài thuộc phe Mỹ ra khỏi miền Nam trong thời hạn sáu tháng thì các bên sẽ thảo luận về lịch rút quân Mỹ và quân nước ngoài thuộc phe Mỹ và vấn đề bảo đảm an toàn cho việc rút quân đó.

Rõ ràng Hoa Kỳ vẫn đòi chúng tôi phải trả giá cho việc thay thế ông Lodge và không chịu xem xét đề nghị của đối phương một cách nghiêm chỉnh mà chỉ đòi chúng tôi phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ... Hoa Kỳ vẫn cố tìm thắng lợi quân sự, chưa muốn giải quyết đúng đắn vấn đề Việt Nam bằng đàm phán. Vì vậy nếu có cuộc gặp riêng giữa Cố vấn Kissinger và Bộ trưởng Xuân Thuỷ như ông Kissinger đề nghị thì cũng không có gì bổ ích. Cho nên khi nào có hoàn cảnh thuận lợi, phía Hoa Kỳ có gì mới thì hai bên có thể sẽ lại gặp nhau”.

Vào đầu năm 1970, trên chiến trường miền Nam Việt Nam lực lượng kháng chiến vẫn ở trong thời kỳ khó khăn lớn. Trái lại, Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn thu được những thắng lợi đáng kể trong chính sách Việt Nam hoá chiến tranh.

Nhưng họ cũng thấy rằng thắng lợi đó chưa vững chắc. Họ nhận định:

"Hà Nội tìm cách tranh thủ thời gian đến lúc quân Mỹ đã giảm đi một cách đủ cho họ đương đầu với quân lực Sài Gòn với các phương tiện cân bằng hơn " (H.Kissinger. Sđd, tr. 453.).

Tướng A.Haig, Cố vấn quân sự và phụ tá cho Kissinger trong đàm phán bí mật ở Paris, đã nhận xét sau mười ngày điều tra ở chín tỉnh miền Nam rằng. “Sự cải thiện đã chậm lại trong những tháng cuối năm 1969. Không có gì tin rằng đối phương đã bỏ cuộc...”.

Thực tế khách quan là các lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam dọc biên giới Campuchia - Nam Việt Nam, nhất là ở vùng Mỏ Vẹt và Móc Câu, vẫn là một mối uy hiếp cho Sài Gòn. Mỹ phải tìm cách thanh toán mối đe doạ đó, bảo đảm cho Việt Nam hoá thắng lợi. Họ đang tính toán những nước cờ mới: Bảo vệ Sài Gòn từ xa.

Người Mỹ biết, vì sự thật là như thế, rằng Chính phủ Campuchia để cho Quân giải phóng qua lại và đóng quân trên đất Campuchia, đặc biệt là vùng căn cứ 353, tổng hành dinh của Trung ương cục miền Nam chính là vùng Mỏ Vẹt - Móc Câu.

Thực hiện cái mà ông ta gọi là “điểm ngoặt đầu tiên trong cách tiến hành chiến tranh Việt Nam" của Chính quyền ông, Tổng thống Nixon ra lệnh cho máy bay B52 ném bom vùng Mỏ Vẹt-Móc Câu từ ngày 18 tháng 3 năm 1969. Nhưng Cơ quan Tình báo Mỹ thấy sau 3600 phi vụ B52 (tính đến ngày lục quân Mỹ đánh vào Campuchia), Trung ương cục miền Nam vẫn còn nguyên vẹn và tiếp tục chỉ đạo chiến tranh.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, lực lượng thân Mỹ do tướng Lon Non cầm đầu làm đảo chính lật đổ Hoàng thân Norodom Sihanouk. Ngày 24 tháng 4 năm 1970, Nixon quyết định cho quân Mỹ tiến công lớn vào Campuchia, bất chấp sự phản đối của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao W.Roger và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng M. Laird. Phát biểu trên Đài truyền hình ngày 30 tháng 4 năm 1970, Nixon tuyên bố cuộc tiến công quân sự đó không phải vì mục đích mở rộng chiến tranh sang Campuchia mà vì mục đích chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tuy ông ta nói mạnh “đã dám chơi với lửa thì phải chơi đến cùng" (J.Amter. Vietnam Verdict - Continm, N. Y. 1982, tr. 197).

Trước sự phản đối ngày càng mạnh của dư luận Mỹ và thế giới, ngày 30 tháng 6, nghĩa là hai tháng sau khi đánh vào Campuchia, Nixon đã phải ra lệnh cho quân Mỹ rút khỏi Campuchia. Cũng nên nói thêm ở đây là ông còn phải trả giá đắt hơn nữa cho các cuộc ném bom B52 bí mật xuống Campuchia.

Trên chiến trường Lào, từ năm trước Mỹ đã tổ chức cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ - Thái Lan và phỉ Vàng Pao đánh chiếm khu Cánh Đồng Chum tháng 9 năm 1969, và tháng 10 họ đã đánh rộng ra khu vực Xiêng Khoảng, tiến gần tới phía tây Nghệ An (Lịch Sử KCCM. t.II, tr. 42.). Nhưng sang đầu năm 1970, liên quân Lào - Việt đã tiến công mạnh vào vùng mới chiếm đóng của địch và tháng 2 năm 1970 toàn bộ địch phải rút khỏi Cánh Đồng Chum, căn cứ bọn phỉ Vàng Pao ở Long Chẹng bị uy hiếp

Các thương lượng bí mật của Kissinger ở Paris nhằm che giấu ý đồ tăng cường chiến tranh trong kế hoạch "Việt Nam hoá chiến tranh", lợi dụng tình hình để thương lượng trên thế mạnh.

Tháng 1 năm 1970, Hà Nội cho rằng Chính quyền Nixon đang tập trung giải quyết vấn đề chủ yếu là số quân Mỹ cần và có thể rút và rút trong thời gian bao lâu để quân nguỵ miền Nam không đổ vỡ lớn, làm thế nào vấn đề miền Nam không còn là vấn đề gây cấn nhất trong cuộc bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ mới của Nixon vào năm 1972. Vì thế thời gian có tính chất quyết định là cuối năm 1970 và trong năm 1971 chúng ta phải đẩy mạnh tiến công toàn diện đập tan âm mưu Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ (Văn Tiến Dũng. Sđd, tr. 53.).

Tháng 3 năm 1970, Ban lãnh đạo Hà Nội đề ra nhiệm vụ, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến... đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và kinh tế kết hợp tiến công ngoại giao... đánh bại âm mưu địch xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh làm thất bại thế chiến lược phòng ngự của địch, tạo ra chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định (Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước, t.II. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1968, tr. 169.)

Hiệp đầu Lê Đức Thọ - Kissinger

Đã năm tháng trôi qua mà không có cuộc gặp gỡ riêng nào giữa Mỹ và Việt Nam. Ngày 14 tháng 1 năm 1970, tướng V.Walters gặp Mai Văn Bộ đề nghị có cuộc gặp riêng giữa Kissinger và Bộ trưởng Xuân Thuỷ ngoài khuôn khổ hiện nay "với mục đích tạo ra một khung cảnh cho một giải pháp nhanh chóng cho cuộc xung đột trên cơ sở công bằng cho tất cả”. Mỹ đề nghị cuộc gặp đó không trước ngày 8 tháng 2 vào cuối tuần.

Hơn một tháng sau, vào ngày 16 tháng 2, Mai Văn Bộ trả lời cho Walters rằng Bộ trưởng Xuân Thuỷ sẵn sàng gặp Kissinger ngày 20 hoặc 21 tháng 2 năm 1970.

Trong lúc uống trà, viên tướng Mỹ nói:

- Ông Kissinger cũng muốn gặp ông Lê Đức Thọ.

- Ông Cố vấn đặc biệt - Mai Văn Bộ đáp - có thể tham gia cuộc gặp này nếu ông Thọ còn ở Paris.

- Ồ thế thì tốt lắm.

Lúc ấy Lê Đức Thọ sang dự Đại hội Đảng Cộng sản Pháp đồng thời để chuẩn bị gặp Kissinger. Mỹ muốn thăm dò ý đồ chiến lược và quan điểm cụ thể của ta về giải pháp. Trong lúc chiến trường miền Nam im ắng, dự kiến phía Việt Nam có thể chuẩn bị các hoạt động Đông Xuân, họ cũng muốn tìm cách ngăn cản ta đẩy mạnh hoạt động ở miền Nam hoặc Lào.

Cuộc họp diễn ra hồi mười giờ ngày 21 tháng 2 tại số nhà 11 phố Darthé, Choisy-le-roi.

Kissinger đến cùng với Richard Smyer, chuyên gia về vấn đề Việt Nam, Tong La ke, và tướng Walters. Xuân Thuỷ ra đón ông và dẫn vào phòng khách nhỏ bên phòng ăn. Đây là giây phút đáng gọi là lịch sử: Kissinger gặp Lê Đức Thọ lần đầu tiên, hai con người hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc xã hội, bản chất con người, lý tưởng chính trị, gặp nhau để rồi cùng nhau bàn cãi quyết liệt trong ba năm để tìm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam, và cuối cùng chia nhau giải Nobel về hoà bình. Kissinger đã tả phút đầu gặp gỡ này như sau:

"Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán xám hoặc marông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tuy và khéo léo... Lê Đức Thọ tiếp tôi với sự lễ phép có khoảng cách của con người mà ưu thế hiển nhiên đến mức không thể làm khác được bằng một kiểu lễ phép gần như sự hạ cố" (H.Kissinger. Sđd, tr. 459.).

Phát biểu đầu tiên, Kissinger xin lỗi đến chậm và đề nghị giữ bí mật cuộc gặp này vì ông đến Paris bí mật. Ông ta nói vui mừng được gặp lại ông Xuân Thuỷ vì ông ta cho rằng ông ta hiểu Xuân Thuỷ hơn nhiều người trong đoàn Mỹ. Ông ta tỏ ý vui mừng được gặp Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ.

Đi vào nội dung, ông ta nhắc lại ba khả năng mà ông Lê Đức Thọ đã nói với ông Harriman ngày 14 tháng 1 năm 1969, và khẳng định rằng Mỹ muốn tiến hành đàm phán trên cơ sở thiện chí và với thái độ nghiêm chỉnh. Ông ta biết rằng cuộc đàm phán là rất khó khăn vì một là khó xác định được mục đích của mỗi bên muốn đạt, thứ hai cũng rất khó khăn là làm thế nào đạt được mục đích đó... Cuộc đàm phán càng thêm khó khăn bởi vì có sự nghi ngờ rất lớn từ lâu trong lịch sử. Ông ta nhấn mạnh:

- Dù bây giờ khắc phục được sự nghi ngờ này có khó khăn đến đâu đi nửa thì một năm nữa, hai năm nữa nó còn khó khăn hơn nữa cho đến khi chúng ta đạt được hoà bình, vì sớm hay muộn thế nào chúng ta cũng phải lập lại hoà bình.

Ông ta cố gắng tỏ ra thành thật nói rằng Việt Nam đã bị đánh lừa năm 1956:

- Bây giờ thì Hoa Kỳ không có lợi gì trong việc đánh lừa Việt Nam nữa, vì nếu Việt Nam cho rằng bị đánh lừa thì họ lại tiếp tục chiến đấu. Các ông gần Nam Việt Nam hơn Mỹ. Vì vậy Hoa Kỳ muốn tìm một giải pháp mà cả hai bên đều muốn đạt được. Nếu muốn đưa đàm phán đến thành công thì có hai yêu cầu:

- Phải nhất trí với nhau về những mục tiêu cần phải đạt được.

- Khi đã có mục tiêu rồi thì phải nhất trí với nhau về một chương trình làm việc để đạt mục tiêu đó.

Ông ta nhắc lại gợi ý hồi tháng 8 năm ngoái và cho rằng Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ vì tình hình của "các ngài không được cải thiện gì và dù có lâu hơn nữa nó vẫn không được cải thiện". Ông ta phân tích: tình hình nước Mỹ có lợi hơn cho Nixon, tình hình miền Nam hiện nay khó khăn cho Việt Nam hơn năm ngoái, trên thế giới vấn đề Việt Nam không còn là vấn đề trung tâm mà mọi người nhất trí chú ý. Phía Việt Nam không còn sự ủng hộ như trước nữa, kể cả một số nước vẫn ủng hộ Việt Nam.

Ông ta khen ông Xuân Thuỷ giỏi trong việc đưa ra những tuyên bố bí ẩn có hàm ý, rồi nói:

“Tình hình có thể như thế này: Theo chúng tôi hình như các ngài muốn được bảo đảm - coi như một điều kiện cho đàm phán - là sẽ được ưu tiên chính trị, và lúc đó, chúng tôi phải tuỳ thuộc vào sự thành thật và sự kiềm chế của các ngài sau này. Có lẽ theo các ngài thì hình như chúng tôi muốn giành được ưu thế về quân sự và chúng tôi yêu cầu các ngài phải tin vào sự thành thật và sự kiềm chế của chúng tôi sau này. Hai là chúng tôi thừa nhận các ngài có vấn đề đặc biệt là đặt vấn đề quân đội của các ngài ở miền Nam Việt Nam trên cùng một cơ sở pháp lý như Quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam. Chúng tôi biết rằng chưa bao giờ các ngài chính thức thừa nhận rằng các ngài có quân đội ở Nam Việt Nam và không bao giờ thừa nhận quân đội đó là quân đội nước ngoài ở Nam Việt Nam. Chúng tôi thừa nhận vấn đề này, chúng tôi tôn trọng thái độ của các ngài về vấn đề này. Chúng ta thử tìm xem có thể có một giải pháp cho vấn đề đặc biệt khó khăn này không, một giải pháp thực tế chứ không phải một giải pháp có tính lý thuyết.

Về giải pháp chính trị, chúng tôi nghĩ rằng có hai cơ sở đế giải quyết: một là khi các lực lượng bên ngoài rút ra khỏi Nam Việt Nam rồi thì người Việt Nam giải quyết với nhau. Nhưng nếu việc giải quyết vấn đề này là một bộ phận của nội dung đàm phán của chúng ta thì chúng tôi xin nêu ra hai nguyên tắc dưới đầy:

- Bất cử giải pháp chính trị công bằng nào cũng phải phản ánh tương quan lực lượng chính trị hiện có ở Nam Việt Nam.

- Chúng ta phải thừa nhận rằng không một bên nào có thể cho rằng phía bên kia sẽ từ bỏ ở bàn đàm phán những gì mà họ không chịu bỏ ở chiến trường".

Kissinger cũng đề ra hai cách làm việc: thảo luận cả mười điểm của Mặt trận và tám điểm của Nixon; hai là gạt mười điểm và tám điểm ra mà xác định với nhau những nguyên tắc chung. Khi đã thống nhất rồi thì để cho các đoàn ở Kléber giải quyết các chi tiết. Hoa Kỳ không cứng nhắc, Hoa Kỳ muốn chấm dứt chiến tranh một cách thực tế chứ không phải về lý thuyết. Ông nhấn mạnh rằng sự tiến bộ của việc làm này tuỳ thuộc vào việc không có sự tăng cường bạo lực ở Nam Việt Nam. (xin hiểu là hoạt động quân sự của Việt cộng - Tác giả). Đó là điều không có lợi cho cả hai bên mà có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng... Ông nói Tổng thống Nixon còn cầm quyền bảy năm nữa, không phải là điều đáng mong muốn gì cho cả hai bên nếu muốn thử thách lòng dũng cảm của mình hơn nữa. (lời nói bao hàm một sự đe doạ không che giấu - Tác giả). Sau khi chiến tranh chấm dứt, Mỹ sẽ sẵn sàng giúp nhân dân Việt Nam - toàn thể nhân dân Việt Nam - đổi mới và xây dựng lại... Một Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập phồn vinh và tự tin vào mình là phù hợp với quyền lợi Quốc gia của Hoa Kỳ, và trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào Hoa Kỳ sẽ không bao giờ là mối đe doạ cho nền độc lập của Việt Nam.

Ông ta kết thúc bằng cách xin lỗi đã nói dài, "nhưng là một giáo sư Trường Đại học Havard thì bao giờ cũng nói trong năm mươi nhăm phút".

Mọi người cùng cười rồi nghỉ.

Bộ trưởng Xuân Thuỷ nhắc lại rằng tình hình đàm phán từ sau cuộc gặp riêng tháng 8 năm ngoái đã xấu đi. Mỹ nói muốn giải quyết nhanh trước ngày 1 tháng 11 năm 1969, nhưng không đưa ra nội dung cụ thể gì mà chỉ mở ra một diễn đàn mới với Cố vấn Kissinger.

“Trong khi đó chúng tôi dưa ra hai nội dung cụ thể. Một là Mỹ rút hết quân và rút nhanh trong vòng năm, sáu tháng - Hai là lập Chính phủ liên hiệp ba thành phần. Tổng thống Nixon trong diễn văn ngày 3 tháng 11 năm 1959 lại nhấn mạnh dùng Việt Nam hoá để giải quyết chiến tranh... chúng tôi cho rằng tin Việt Nam hoá sẽ thắng lợi là chủ quan và lừa dối dư luận".

Xuân Thuỷ phê phán việc Mỹ không cử trưởng đoàn mới ở Paris rồi nhấn mạnh rằng Mỹ nói thành thật nhưng phía Việt Nam không thấy điều đó. Bộ trưởng cũng phê phán việc Mỹ đẩy mạnh hoạt động quân sự ở Lào và miền Nam. Về lời đe doạ của Kissinger, Xuân Thuỷ nói:

- Chúng tôi không muốn đọ sức với Mỹ, chúng tôi chỉ muốn bảo vệ độc lập tự do của chúng tôi. Chúng tôi tin tưởng ở tinh thần, ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam, không trông chờ ở phong trào chống chiến tranh ở Mỹ và thế giới. Mục đích đàm phán của chúng tôi là đạt được một nước Việt Nam hoà bình, độc lập thật sự.

Ông nhấn mạnh:

- “Chúng tôi muốn rằng đã giải quyết với nhau thì giải quyết toàn bộ vấn đề làm sao thật sự chấm dứt được chiến tranh, thật sự tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam. Còn về hình thức nói chuyện thì không phải là vấn đề khó khăn lớn”

Trả lời Xuân Thuỷ, Kissinger cho rằng đàm phán chưa tiến bộ thì mức độ của đoàn Đại biểu Mỹ hiện nay ở Paris là thích hợp, nếu đàm phán tiến bộ trên cơ sở mới thì phía Mỹ sẵn sàng cử sang một đoàn đàm phán mới.

Ông ta cũng cho rằng hai vấn đề: rút quân Mỹ và lập Chính phủ liên hiệp là hai vấn đề đã đặt ra trước khi ông ta đến, và hai đề nghị đó cũng không đòi hỏi sự có mặt của ông ta ở Paris.

Cuộc thảo luận buổi sáng gần kết thúc thì Xuân Thuỷ nhận xét là phía Mỹ đã tiết lộ bí mật cuộc gặp riêng. Kissinger bào chữa rằng "Không ai đánh lừa được các ông hai lần đâu".

Lê Đức Thọ:

- “Chúng tôi đã bị lừa nhiều nhưng không lừa được.”

Kissinger:

- Vấn đề bi đát không phải là sự thật phải đương đầu với sự dối trá mà bi đát là sự thật phải đương đầu với sự thật.

Cuộc gặp gỡ buổi chiều bắt đầu bằng việc hai bên trả lời các câu hỏi của phía bên kia. Kissinger nhấn mạnh rằng Tổng thống Nixon đã đồng ý cho ông hành động như là một nhân vật chính trên cơ sở không chính thức để giải quyết những vấn đề cơ bản thật quan trọng trong các cuộc gặp nhau đều đặn với những nhân vật mà phía Việt Nam chỉ định. Nhưng vấn đề lớn đối với ông ta là phía Việt Nam có thật sự đàm phán như phía Hoa Kỳ hiểu chữ đàm phán không? "Quả thật đối với những người đã tỏ ra là những người dũng cảm tận tụy thì bây giờ cũng khó mà xem xét việc chấm dứt chiến tranh mà lại không được bảo đảm tất cả các mục tiêu đầu tiên của mình". Vì vậy mà ông ta cũng chưa đưa ra một danh sách đề nghị cụ thể cho Việt Nam mà chỉ nhắc lại thiện chí và sự mềm dẻo của Mỹ trong vấn đề rút quân không phải là Nam Việt Nam.

Nhưng buổi chiều chủ yếu là phát biểu tổng quát của Cố vấn Lê Đức Thọ. Ông nói:

- Theo ông đánh giá về tình hình chúng tôi thì không đúng với thực tế chiến trường hiện nay. Đó là quyền của ông. Trong suốt mười lăm năm qua, khi đánh giá về tương quan lực lượng hai bên, các ông đã đánh giá rất sai về tình hình chúng tôi. Tôi muốn nhắc lại điều này để từ đó các ông có thể thấy phải đánh giá như thế nào cho đúng. Có đánh giá đúng thì giải quyết vấn đề mới đúng được.

Tiếp đó Lê Đức Thọ nêu lên bốn lần Mỹ đánh giá sai:

"Lần thứ nhất, khi Mỹ dựng lên Chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm với một đội quân tàn sát nhân dân.

Lần thứ hai, việc Mỹ phát động chiến tranh đặc biệt ở miền Nam tưởng có thể đàn áp được nhân dân miền Nam bằng chính sách ấp chiến lược, nhưng đã không thực hiện được.

Lần thứ ba, Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, dùng một khối bom đạn có thể nói là cao hơn tất cả các cuộc chiến tranh từ trước tới nay của Mỹ.

Sau Tết Mậu Thân đến nay ông lại đánh giá tình hình không đúng. "Các ông nói Việt Nam hoá chiến tranh thắng lợi nhưng thực ra nó đã bắt đầu thất bại ".

“Các ông định mở thêm một chiến trường ở Lào để phối hợp với chiến trường miền Nam, nhưng bây giờ Cánh đồng Chum đã bị mất về tay Pathet Lào".

Cố vấn Lê Đức Thọ còn nói về phong trào chống chiến tranh Việt Nam ở Mỹ và điều này Kissinger tỏ ra bực bội và xót xa vì sự chia rẽ trong nước ông. Lê Đức Thọ nói đến phong trào thế giới ủng hộ Chính phủ Cách mạng Lâm thời, đến ảo tưởng của Mỹ về sự thay đổi đường lối của Hà Nội sau khi Hồ Chủ tịch mất, và kết luận:

"Không phải chúng tôi không có hy sinh mất mát lớn và cũng có nhiều gian khổ nhưng chúng tôi đã thắng!".

- Đã thắng trong chiến tranh? - Kissinger hỏi.

- Chúng tôi đã thắng và các ông đã thất bại. Đến nay các ông chưa thấy sự thật khách quan. Các ông vẫn tin có thể dùng áp lực quân sự tối đa với chúng tôi trên chiến trường. Các ông chưa muốn giải quyết vấn đề một cách nghiêm chỉnh... Ông Nixon nói nhiều về Việt Nam hoá chiến tranh để thúc đẩy thương lượng. Có phải các ông định dùng Việt Nam hoá chiến tranh để làm sức ép ở bàn Hội nghị không?

Các ông định rút quân từng bước, rút quân chiến đấu đến mức nào đó mà nhân dân Mỹ có thể chịu đựng được về người và của. Sau đó các ông để lại một lực lượng hỗ trợ yểm trợ cho nguỵ quân, nguỵ quyền để kéo dài chiến tranh. Khi nguỵ quân, nguỵ quyền đã mạnh lên, các ông để lại một lực lượng Cố vấn và tiếp tục trang bị thêm cho nguỵ quân.

Nhưng thử hỏi nguỵ quân, nguỵ quyền có đảm nhận được gánh nặng chiến tranh không và bao giờ thì đảm nhận được việc đó?

Trước đây hơn một triệu quân Mỹ và quân ngụy mà các ông đã thất bại. Bây giờ các ông làm thế nào mà thắng nếu chỉ để cho quân đội bù nhìn một mình tiến hành chiến tranh và chỉ có sự yểm trợ của Mỹ không thôi làm sao các ông có thể thắng được?.

Lê Đức Thọ dừng một lát. Kissinger suy nghĩ. "Chỉ có sự yểm hộ của Mỹ không thôi làm sao các ông có thể thắng được ". Sau này ông viết trong Hồi ký rằng đó cũng là câu hỏi làm ông day dứt (H. Kissinger. Ở Nhà Trắng, Sđd, trang 462.).

Lê Đức Thọ nói tiếp: Các ông đã doạ chúng tôi nhiều rồi. Chúng tôi đã đánh với các ông trong bao nhiêu năm, ông biết rồi. Dù các ông có tiếp tục chiến tranh như thế nào nữa thì cũng không thay đổi được chiều hướng cuộc chiến tranh này. Về đàm phán, Lê Đức Thọ tỏ vẻ nghi ngờ lòng thành thật của Mỹ, ông nói:

- Chúng tôi là một dân tộc đã bị người ta lừa gạt nhiều rồi. Muốn tạo điều kiện để giải quyết vấn đề thì phải thành thật. Các ông nêu điểm một là vấn đề rút quân. Ngay điều này đã cho chúng tôi thấy các ông không nghiêm chỉnh. Chúng tôi muốn thảo luận toàn bộ các vấn đề rồi ký kết Hiệp định và thực hiện Hiệp định. Toàn bộ vấn đề là mười điểm. Hai bên phát biểu ý kiến không bên nào bị ép phải nhận điều kiện phía bên kia đưa ra.

Về cách tiến hành Hội nghị, Lê Đức Thọ nói: có nói chuyện công khai và nói chuyện riêng, rồi hỏi Kissinger:

- Có phải ông Nixon cử ông sang đây nói chuyện riêng để giải quyết vấn đề hay thỉnh thoảng ông sang đây để thăm dò thế này thôi? Còn ở Hội nghị công khai thì các ông không chịu cử trưởng đoàn. Sau khi nói chuyện riêng giải quyết được vấn đề thì ở diễn đàn công khai cũng phải có người để nói chuyện chứ.

Còn vấn đề nữa là Chính phủ Cách mạng Lâm thời chưa chịu nói chuyện với Chính quyền Thiệu-Kỳ-Hương, một Chính quyền phát xít và đàn áp, không tán thành hoà bình. Làm sao mà giải quyết vấn đề với một chính quyền như vậy? Chúng tôi muốn nói chuyện với những người có thiện chí để tìm một giải pháp chứ không phải chúng tôi hoàn toàn phủ nhận nói chuyện với Chính quyền của các ông ở Sài Gòn đâu?

Trong khi chúng tôi và Chính phủ Cách mạng Lâm thời chưa chịu nói chuyện với Chính quyền Sài Gòn thì chúng tôi và các ông thảo luận giải quyết toàn bộ vấn đề. Sau khi giải quyết các vấn đề cơ bản rồi thì sẽ thảo luận cụ thể ở Hội nghị bốn bên, nhưng các ông phải cử trưởng đoàn mới có thẩm quyền.

Kết luận, Lê Đức Thọ nói:

- Trong hai con đường hoà bình và chiến tranh, các ông nên chọn lấy một. Nếu các ông chọn con đường hoà bình thì chúng ta có thể giải quyết vấn đề một cách hoà bình, và như ông nói sau khi hoà bình lập lại, quan hệ hai nước chúng ta sẽ mở ra một trang sử mới.

Kissinger hoan nghênh sự thẳng thắn của Lê Đức Thọ và đặt ra một số câu hỏi. Hai bên nhanh chóng đồng ý về cách thảo luận mười điểm và tám điểm. Phía Mỹ hiểu thái độ của ta đối với Chính quyền miền Nam là phải thay người (Thiệu - Kỳ - Hương) và thay đổi chính sách. Đó là một điều kiện.

Về việc cử trưởng đoàn mới ở Hội nghị bốn bên, Kissinger nói: Điều này có thể sắp "ép được" ông ta nói: Hoa Kỳ không bỏ Hội nghị bốn bên tuy họ rút cả trưởng, phó đoàn đi và chỉ để lại P.Habib, người thứ ba, ở Paris - (Tác giả).

Xuân Thuỷ và Lê Đức Thọ cho Kissinger biết là nếu Mỹ không cử trưởng đoàn thì Xuân Thuỷ không ở lại Paris được, và ông Thọ với cương vị Cố vấn cũng không còn ở đây nữa.

Kissinger:

- Đây là ngài Bộ trưởng doạ tôi?

Xuân Thuỷ:

- Chính ông đe doạ tôi trước.

Cuộc thảo luận đã kéo dài. Ông Cố vấn Nhà Trắng thấy rằng hôm ấy không đi xa hơn được nữa. Ông sẽ nghiên cứu ý kiến của phía Việt Nam và sớm gặp lại nhau khi có dấu hiệu tiến bộ. Nhưng ông nhắc lại rằng Hoa Kỳ không thể thay đổi chính quyền Sài Gòn. Trả lời Lê Đức Thọ về vấn đề Lào, Kissinger nói:

- Chúng tôi quan sát thấy hầu hết quân Pathet Lào đều nói tiếng Việt cả.

Rồi ông ta kể:

"Vào thế ký XIX, có một câu chuyện tương tự như vấn đề Lào xảy ra ở một tỉnh thuộc nước Đức. Bộ trưởng Ngoại giao Anh là Palmerston (Huân tước H. Palmerson, 1784 - 1785 - Tác giả nói vấn đề này phức tạp đến nỗi chỉ có ba người biết mà thôi. Một người thì đã chết, người thử hai đã điên, người thứ ba là bạn thân của ông Bộ trưởng Ngoại giao đó, nhưng ông ta đã quên mất rồi".

Hoá ra Kissinger muốn nhắc lại câu chuyện thời Bismark muốn lấy hai xứ Holstein và Schlewig đang thuộc Vương quốc Đan Mạch để thành lập nước Đức thống nhất. Ý ông ta không phải là muốn tỏ ra là người thứ tư biết bí mật về Lào mà chỉ muốn chế giễu rằng ai cũng biết Việt Nam có quân ở Lào. Kissinger nói thêm:

- Những điều tôi học tập về Lào vẫn chưa quên.

Xuân Thuỷ:

- Tôi là người đàm phán ở Hội nghị Genève về Lào. Ông nhớ, tôi cũng nhớ.

- Thôi, chúng ta nghỉ.

Mọi người cùng cười.

Hai bên hẹn gặp lại nhau ba tuần sau vào thứ hai, 16 tháng 3 năm 1970.

Sau cuộc gặp ngày 21 tháng 2 này, Kissinger rất hy vọng. Về Mỹ, ông "báo cho Nixon rằng đây là cuộc gặp quan trọng chắc chắn là quan trọng nhất từ khi bắt đầu Chính quyền của ngài và quan trọng nhất kể cả từ khi bắt đầu cuộc nói chuyện năm 1958 (R.Nixon. Sđd. tr. 4461).

Về mặt ngoại giao, ông ta "tiếc đã nhận gặp vào ngày 21 tháng 2, nghĩa là theo lịch do Hà Nội ấn định. Đó là một bước lùi, chấp nhận một đòi hỏi vô lý, chúng ta đã gây nên một cảm giác vội vàng vô ích cho phép Hà Nội ghi một bàn thắng về tâm lý " mà họ vẫn kiên trì từ lâu " (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr.456.2).

Cái chung chung: Không Lêninit – Cái cụ thể: Không đồng ý

Ngày 16 tháng 3. Đến địa điểm họp, Kissinger kêu quá mệt vì phải hạ cánh xuống Tây Đức - Đúng thế, máy bay riêng của ông không xuống được sân bay quân sự Avord (miền Trung nước Pháp) vì trục trặc kỹ thuật mà phải hạ xuống một sân bay Đức rồi mới quay về Pháp.

Nghỉ một lúc, vào cuộc họp ông yêu cầu Lê Đức Thọ giải thích một câu đã nói lần trước rằng không bên nào buộc phía bên kia phải chấp nhận một giải pháp bằng áp lực. Khi được giải thích, Kissinger nói ngay:

- Trong khi chúng ta nói chuyện ở đây, nếu như một bên nào làm áp lực với phía bên kia hoặc ở Việt Nam hoặc ở một nước nào liên quan đến Việt Nam thì như vậy là không phù hợp với mục đích cuộc nói chuyện của chúng ta ở đây.

Lê Đức Thọ:

- Đây là ông đặt câu hỏi hay là ông phát biểu quan điểm?

Kissinger:

- Tôi nói để xem có đúng ý kiến của ông Cố vấn đặc biệt không.

Lê Đức Thọ nhấn mạnh lại rằng trong đàm phán mỗi bên có lập trường và quan điểm của mình. Như vậy không phải chúng tôi cứ bắt các ông phải theo quan điểm của chúng tôi. Và các ông cũng không thể bắt chúng tôi phải theo quan điểm của các ông. Phải qua thảo luận rồi đi đến thoả thuận.

Kissinger:

- Tức là không bên nào làm áp lực quân sự thêm với bên kia để buộc bên kia phải chấp nhận sự thoả thuận.

Lê Đức Thọ:

- Câu nói của tôi là đối với một cuộc thương lượng với nhau. Còn điểm ông nói về áp lực quân sự lại là vấn đề khác. Mà vấn đề này chính các ông làm áp lực quân sự đối với chúng tôi.

Kissinger nói phía Mỹ muốn đi vào thực chất. Và ông đọc một chỉ thị của Nixon gửi cho ông ta trước khi qua Paris rằng phải nói với người Việt Nam “phải đi vào trung tâm của vấn đề”. Rồi ông ta trình bày hai vấn đề: việc rút quân Mỹ và thời gian biểu của việc rút quân đó.

- Chúng tôi sẵn sàng đàm phán về việc rút lui toàn bộ quân Hoa Kỳ, điều đó bao gồm rút tất cả quân và rút hết các căn cứ quân sự Hoa Kỳ mà không có điều ngoại lệ nào. Về thời gian biểu rút quân, căn cứ vào số quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam đến 15 tháng 4 năm 1970 là 422.000 người. Ông ta nói sẽ rút hết trong 16 tháng.

Tháng thứ nhất: 5000. Tháng thứ hai và thứ ba: mỗi tháng 10.000 Tháng thứ tư: 27.000. Năm tháng sau đó: mỗi tháng 35.000. Tháng thứ 10: 10.000. Tháng thứ 11: 15.000. Tháng thứ 12: 10.000. Tháng thứ 13, 14, và 15: mỗi tháng 40.000. Tháng thứ 16: 4.000.

Ông ta giải thích một số điểm về kỹ thuật rút và nhắc lại rằng trong việc rút quân này “thực tế đòi hỏi phải có đi có lại chừng nào đó, và chính vì thế mà chúng ta có mặt ở đây để đàm phán"

Nhắc lại phía Việt Nam không thừa nhận có quân ở miền Nam, ông ta nói:

- Chúng tôi rất chú ý đến quan điểm đặc biệt này của các ông. Chúng tôi cũng đã có ý kiến cụ thể về vấn đề này. Nhưng tốt nhất là để các ông trình bày ý kiến của các ông. Như vậy lúc đó chúng ta có thoả thuận về hai kế hoạch, hai kế hoạch này cũng được thực hiện đồng thời nhưng không liên quan với nhau.

Kissinger còn nói về vấn đề kiểm soát và vấn đề thả tù binh. Bộ trưởng Xuân Thuỷ nhận xét ngay rằng thời hạn rút quân mà Kissinger đưa ra không phù hợp với tuyên bố trước đây của Mỹ rút quân trong 12 tháng. Điều đó làm cho người ta nghĩ Mỹ kéo dài việc rút quân để gắn với kế hoạch Việt Nam hoá. Như vậy không giải quyết được vấn đề. Xuân Thuỷ cũng thúc giục Kissinger nói luôn ý kiến của ông ta về các lực lượng không phải Nam Việt Nam, vì ông ta đã có ý kiến cụ thể còn phía ta chưa có ý kiến. Bộ trưởng cũng lưu ý Kissinger là ông ta chưa nói gì đến vấn đề chính trị.

Kissinger lại giải thích mối liên quan giữa thương lượng và Việt Nam hoá, và nói thêm: thời gian rút quân vẫn có yếu tố mềm dẻo. Về việc rút quân miền Bắc, ông nói:

- Ch?