← Quay lại trang sách

Chương 5 .

Năm mới 1971, năm mới với mọi người

Để có thể rút được quân Mỹ về, Nixon đã ra sức xây dựng Quân đội Sài Gòn và thúc đẩy các cuộc hành quân bình định ở miền Nam Việt Nam, đưa quân đánh vào "đất thánh" ở Campuchia. Ông cho rằng cuộc hành quân ở Campuchia đã đánh một đòn chí tử vào lực lượng Việt cộng, cắt được con đường tiếp tế qua Campuchia.

Bây giờ còn con đường mòn Hồ Chí Minh. Phải cắt nốt con đường này để cô lập hoàn toàn miền Nam.

Ngày 18 tháng 1 năm 1971, Nixon triệu tập Rogers, Kissinger, Alexander Haig, đô Đốc Thomas H.Moorer, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân, Helms, Giám đốc CIA. Sau khi nghe Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird vừa mới bí mật đi điều tra tình hình miền Nam Việt Nam về báo cáo, Nixon cho phép tiến hành một cuộc hành quân qui mô để cắt đường mòn Hồ Chí Minh, bằng cách đánh vào lực lượng Bắc Việt ở Lào.

Để dư luận Mỹ khỏi phản đối và cũng là để chứng minh sự lớn mạnh của Quân đội Sài Gòn, tức là chứng minh thành công của Việt Nam hoá, ông quyết định lấy Quân đội Sài Gòn làm chủ lực, Mỹ chỉ chi viện máy bay và pháo binh.

Đóng góp chính của Mỹ là dùng trực thăng chở quân và hậu cần, dùng pháo thuyền nhỏ và B52. Để cuộc hành quân ở Lào này mang nhãn hiệu Việt Nam đích thực, các nhà chiến lược Mỹ còn tìm cho nó cái tên Lam Sơn 719, cho nó càng là của Việt Nam Cộng hoà. Mục tiêu là cắt đứt con đường tiếp tế chiến lược của cộng sản ở điểm nút Sêpôn, Hạ Lào.

Từ 30 tháng 1, quân Mỹ đã triển khai lực lượng ở phía Nam khu phi quân sự làm bàn đạp cho cuộc tiến quân sang Lào của quân nguỵ Sài Gòn, đồng thời quân Nguỵ cũng chiếm lĩnh các vị trí then chốt ở vùng Quảng Trị. Đến 7 tháng 2 thì đã hình thành đội hình tiến công.

Ngày 8 tháng 2 năm 1971, ba cánh quân của quân nguỵ Sài Gòn gồm bộ binh, lính dù, thiết giáp vượt biên giới Việt - Lào ở Nam Bắc đường số 9, tiến về phía Sêpôn. Trong ngày đầu cuộc hành quân tỏ ra thuận lợi, hy vọng sẽ chiếm được Sêpôn vào hôm sau, hoặc chậm lắm là ít lâu sau đó.

Đây là những ngày mong đợi khá sốt ruột và đầy hy vọng lúc đầu của Bộ Tham mưu ở Nhà Trắng.

Nhưng, thật không ngờ. Thời gian qua đi mà tin tức chiến thắng cũng ít đi. Ngày 12 tháng 2, quân Nguỵ đã bị đánh khá đau và phải dừng lại, 3000 quân đã bị thương vong.

Từ Washington, Kissinger luôn thúc giục đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cho ông ta biết tin về cuộc thử nghiệm qui mô đầu tiên này của chiến lược Việt Nam hoá.

Ông được báo tin rằng: người ta không thể nghi ngờ quyết tâm và nghị lực của Chính phủ Nam Việt Nam tiến hành tốt cuộc hành quân. Hôm đó đã là 20 tháng 2 rồi. Thời hạn dự định cho việc đánh chiếm Sêpôn đã sắp hết.

Ngày 23 tháng 2, thời hạn định cho việc chiếm Sêpôn đã qua, Kissinger hỏi Westmoreland, nguyên Tư lệnh Mỹ ở Sài Gòn, thì ông này đưa ra một dự đoán đen tối, vì ít nhất phải có bốn sư đoàn Mỹ mới đánh chiếm và giữ được Sêpôn, nhưng quân Nguỵ chỉ tung vào đó có hai sư đoàn (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr 1059.).

Ngày 1 tháng 3, Kissinger lại cho đại sứ Mỹ ở Sài Gòn biết mối lo lắng của ông và vẫn được E.Bunker trả lời rằng "chiến dịch ở Lào và Campuchia sẽ đem lại kết quả đã dự tính ban đầu” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr 1061).

Nhưng ngày 8 tháng 3, Abrams báo về Washington rằng Bộ Tư lệnh Nam Việt Nam cho rằng "nhiệm vụ đã hoàn thành và đang cấp tốc rút lui quân" (Như trên, tr 1061.)

Thật ra thì trong hai ngày 3 và 4 tháng 3, các cánh quân địch ở phía Bắc và phía Nam đường 9 khi đổ quân xuống gần Sêpôn đã bị đánh tơi tả và ngày 18 quân Sài Gòn phải "rút lui chiến lược" trong sự hoảng loạn. Chắc người dân Mỹ chưa quên cảnh quân nguỵ bám càng máy bay để tháo chạy.

Chiến lược cuối cùng ở Đông Dương có quân Mỹ tham gia yểm trợ đã kết thúc như thế đó.

Đưa ra một lực lượng khá đông quân nguỵ vào một chiến trường mà địch thủ đã quen thuộc và chuẩn bị sẵn, Mỹ đã mắc sai lầm lần thứ hai sau cuộc hành quân vào Campuchia năm trước. Họ đã tạo thuận lợi cho đối phương tiêu diệt nhiều đơn vị được xem là tinh nhuệ của Sài Gòn, đồng thời để sơ hở ở tuyến trong làm cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời có điều kiện phá kế hoạch bình định.

Thất bại của việc hành quân sang Lào là tai hại cho Washington và Sài Gòn. Nó làm cho toàn bộ quân Nguỵ miền Nam vốn đã suy yếu về tinh thần, càng bị chấn động thêm, báo hiệu sự phá sản hoàn toàn chủ trương Việt Nam hoá chiến tranh của Nixon.

Song song với cuộc hành quân Lam Sơn 719, quân Nguỵ còn tiến sang Campuchia bằng hai mũi: một về hướng Snun, và một về phía tây Công Tum, đánh vào khu vực ngã ba biên giới để phá các căn cứ và đường vận chuyển chiến lược của Việt cộng. Cuộc tiến quân đó đã không mang lại những kết quả mong muốn, tuy kéo dài mãi đến tháng 5 năm 1971.

Thừa cơ lực lượng địch bị thu hút sang Lào và Campuchia, các lực lượng kháng chiến ở miền Nam Việt Nam đẩy mạnh hoạt động, và kết quả là "một số vùng bị địch bình định khống chế trong hai năm 1969, 1970 ở đồng bằng khu V đã được giải phóng"... "vùng nông thôn Nam Bộ về cơ bản đã vượt qua thời kỳ khó khăn thử thách nghiêm trọng nhất của cuộc kháng chiến" (Văn Tiến Dũng. Toàn thắng. Sđd, tr 87-89.).

Trước thất bại ở Lào, phong trào chống đối Chính quyền Nixon ở trong nước lại nổi lên, lòng tin của nhân dân Mỹ vào Nhà Trắng càng giảm sút. Họ đòi Nixon phải nhanh chóng đưa con em họ về nước, xem đó là một mục tiêu cấp bách, còn việc duy trì chính quyền Sài Gòn nếu họ "không tự mình thoát ra được thì nay đã quá muộn. Hoa Kỳ không thể chịu đựng lâu hơn nữa sự đảo lộn ở trong nước do cuộc chiến tranh đẫm máu, bi thảm và vô đạo đức mang lại" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr 1066.). Họ tố cáo Việt Nam hoá chiến tranh của Nixon là kéo dài chiến tranh, và đòi định thời hạn rút quân có bảo đảm an toàn và lấy được tù binh về nước. Họ lên án Thiệu là trở ngại chính cho việc thương lượng hoà bình.

Từ cuối tháng 4 đến tháng 5 luôn có biểu tình chống chiến tranh ở Washington. Lực lượng chống chiến tranh có cả cựu chiến binh Mỹ tham gia, từ nhiều nơi đổ về Washington phân phát tài liệu chống chiến tranh trong các cơ quan của Chính phủ. Họ tổ chức tuần lễ "không tuân lệnh" nhằm làm ngưng trệ hoạt động của Chính quyền. Phong trào đã lan sang cả các nhà kinh doanh, các nhà tu hành.

Ngày 22 tháng 2, Uỷ ban chính trị của Đảng Dân chủ ở Thượng viện đòi rút tất cả lực lượng Mỹ - cả lực lượng yểm trợ và không quân - trước 31 tháng 12 năm 1972.

Tại Quốc hội, trong ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7 đã có mười bảy dự luật đưa ra đòi hạn chế quyền của Tổng thống trong việc điều hành chiến tranh hoặc đòi qui định một thời hạn cuối cùng đơn phương rút quân Mỹ khỏi Việt Nam.

Ngày 22 tháng 6, Thượng viện Hoa Kỳ với năm mươi bảy phiếu thuận và bốn mươi hai phiếu chống, thông qua một nghị quyết bày tỏ tình cảm của Thượng viện đòi chấm dứt chiến tranh sớm và đưa quân nhanh chóng về nước với điều kiện tất cả tù binh Mỹ được thả ra

Bên cạnh phong trào chống chiến tranh, nạn thất nghiệp trong thanh niên Mỹ lại tăng lên chưa từng có trong mười năm qua, kinh tế Mỹ khó khăn, đồng đô la mất giá.

*

* *

Bước vào năm 1971, miền Bắc đã có được hai năm hoà bình để củng cố hậu phương lớn làm nhiệm vụ chi viện cho cả ba chiến trường. Đường vận tải chiến lược Hồ Chí Minh vẫn được giữ vững và mở rộng. Trong năm 1970 đã đưa được bốn vạn tấn hàng vào miền Nam, gấp mười lần năm 1969. Và sau thắng lợi đầu năm 1971, lượng tiếp tế vào Nam lại tăng lên. Riêng Nam Bộ, chiến trường xa nhất cũng nhận được 4000 tấn, so với 1700 tấn hàng năm 1970 (Lịch Sử KCCM, t I, tr 68.)

Ở Campuchia, cách mạng đã đạt được bước nhảy vọt. Chỉ trong thời gian ngắn, giải phóng được hai phần ba đất đai và ba phần tư số dân... Đến cuối năm 1970, đã xây dựng được một số đơn vị bộ đội địa phương và chủ lực

Còn ở Lào, ta và bạn đã phối hợp tiến công mở rộng vùng giải phóng Trung Hạ Lào (Atôpơ-xaravan) mở rộng tuyến hành lang chiến lược, tích cực xây dựng lực lượng cách mạng Lào (Văn Tiến Dũng. Toàn thắng, Sđd, tr 72.). Trong thương lượng, vấn đề rút quân Mỹ hiện nay không còn là vấn đề mấu chốt như trước nữa mà dần dần vấn đề Chính quyền ở miền Nam nổi lên. Ta đặt hai vấn đề cơ bản rút quân Mỹ và Chính quyền ở miền Nam song song với nhau. Bởi vì có giải quyết hai vấn đề đó mới thật sự chấm dứt chiến tranh xâm lược và can thiệp của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Các vấn đề của một giải pháp có thể chia làm ba loại:

Các vấn đề giữa Mỹ và Nam Việt Nam.

Các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Các vấn đề nội bộ của Việt Nam.

Âm mưu của Chính quyền Nixon là tách vấn đề quân sự và chính trị và chỉ giải quyết vấn đề quân sự nhằm thực hiện việc rút quân ngừng bắn toàn bộ cả với Mỹ và Nguỵ để duy trì và củng cố Nguỵ. Quan điểm của Việt Nam là phải giải quyết toàn bộ và chỉ ngừng bắn sau khi giải quyết cả vấn đề quân sự và chính trị, do đó phải giải quyết hai vấn đề quan trọng là:

Mỹ phải định thời hạn rút quân khỏi miền Nam.

Mỹ phải chấm dứt việc ủng hộ nhóm cầm quyền hiếu chiến hiện nay do Thiệu cầm đầu.

Lúc này ở Mỹ, Đảng Dân chủ và phong trào quần chúng cũng muốn tách vấn đề quân sự và chính trị, muốn giải quyết vấn đề rút quân và thả tù binh, còn vấn đề chính trị nội bộ miền Nam thì họ không quan tâm lắm. Còn ở miền Nam, mâu thuẫn trong tập đoàn lãnh đạo Nguỵ đang bộc lộ gay gắt, nhất là giữa Thiệu và Kỳ, phong trào đòi Mỹ rút, đòi thay Thiệu, đòi hoà bình, chống luật lệ bầu cử phản dân chủ của Thiệu, phát triển mạnh.

Vấn đề đối với Việt Nam là tiếp tục đòi giải quyết toàn bộ và tăng sức ép đòi Mỹ rút quân, buộc Mỹ định thời hạn rút hết quân trong năm 1971. Phía Việt Nam gắn vấn đề tù binh vào vấn đề rút hết quân Mỹ. Vấn đề tù binh mà Chính quyển Nixon dùng để kích động dư luận Mỹ và thế giới chống Việt Nam nay trở thành vấn đề mà họ phải đối phó.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời tập trung mũi nhọn vào Thiệu, vừa tăng sức mạnh tấn công vừa phân hoá tập đoàn lãnh đạo Sài Gòn, tranh thủ được dư luận. Chính phủ cách mạng Lâm thời chủ trương lập Chính phủ hòa hợp dân tộc thay vì lập Chính phủ liên hiệp lâm thời.

Ngoài ra, Chính phủ Cách mạng Lâm thời nói rõ thêm về chính sách hoà bình trung lập của miền Nam Việt Nam, nhấn mạnh khả năng mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá sau chiến tranh giữa miền Nam Việt Nam và các nước trên thế giới và với Mỹ.

Từ tháng 10 năm 1970, không có cuộc gặp riêng nào giữa Xuân Thuỷ và Kissinger nữa.

Cuối tháng 1 năm 1971, đại sứ Liên Xô I, Secbacôp ở Hà Nội thông báo cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng: “Trung tuần tháng 1, Kissinger đã nói với Đôbrinin - đại sứ Liên Xô tại Washington - như sau:

- “Nếu như Mỹ cam kết đến một thời hạn cụ thể nào đó (mà Mỹ sẽ thông báo cho Việt Nam) rút hết quân Mỹ và Mỹ có thể không đòi cùng rút Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra khỏi miền Nam Việt Nam (vì đòi hỏi đó đối với Hà Nội là điều không chấp nhận được, Hà Nội không bao giờ thừa nhận có quân đội của mình ở đó) thì quan trọng là người Bắc Việt Nam cam kết ngùng bắn trong thời gian quân Mỹ rút, cộng thêm một thời gian nào đó không dài lắm sau khi quân Mỹ đã rút (Kissinger không nêu thời gian cụ thể).

- Nếu bản thân người Việt Nam sớm thoả thuận được với nhau về một sự thoả hiệp hợp lý và nếu sau đó chiến tranh lại nổ ra giữa miền Bắc và Nam Việt Nam thì việc đó không còn là việc của người Mỹ nữa mà là việc của bản thân người Việt Nam vì Mỹ sẽ không còn nữa, nó sẽ vượt thời gian Nixon cầm quyền.

- Sự diễn biến như vậy sẽ làm cho bản thân người Mỹ thoát khỏi sự cần thiết phải tiến hành những cuộc đàm phán kéo dài và thực tế là không có kết quả về một giải pháp chính trị ở Nam Việt Nam và trong trường hợp Quân đội Mỹ rút ra khỏi nơi đó rồi thì tất cả công việc này sẽ chỉ liên quan trực tiếp đến bản thân người Việt Nam".

Ngày 3 tháng 2, Thủ tướng nói với Secbacốp: Mở đầu cuộc nói chuyện với Đôbrinin, Kissinger đã đe doạ Việt Nam. Thật ra ý của Kissinger không có gì mới. Đại diện Việt Nam đã nhiều lần nói với Mỹ ở Paris về ngừng bắn. (Thủ tướng nhắc lại ba điểm Xuân Thuỷ đưa ra ngày 10 tháng 12). Về việc Kissinger nói sẵn sàng gặp lại Việt Nam thì thái độ Việt Nam đã rõ ràng: Việt Nam sẵn sàng, vẫn để ngỏ cửa ít ra cũng để tỏ thiện chí và trình bày lập trường của mình.

Năm ngày sau, ngày 8 tháng 2, chiến dịch Lam Sơn 719 bắt đầu.

*

* *

Tháng 4 năm 1971, Giải vô địch bóng bàn thế giới đang diễn ra tại Tokyo. Ngày 6, Trương Tác Đống, trưởng đoàn Trung Quốc gặp trưởng đoàn bóng bàn Mỹ và chuyển lời mời đoàn Mỹ sang thăm Trung Quốc trước sự ngạc nhiên của chính trưởng đoàn Mỹ. Trái với mọi dự đoán. Mỹ đã nhận lời và một đoàn bóng bàn Mỹ đã tới Bắc Kinh. Đoàn không chỉ được các vận động viên Trung Quốc đón tiếp nhiệt tình mà còn được Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp trọng thể tại Đại lễ đường. Ngày 21 tháng 4, Thủ tướng Chu Ân Lai chính thức gửi thư mời Tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc.

Trung Quốc, dù có những bất đồng với Việt Nam, vẫn là người đang tích cực chi viện cho Việt Nam đánh Mỹ, tại sao họ lại cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ lúc này? Nhất là trong lúc Mỹ vừa thất bại nặng nề ở cả Campuchia và Lào. Thật ra cái gọi là "ngoại giao bóng bàn" là một cử chỉ cụ thể phản ánh một quá trình đã bắt đầu trước đó.

Năm 1969, cuộc đại cách mạng văn hoá ở Trung Quốc về cơ bản đã hoàn thành, Chủ tịch Mao Trạch Đông ra sức củng cố quyền lãnh đạo của mình. Về đối ngoại, Trung Quốc điều chỉnh chính sách của mình, coi Liên Xô là kẻ thù số một và tìm cách cải thiện tiến đến bình thường hoá quan hệ với Mỹ, nhất là sau khi Nixon vào Nhà Trắng. Từ tháng 11 năm 1968, Trung Quốc tỏ ý muốn nối lại các cuộc đàm phán Trung - Mỹ ở Vacxava và cùng với Mỹ ký một thoả thuận cùng tồn tại hoà bình. Tháng 6 năm 1970, Trung Quốc và Mỹ thoả thuận là đại sứ Trung Quốc ở Paris Hoàng Chấn và Kissinger sẽ tiến hành những cuộc đàm phán bí mật mỗi lần Kissinger đến Paris đàm phán với phía Việt Nam. Ngày 10 tháng 12, Chủ tịch Mao Trạch Đông, qua Edgar Snow, gửi lời mời Tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc.

Lời mời đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc mở một con đường liên lạc tiếp tục cuộc gặp gỡ Vacxava và sẽ được con đường liên lạc Pakistan nối tiếp: Kissinger rồi Tổng thống Nixon sẽ đi Trung Quốc.

Trước đó Trung Quốc không tán thành Việt Nam vừa đánh vừa đàm vì Trung Quốc còn gặp khó khăn bên trong. Nay cách mạng văn hoá đã hoàn thành, Chính quyền của Mao Trạch Đông được củng cố, Trung Quốc lại có con chủ bài Việt Nam nên tìm cách bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tất nhiên Trung Quốc trước hết tính đến lợi ích của Trung Quốc. Mỹ có một chỗ dựa mới để ép Việt Nam. Việt Nam phải tiếp tục cuộc chiến tranh chống Mỹ trong những điều kiện mới, khó khăn, phức tạp.

Niềm hy vọng khác thường của Kissinger

Ngày 24 tháng 4 năm 1971, ba ngày sau khi Chu Ân Lai mời Nixon sang thăm Trung Quốc, tại Paris tướng Walters gặp Võ Văn Sung để chuyển thông điệp của Kissinger đề nghị gặp lại Bộ trưởng Xuân Thuỷ và Cố vấn Lê Đức Thọ vào ngày 16 tháng 5 "để nối lại cuộc thảo luận trên cơ sở những đề cập mới".

Ngày 14 tháng 5, Võ Văn Sung báo cho phía Mỹ biết Bộ trưởng Xuân Thuỷ chấp nhận cuộc gặp đó nhưng đề nghị ngày họp vào 30 tháng 5. Mỹ không chịu nhận thời hạn do ta ấn định nên đề nghị lui lại một ngày.

Cuộc họp ngày 31 tháng 5 vẫn diễn ra ở 11 phố Darthé.

Đến cuộc họp, sau khi chào Xuân Thuỷ, Kissinger gửi lời chào Lê Đức Thọ và ngỏ lời mời Bộ trưởng và Cố vấn đặc biệt của ông sang Mỹ sau khi chiến tranh chấm dứt. Đáp lại, Xuân Thuỷ mong được đón Kissinger ở Hà Nội.

Kissinger nói rằng ông ta đã đi thăm Sài Gòn và rất muốn đi thăm Hà Nội, rằng ông khâm phục sâu sắc lòng dũng cảm và sự tự trọng của nhân dân Việt Nam. Ông ta còn nói càng kính trọng và khâm phục sự thông minh của hai ông Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ. Nếu có phản đối thì phản đối sự quá kiên trì của hai ông.

Đi vào nội dung, ông ta nói:

- Tôi đến đây nhằm đạt được tiến bộ thật sự kèm theo nụ cười. Nhưng muốn có đàm phán thật sự thì bắt đầu vào lúc này... Tổng thống Nixon cử tôi đến đây để cố gắng một lần cuối cùng phá vỡ sự bế tắc hiện nay. “Đó là đề nghị cuối cùng của chúng tôi”. Rồi ông ta đưa ra một chương trình bảy điểm, tóm tắt như sau:

1 - Hoa Kỳ sẵn sàng ấn định một thời hạn cho việc rút tất cả lực lượng Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

2 - Người Việt Nam và người các nước Đông Dương sẽ thảo luận với nhau cách thức rút tất cả lực lượng ngoại nhập khác ra khỏi Đông Dương.

3 - Ngừng bắn tại chỗ trên toàn Đông Dương bắt đầu khi rút quân Mỹ.

4 - Không được đưa thêm vào các nước Đông Dương các lực lượng ngoại nhập.

5 - Giám sát quốc tế về ngừng bắn và các điều khoản quân sự.

6 - Tôn trọng các Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, có thể được chính thức hoá tại một Hội nghị Quốc tế.

7 - Phóng thích tất cả tù binh và thường dân vô tội toàn Đông Dương trên cơ sở nhân đạo hoặc một bộ phận của giải pháp bắt đầu với việc rút quân Mỹ (Toàn văn. Xem. Kissinger, nhà Trắng. Sđd, tr 1537-1538.).

Mong phía Việt Nam xem xét các đề nghị cuối cùng của Mỹ với tinh thần xây dựng.

Kết thúc bản trình bày, ông ta nhấn mạnh sẵn sàng thảo luận cụ thể và đạt tiến bộ nhanh chóng và mong Việt Nam cũng có “những đề nghị cuối cùng” có tính xây dựng như thế. Ông ta cũng không quên đe doạ rằng: Tất nhiên tuỳ phía Việt Nam xem xét.

- Nếu chiến đấu thêm với những người không còn là mối đe doạ lâu dài của Việt Nam nữa thì các ông chỉ đạt thêm một số thắng lợi phụ nhưng phải xem những thắng lợi đó có bõ với những đau thương và thiệt hại thêm hay không...

Ông ta cũng nói hai bên cần chấm dứt làm áp lực quân sự với nhau trong khi hai bên tiến bộ nhanh trong đàm phán. Kissinger trả lời các câu hỏi của Xuân Thuỷ như thường lệ rồi nghỉ.

Sau đó Bộ trưởng phát biểu, nhắc lại ba điểm mà ông đã đưa ra trong phiên họp công khai thứ 109 sau khi gặp Kissinger tháng 9 năm 1970.

- Hoặc Mỹ rút hết quân vào 30 tháng 6 năm 1971, hoặc đưa ra một thời hạn để thảo luận, và nhấn mạnh là điểm cấp thiết nhất.

- Thành lập ở Sài Gòn một Chính quyền không có Thiệu - Kỳ - Khiêm như Chính phủ Cách mạng Lâm thời đề nghị.

- Chính phủ Hoa Kỳ phải thật sự cam kết chấm dứt mọi sự vi phạm chủ quyền và an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tiếp đó Bộ trưởng nói về hai điểm trong bảy điểm của Mỹ:

- Hoa Kỳ chỉ nói là sẵn sàng đưa ra một thời hạn rút quân chứ không nói dứt khoát ngày nào tháng nào năm nào Mỹ sẽ rút hết. (Kissinger xen vào: Suốt đời tôi cũng không làm được việc đó).

Xuân Thuỷ xem như không nghe thấy câu đó. cứ tiếp:

- Thứ hai là ông Cố vấn đã thoả thuận là trong gặp riêng thì thảo luận cả vấn đề quân sự và chính trị, nay ông lại tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị... Nếu các ông trở lại ý kiến ban đầu là không bàn vấn đề chính trị thì không giải quyết được một trong những vấn đề cơ bản. Bây giờ ở miền Nam Việt Nam dư luận nói nhiều đến cuộc bầu cử sắp tới. Các ông thường nói với chúng tôi rằng các ông không muốn tự nhiên lại có thay đổi gì ở miền Nam Việt Nam... Chính lúc này là lúc các ông phải tính nếu có thay đổi gì thì không có gì là đột ngột cả. Chính lúc này là dịp các ông biểu thị thật sự muốn giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam cả về quân sự lẫn chính trị.

Bộ trưởng cũng nói đến vấn đề tù binh mà Mỹ đã dùng để tuyên truyền lừa bịp dư luận.

Về vấn đề Lào và Campuchia, Xuân Thuỷ nhắc lại Việt Nam tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, và thêm:

- Hiện nay ở Viêng Chăn đang có cuộc gặp gỡ giữa đại diện của ông Suphanuvông và đại diện của ông Phuma. Chúng tôi mong muốn những người Lào sẽ giải quyết hoà bình với nhau công việc của họ theo hướng đó.

Bộ trưởng nhấn mạnh:

- Việt Nam sẵn sàng giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam. Bộ trưởng đã ở Paris từ 1968. Ông và Cố vấn Lê Đức Thọ, một nhà lãnh đạo Việt Nam có đủ thẩm quyền để giải quyết. Xuân Thuỷ nhắc lại lần thứ hai sẽ nghiên cứu kỹ bảy điểm của Mỹ và hỏi Kissinger điểm nào phía Việt Nam thật sự phải chú ý hoặc điểm nào Kissinger thấy phía Việt Nam hiểu chưa thật rõ thì đề nghị giải thích thêm.

Kissinger không trả lời thẳng câu này mà nói:

- Chừng nào Bộ trưởng nói rằng đề nghị cơ bản này chấp nhận được nghĩa là tất cả các điều được nêu lên kể cả vấn đề tù binh thì lúc đó chúng tôi mới nói ngày rút quân.

Về vấn đề chính trị và bầu cử ở Nam Việt Nam, ông nói:

- Hoa Kỳ không can thiệp vào quá trình chính trị của cuộc bầu cử sắp tới ở Nam Việt Nam.

- Nếu chúng ta đạt được thoả thuận về quân sự mùa hè năm nay với sự hiểu biết đầy đủ về tình hình quân sự sẽ xảy ra như thế nào trong năm tới thì nhân dân Nam Việt Nam có thể có sự quyết định của mình đối với quá trình đó. Họ sẽ biết mức độ về sự có mặt của quân Hoa Kỳ trong thời gian tới như thế nào. Khi biết như vậy họ sẽ có quyết định phù hợp với tình hình.

Hai bên định ngày gặp lại nhau. Kissinger có ý muốn vào tháng 7, nhưng Xuân Thuỷ muốn sớm hơn và đồng ý sẽ gặp lại vào 26 tháng 6. Xuân Thuỷ một lần nữa hứa nghiên cứu kỹ đề nghị của Mỹ. Còn Kissinger đề nghị rằng giữa khoảng cách hai cuộc gặp riêng, hai bên không có hành động gì nổ bùng và yêu cầu ta không đưa ra công khai nội dung cuộc gặp.

Kế hoạch bảy điểm của Kissinger đã được sự đồng ý của Nguyễn Văn Thiệu, và được ông coi là bước ngoặt trong chính sách ngoại giao của Mỹ về Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Mỹ đưa ra một giải pháp toàn Đông Dương, nhưng họ lại tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị mặc dù trước đây họ đã nhận sẽ bàn cả gói.

Đây cũng là lần đầu tiên Mỹ nói sẵn sàng ấn định một thời hạn rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, nêu vấn đề rút quân ngoại nhập (quân miền Bắc) thành một điểm riêng giải quyết giữa các nước Đông Dương, mặc dù trước đây họ gắn vấn đề rút quân miền Bắc với vấn đề rút quân Mỹ trong một lịch cùng rút quân. Mỹ đề nghị ngừng bắn sau khi Mỹ bắt đầu rút quân theo thời gian biểu thoả thuận và nhận vấn đề tù binh là một bộ phận trong giải pháp.

So với đề nghị của Kissinger mà đại sứ Liên Xô ở Mỹ Đôbrinin nói, có hai điểm giống nhau cơ bản: Mỹ ấn định thời hạn rút quân đổi lấy việc Việt Nam chấp nhận ngừng bắn toàn Đông Dương. Đề nghị mới này của Mỹ không nêu cách giải quyết cả gói về quân sự và chính trị mà chỉ tập trung giải quyết vấn đề quân sự. Thực tế Mỹ bị thúc ép về thời gian muốn giải quyết sớm vấn đề quân sự trong mùa hè này hoặc trong năm nay, nhằm ngăn chặn hành động sắp tới của Việt Nam, chuẩn bị cho đợt rút quân mới vào tháng 11 tới và tạo điều kiện củng cố nguỵ quyền trong tuyển cử vào tháng 10 năm đó.

Mỹ dùng việc ấn định thời hạn rút hết quân Mỹ đổi lấy việc ta chấp nhận ngừng bắn toàn bộ và thả tù binh trước khi họ rút hết quân mà vẫn duy trì nguyên trạng chính trị. Hoa Kỳ còn đòi lực lượng Việt Nam rút ra khỏi ba chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia cùng một lúc hoặc sau khi Mỹ rút.

Tuy nhiên Mỹ tỏ ra mềm dẻo hơn trước trong một số vấn đề, thăm dò ý đồ ta nhằm đi tới một giải pháp có lợi cho Mỹ như: Mỹ sẵn sàng định thời hạn rút hết quân Mỹ, còn việc rút quân của Việt Nam do người Đông Dương giải quyết với nhau... ngừng bắn toàn Đông Dương sau khi quân Mỹ bắt đầu rút theo thời gian biểu thoả thuận... Mỹ công nhận vấn đề tù binh là một bộ phận của giải pháp và gắn với thời hạn rút quân. Về chính trị, họ nói mập mờ giải quyết vấn đề quân sự sẽ có tác động đến vấn đề chính trị.

Nếu Việt Nam có đáp ứng kế hoạch bảy điểm, tỏ ra muốn giải quyết thì có khả năng Mỹ đi vào mặc cả với Việt Nam tìm ra một giải pháp hai bên đều chấp nhận được vào cuối năm 1972.

Nếu trong thăm dò, Mỹ thấy ta không muốn giải quyết thì có khả năng Mỹ tiếp tục Việt Nam hoá, không tìm giải pháp trong năm 1972.

Xuất phát từ đánh giá và chủ trương trên, trước thời hạn họp ít lâu Hà Nội đưa tin công khai: Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Xuân Thuỷ, trở lại Paris sau gần 14 tháng vắng mặt.

Ngày 2 tháng 6, Kissinger đã nhận được lời mời sang thăm Bắc Kinh, nay lại thêm tin sẽ được gặp Cố vấn Lê Đức Thọ tại Paris. Như ông đã viết trong hồi ký: “Đây là thời điểm hy vọng khác thường" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr 1074.).

Tuy vậy, trên đường đi Paris gặp các nhà thương lượng Việt Nam, ông không phải không vấn vương nhiều lo âu thật sự. Ngày 22 tháng 6, Thượng nghị viện chấp thuận bằng 57 phiếu thuận trên 42, một tu bổ án của Mansfleld yêu cầu Tổng thống rút tất cả các lực lượng Mỹ khỏi Việt Nam trong vòng 9 tháng nếu Hà Nội bằng lòng thả hết tù binh. Thế thì kế hoạch năm điểm của ông hỏng bét vì năm trong bảy điểm đó, do nghị quyết này, sẽ mất tác dụng. Như thế Hà Nội biết khả năng của Chính quyền Nixon bị hạn chế, phía Việt Nam có thể không cần thương lượng một cuộc ngừng bắn hay định một thời hạn chấm dứt thâm nhập miền Nam.

Tuy nhiên ông vẫn hy vọng. Bước vào số nhà 11 phố Darthé quen thuộc, ông đã nhận thấy ngay hình ảnh về một cuộc nói chuyện hoà bình: Không nói về thái độ vui vẻ của chủ nhà, lần đầu tiên trên bàn làm việc có trải thảm xanh! Và trong giờ giải lao Lê Đức Thọ còn mời ông ra ngoài vườn nói chuyện có vẻ ý hợp tâm đầu.

Theo yêu cầu của Xuân Thuỷ, Kissinger lại giải thích thêm một lần nữa đề nghị bảy điểm đưa ra lần trước. Rõ ràng là Hà Nội rất quan tâm. Ông nói vui sau khi giải thích:

- Chúng tôi đã cố gắng theo sự chỉ dẫn của ngài Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ năm ngoái là phải nhìn vào thực tế khách quan.

Lê Đức Thọ:

- Nhưng ông chưa khách quan lắm!

Kissinger:

- Đã có tiến bộ chút nào chưa?

Lê Đức Thọ:

- Chưa nhích được tí nào.

Kissinger:

- Ngài là một giáo sư khó tính quá.

Xuân Thuỷ lại hỏi Kissinger về Hội nghị Quốc tế trong đề nghị của Mỹ và sau khi được giải thích, nhường lời cho Lê Đức Thọ.

Ông Thọ nói:

- Tính đến nay, ông Bộ trưởng Xuân Thuỷ và tôi đã gặp ông bảy lần (Kissinger thêm: đây là lần thứ tám), chúng tôi đã nhìn lại các cuộc gặp đó để rút ra những kết luận và để xem gặp ông có thể giải quyết được gì.

- Lần gặp thứ nhất, tháng 8 năm 1969 thì đến tháng 9 các ông mở cuộc tấn công Cánh Đồng Chum ở Lào.

- Lần thứ hai, chúng tôi gặp ông tháng 2 năm 1970. Lần này chúng tôi gặp ông đến hai, ba buổi liền. Nếu ông xem lại thì chúng tôi đang đi vào thực chất của vấn đề.

Kissinger:

- Đồng ý.

Lê Đức Thọ:

- Nhưng các ông lại tiến hành đảo chính ở Campuchia và mở cuộc tấn công lên Campuchia nên cuộc hội đàm giữa chúng tôi và các ông lại gián đoạn.

Kissinger cải chính là Mỹ không dính líu gì đến cuộc đảo chính ở Campuchia, thì Lê Đức Thọ nói tiếp:

- Chúng tôi tạm thời cho là các ông không làm đảo chính ở Campuchia, nhưng vào cuối tháng 4 năm 1970 ai đưa hàng chục vạn quân Mỹ và quân Sài Gòn tấn công Campuchia?

Kissinger nói rằng quan điểm hai bên về vấn đề trung lập Campuchia có khác nhau và không muốn nhắc lại quá khứ. Ông cũng cho lời ông Thọ nói rằng Hoa Kỳ phá hoại nền trung lập của Campuchia là không đúng. Lê Đức Thọ cũng không tranh cãi về vấn đề này mà chỉ nói rằng sự thật vẫn là sự thật, rồi tiếp:

- Lần thứ ba, Bộ trưởng Xuân Thuỷ gặp ông tháng 9 năm 1970 thì đến tháng 11 các ông dùng không quân đánh ra miền Bắc, một cuộc tấn công lớn nhất kể từ khi Mỹ chính thức chấm dứt ném bom miền Bắc. Các ông đã dùng trực thăng đổ biệt kích xuống gần Hà Nội.

Đến tháng 1 năm 1971, qua đại sứ Liên Xô ở Mỹ ông đề nghị gặp chúng tôi và đưa ra một số đề nghị. Chúng tôi đã trả lời là chúng tôi đồng ý gặp thì tháng 2 năm 1971, các ông mở cuộc tấn công lên đường 9 Nam Lào.

Thành ra mỗi lần chúng tôi gặp các ông để giải quyết vấn đề thì sau đó các ông đều tiến hành các cuộc tấn công quân sự, dùng sức mạnh quân sự ép chúng tôi trong đàm phán.

Kissinger nói rằng ông gặp Đôbrinin hôm 9 tháng 1 năm 1971 và chỉ nhận được trả lời của đại sứ Liên Xô hôm 23 tháng 2, tức là hai tuần lễ sau cuộc tấn công ở Lào.

Hai bên không bàn thêm về điều này và Lê Đức Thọ tiếp:

- Chúng tôi không dùng trung gian, nhưng chính các ông dùng trung gian nên chúng tôi phải trả lời qua trung gian.

Kết luận Lê Đức Thọ nói:

- Không biết sau lần gặp này các ông định làm gì nữa đây. Các ông có thật sự giải quyết hay còn giở nhiều thủ đoạn nữa. Đó là điều chúng tôi rất băn khoăn nghi ngờ vì qua các đề nghị của ông chúng tôi thấy các ông chưa thật sự muốn giải quyết. Các ông đặt cách giải quyết vấn đề chưa đúng.

Trước hết, các ông muốn tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị. Nhưng đó là một đề nghị không thực tế. Hồi đầu năm 1970, các ông đã đồng ý thảo luận vấn đề quân sự và vấn đề chính trị đi đôi. Không có cuộc chiến tranh nào mà lại không có mục đích chính trị. Quân sự chỉ là một thủ đoạn, một phương tiện để đạt mục đích chính trị mà thôi. Nếu tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị thì không giải quyết được vấn đề. Nếu cuộc chiến đấu của chúng tôi không đạt được mục đích chính trị, tức là hoà bình, tự do, độc lập thật sự, thì cuộc chiến đấu đó còn tiếp tục. Các ông đề nghị giải quyết vấn đề quân sự rồi ngừng bắn ngay trong khi chưa giải quyết vấn đề chính trị là nhằm mục đích củng cố nguỵ quyền tay sai. Các ông dùng bọn tay sai để tiếp tục thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.

Các ông lấy đề nghị quân sự để ép chúng tôi về vấn đề chính trị. Các ông lại nói đề nghị bảy điểm của các ông là đề nghị cuối cùng. Đó là tối hậu thư. Chúng tôi nghĩ rằng trong cuộc đàm phán thương lượng thật sự thì không có đề nghị cuối cùng được. Với tất cả đề nghị như vậy thì làm sao giải quyết được vấn đề và tin được rằng các ông muốn thương lượng nghiêm chỉnh.

Lê Đức Thọ còn nói nhiều đến sai lầm trước đây của Mỹ, đến tương lai thất bại của Việt Nam hoá chiến tranh. Ông nói:

“Các ông đã đưa chủ lực Ngụy ra mở các cuộc tấn công, nhưng quân Ngụy, cái xương sống của Việt Nam hoá chiến tranh, vừa qua đã liên tiếp bị đánh bại... Các cuộc bình định của các ông cũng không đạt được mục đích, chúng tôi nghĩ từ nay đến hết nhiệm kỳ của ông Nixon hoặc ông Nixon có trúng cử một nhiệm kỳ nữa cũng không thể thực hiện được. Thời gian không ủng hộ các ông...

Chiến tranh đã diễn ra trên toàn Đông Dương. Chúng tôi muốn giải quyết hoà bình khu vực này. Chúng tôi muốn Nam Việt Nam, Lào và Campuchia là một khu vực hoà bình, độc lập, trung lập và không liên kết thật sự. Miền Nam Việt Nam không thể trở thành thuộc địa kiểu thực dân mới, nhưng cũng không phải xã hội chủ nghĩa mà phải thật sự độc lập và trung lập, phải có một Chính phủ hoà hợp dân tộc gồm có các bên. Phải có một Chính quyền thật sự độc lập, dân chủ, trung lập, mong muốn hoà bình đế nói chuyện thật sự với Chính phủ Cách mạng Lâm thời, giải quyết hoà bình vấn đề Nam Việt Nam. Nếu các ông còn duy trì Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thì không giải quyết được vấn đề".

Về vấn đề Lào và Campuchia, Lê Đức Thọ nói Việt Nam sẵn sàng góp phần vào việc giải quyết vấn đề Lào và Campuchia sẵn sàng bàn với các bạn Lào và Campuchia... rồi lại nhắc lại phải giải quyết cả vấn đề quân sự và chính trị. Có giải quyết xong toàn bộ vấn đề như vậy mới có thể đi đến ngừng bắn có giám sát quốc tế và bảo đảm quốc tế.

Kissinger cho rằng phát biểu của Lê Đức Thọ là rất hùng hồn và quan trọng. Ông ta cũng nói rằng hai bên nghi ngờ lẫn nhau muốn dùng lợi thế quân sự để ép đối phương. Ông ta cho rằng phía Việt Nam có cách đề cập dựa trên những nguyên tắc chặt chẽ, lập luận của phía Việt Nam xuất phát từ các nguyên tắc chung, cho nên Việt Nam chỉ nhân nhượng một điểm nào đó. sau một thời gian rất dài. Người Hoa Kỳ nghĩ rằng người Việt Nam chẳng thương lượng gì cả. Ông nhắc lại mục tiêu của Mỹ và nói thêm:

- Quả thật đây là đề nghị cuối cùng của chúng tôi, nhưng các ngài có thể đưa ra đề nghị của các ngài. Chúng tôi đàm phán chứ không phải chúng tôi đưa ra tối hậu thư!

Kissinger cũng bào chữa cho Chính quyền Thiệu và nói Nixon thành thật muốn hoà bình. Xuân Thuỷ đề nghị nghỉ giải lao. Lê Đức Thọ mời Kissinger ra vườn dạo chơi. Còn Xuân Thuỷ lên gác, có lẽ để sửa chữa bản phát biểu của mình.

Khi trở lại phòng họp, nỗi vui mừng của Kissinger tăng thêm - và đúng như ông ta nói - thấy hy vọng khác thường khi Xuân Thuỷ trình bày đề nghị chín điểm:

1 - Rút hết quân Hoa Kỳ và quân nước ngoài thuộc phe Hoa Kỳ trong năm 1971.

2 - Việc thả hết quân nhân và thường dân bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành cùng một lúc với việc rút quân nói trên.

3 - Hoa Kỳ phải chấm dứt ủng hộ Thiệu -Kỳ - Khiêm, lập ra ở Sài Gòn một Chính quyền mới tán thành hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập. Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ nói chuyện với Chính quyền đó để giải quyết công việc nội bộ miền Nam và thực hiện hoà hợp dân tộc.

4 - Hoa Kỳ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, phải bồi thường những thiệt hại do Mỹ gây ra cho cả nước Việt Nam.

5 - Hoa Kỳ phải tôn trọng các Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, chấm dứt can thiệp và xâm lược các nước Đông Dương.

6 - Các vấn đề liên quan đến các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tham gia vào việc giải quyết các vấn đề đó.

7 - Các bên sẽ thực hiện ngừng bắn sau khi Hiệp nghị được ký kết.

8 - Qui định giám sát quốc tế.

9 - Có bảo đảm quốc tế đối với các quyền dân tộc cơ bản của các nước Đông Dương.

Những điểm trên đây là một thể thống nhất.

Kissinger hỏi rõ thêm nhiều điểm, hứa sẽ nghiên cứu kỹ, nhưng trước hết ông có nhận xét về điểm 4 (bồi thường chiến tranh). Ông nói rằng Mỹ không thể chấp nhận được vì Hoa Kỳ là một nước lớn. Chúng tôi đã nói nhiều lần là chúng tôi đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế tự nguyện và thiện chí vì đó là nguyên tắc và danh dự của Tổng thống.

Xuân Thuỷ:

- Nước Mỹ được người ta quí trọng không phải Mỹ có nhiều vũ khí và đô la. Điều cao quí ở đời là sự bình đẳng giữa các dân tộc dù lớn hay nhỏ. Mỹ đã gây ra thiệt hại, tất nhiên Mỹ phải đền bù. Đó là chuyện bình thường.

Đến đây cuộc gặp tạm dừng. Hai bên nói sẽ giữ bí mật và nghiên cứu ý kiến của nhau. Xuân Thuỷ cho Kissinger biết rằng bà Nguyễn Thị Bình muốn gặp đại diện cấp cao của Chính phủ Mỹ để nói rõ ý kiến của bà ấy.

Kissinger:

- Tôi sợ bà ấy lắm!

Xuân Thuỷ:

- Bà ấy là một phụ nữ mềm mỏng.

Kissinger:

- Nhưng bà ấy ghê lắm. Để xem chúng ta có tiến bộ trong nói chuyện hay không, để xem triển vọng thế nào đã.

Kissinger nhấn mạnh rằng:

- Nếu bà Bình công bố chín điểm thì Hoa Kỳ sẽ công bố bảy

Xuân Thuỷ:

- Chúng tôi giữ bí mật những điều nói trong diễn đàn này, nhưng chúng tôi làm sao ảnh hưởng đến bà Bình được.

Khi từ biệt, Kissinger còn nói thêm rằng ông ta xem xét chín điểm với thiện cảm và cố gắng tìm những điểm tương đồng chứ không phải giữ bất đồng. Ông tin rằng đây là thời gian then chốt để hai bên có những cố gắng lớn lao nhằm đạt được thoả thuận.

Về sau, ông ta viết về cuộc họp đó:

“Các dòng nghiệp của tôi và tôi tràn đầy phấn khởi khi nghĩ rằng lần đầu tiên Hà Nội đã đáp ứng lại một trong các đề nghị của chúng ta, dù rằng sự đáp ứng đó còn rất khó để nói là một dấu ấn của sự độ lượng" (Ở nhà Trắng. Sđd, tr 1078.).

Trong báo cáo về Nhà Trắng ông ta cũng viết:

"Những nhà lãnh đạo của họ (Hà Nội - Tác giả) đã đi gần tới cách nhìn của chúng ta... Đề nghị của họ có nhiều điểm tích cực đồng thời có nhiều điểm khó nuốt - Rõ ràng họ muốn thúc đẩy cuộc thương lượng xa hơn và một cách cụ thể” (H.Kissinger. Ở nhà trắng,tr 1079.).

Cũng trong thời gian này, Hà Nội hạ quyết tâm:

“Giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị kiên trì đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài” (Lịch sử KCCM. ĩ./1, tr 102l).

Trong thư ngày 29 tháng 6 năm 1971 gửi Trung ương cục miền Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết:

"Lúc này ta có khả năng kéo Mỹ xuống một bước nữa để giành một thắng lợi căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn... Muốn kéo Mỹ xuống nữa... phải dùng chính trị, ngoại giao kết hợp với quân sự... Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của ta trong mùa Xuân 1971, việc Mỹ rút thêm quân cuối năm nay và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1972 là những sự kiện do trùng hợp với nhau mà tạo nên thời cơ thuận lợi" (Lê Duẩn, Thư vào Nam. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 19S5, tr 271-272.).

Để phối hợp đấu tranh công khai và thương lượng bí mật, ngày 1 tháng 7 năm 1971 - tức là năm ngày sau cuộc gặp riêng - giữa hai bên nói trên - Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại Hội nghị bốn bên đưa ra đề nghị bảy điểm.

Vấn đề đầu tiên là đòi Mỹ rút quân Mỹ và quân nước ngoài thuộc phe Mỹ trong năm 1971 đồng thời thả tù binh cùng thời gian đó. Điều này phù hợp với Nghị quyết của Thượng nghị viện Mỹ thông qua ngày 22 tháng 6 năm đó.

Vấn đề lớn thứ hai là đòi chấm dứt ủng hộ nhóm cầm quyền do Thiệu cầm đầu, đòi chấm dứt mọi thủ đoạn, kể cả tuyển cử gian lận để duy trì bọn này và lập một Chính phủ hoà hợp dân tộc rộng rãi gồm ba thành phần ở miền Nam Việt Nam

Về các vấn đề khác như vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam, vấn đề thống nhất Việt Nam, chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập của miền Nam, vấn đề trách nhiệm của Mỹ trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh, bảo đảm quốc tế... Chính phủ Cách mạng Lâm thời vẫn giữ như cũ không có gì mới.

Bảy điểm này gần giống như chín điểm nhưng chỉ thu hẹp trong phạm vi miền Nam Việt Nam và chĩa vào Thiệu nhằm tác động đến tuyển cừ sắp tới ở Sài Gòn.

Việc đưa ra đề nghị này lại làm cho dư luận rộ lên về vấn đề Việt Nam và Hội nghị Paris. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ cũng luôn gặp gỡ các báo chí Mỹ và đại diện các nước. Phong trào chống chiến tranh ở Mỹ lại bùng lên. Kissinger nhận xét rằng "Kế hoạch của bà Bình đã được soạn thảo một cách rất thông minh đế lồng nó vào cuộc tranh luận công khai đang diễn ra ở Hoa Kỳ" (H.Kissinger. Ở nhà Trắng. Sđd, tr 1079.).

Quốc hội và báo chí Mỹ lại đòi Chính phủ đừng bỏ qua một dịp chưa từng có để lập lại hoà bình.

Chính quyền Nixon không dám bác bỏ ngay, mà còn nghiên cứu. Tại Sài Gòn, lúc đầu Chính quyền Thiệu cũng lên tiếng bác bỏ, nhưng trước sự hưởng ứng của dư luận cũng phải tìm cách né tránh, nói giống như Nixon.

Ngày 3 tháng 7, Kissinger đi Sài Gòn gặp Thiệu - Kỳ và Chủ tịch Thượng nghị viện ở đây. Ông còn gặp cả tướng Dương Văn Minh, người đã nắm quyền ba tháng sau khi Ngô Đình Liệm bị Mỹ lật đổ năm 1963, lúc đó có tin sẽ ra tranh cử Tổng thống với Thiệu vào tháng 10 tới.

Từ Sài Gòn, Kissinger bí mật bay đi Bắc Kinh, gặp các nhà lãnh đạo Trung Quốc (9 tháng 7 năm 1971) chuẩn bị cho chuyến đi thăm của Nixon sang Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa năm sau. Và sau đó, ngày 12 tháng 7, như qui định của hai bên trong phiên họp trước, Kissinger trở lại Paris hội đàm riêng với Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ suốt trong ba giờ, một cuộc họp mà ông cho là "đáng khích lệ nhất chưa từng có” (Như trên, tr 817.).

Kissinger trách Xuân Thuỷ về việc bà Bình đưa ra bảy điểm mà nội dung gần giống chín điểm của Xuân Thuỷ, tỏ ý nghi ngờ về thái độ nghiêm chỉnh của phía Việt Nam và nói rằng: "Các ngài cần lựa chọn giữa tuyên truyền và thương lượng... Các ngài đánh giá sai về tình hình Hoa Kỳ từ năm 1969, đến nay các ngài lại dựa vào tình hình Hoa Kỳ năm 1971, các ngài cũng sẽ sai lầm nữa...".

Xuân Thuỷ tỏ ra ngạc nhiên trước những lời nói mở đầu của Kissinger, ông nói:

- Những ý kiến ông nêu ra để trách chúng tôi thì đáng lẽ ra chúng tôi phải trách các ông mới đúng. Ông nói với chúng tôi là không gây ra những sự nổ bùng, nhưng ông vừa rời Paris được mấy hôm thì đã có sự nổ bùng trên chiến trường Đông Dương: Mỹ đang chỉ huy cuộc tấn công lấn chiếm Cánh Đồng Chum, ở Campuchia chiến sự nổ ra ở vùng Mỏ Vẹt. Tại Nam Việt Nam, máy bay B52 ném bom rất dữ dội ở nhiều vùng cùng với các cuộc càn quét ác liệt đang diễn ra. Ở miền Bắc, các ông đánh phá vùng giáp danh giữa Bắc Việt Nam và Lào, và cách đây mấy hôm lại ném bom lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Kissinger ngắt lời Xuân Thuỷ và hỏi rõ ở vùng nào. Xuân Thuỷ:

- Ở vùng Quảng Bình và Vĩnh Linh (ngày 30 tháng 6 và mồng 1 tháng 7 - Lê Đức Thọ thêm vào).

Xuân Thuỷ tiếp:

- Ông nói với chúng tôi là phải giữ bí mật nhưng ông đi châu Á được mấy hôm thì Washington tung tin là có những cuộc gặp bí mật. Bà Bình yêu cầu gặp ông, ông không gặp, tất nhiên bà ấy phải nói ở Hội nghị Kléber, nhất là ngày 30 tháng 6 đã qua, ngày mà bà Bình đề ra thời hạn rút hết quân Mỹ, nhưng các ông không đáp ứng thì bà ấy phải có tuyên bố khác.

Bộ trưởng còn nhấn mạnh Việt Nam dựa vào lực lượng của mình mà chiến đấu chứ không chờ tình hình biến chuyển ở Mỹ.

- Năm 1964 khi các ông ồ ạt đánh Việt Nam, Thượng viện, Hạ viện, và nhân dân Mỹ đều ủng hộ Chính phủ Mỹ cả, sao chúng tôi vẫn kháng chiến. Tóm lại, chúng tôi không làm tuyên truyền. Chúng tôi đưa ra chín điểm là thật sự muốn giải quyết nhanh chóng. Tôi tin rằng những đề nghị của bà Bình cũng là để giải quyết chứ không phải để tuyên truyền.

Kissinger nhắc lại sự nghi ngờ của ông nhưng cũng nói muốn đi vào thương lượng nghiêm chỉnh.

Lê Đức Thọ nhắc lại việc hai bên nghi ngờ nhau:

- Chúng tôi đã thương lượng với Hoa Kỳ ba năm rồi. Hội nghị Paris không tiến triển được là do phía Mỹ liên tiếp mở các cuộc họp tấn công quân sự rồi hạ thấp Hội nghị Paris hàng năm trời không có trưởng đoàn, trong khi Bộ trưởng Xuân Thuỷ vẫn ngồi nói chuyện với người thứ ba trong đoàn Mỹ...

Nhưng Lê Đức Thọ không tranh luận về vấn đề này mà đi vào bình luận đề nghị của Kissinger. Ông nói:

- Trong bảy điểm của các ông có những điểm mà chúng tôi đồng ý về nguyên tắc nhưng chưa đi vào cụ thể, nhưng có điểm về nguyên tắc chúng tôi chưa đồng ý. Ví dụ:

- Việc giám sát quốc tế về ngừng bắn tuy còn phải thảo luận nhưng về nguyên tắc thì đồng ý.

- Việc tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và Hiệp định Genève năm 1962 về Lào, chúng tôi cũng đồng ý và chúng tôi đã làm. Các ông nói phải có thể thức bảo đảm quốc tế, chúng tôi cũng đồng ý.

Còn vấn đề tù binh của hai bên, chúng tôi nói thả tù binh chiến tranh, các ông nói thả cả tù binh ở Đông Dương. Để thả tù binh, chúng tôi đòi Hoa Kỳ phải định ngày rút quân. Chính ông Nixon cũng nói thả tù binh thì Hoa Kỳ rút hết quân.

Có những điểm ông đưa ra chúng tôi không đồng ý. Thí dụ: điểm hai của các ông (rút quân ngoại nhập ra khỏi các nước Đông Dương - Tác giả) và điểm sáu của chúng tôi về việc giải quyết các vấn đề giữa người Đông Dương với nhau còn khác xa lắm...

Theo yêu cầu Lê Đức Thọ, Kissinger bình luận chín điểm của Việt Nam, nhưng trước khi trình bày, ông ta bào chữa cho việc Hoa Kỳ ném bom Vĩnh Linh, Quảng Bình là do Việt Nam tập trung ở phía Bắc khu phi quân sự uy hiếp quân Mỹ. Ông ta vẫn cay cú về việc đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời đưa công khai bảy điểm và nói Mỹ đàm phán với Việt Nam chứ không phải với tờ Thời báo New York (trong hai ngày liền, 2 và 3 tháng 7 báo này có phê phán thái độ thiếu thiện chí của Chính quyền Nixon đối với để nghị của bà Bình, và thúc giục Mỹ phải nắm lấy thời cơ - Tác giả).

Sau đó Kissinger bình luận từng điểm một trong đề nghị của Việt Nam:

* Về điểm 1 - Chúng tôi sẵn sàng đưa ra một thời hạn rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh như mục 1 của chương trình làm việc một khi chúng ta đã đạt được thoả thuận về cái khung, chưa đi vào cụ thể của cái khung đó.

* Về điểm 2 - Chúng tôi chấp nhận cách viết của các ngài với hai điểm nói rõ thêm như sau:

- Hai bên sẽ đưa danh sách quân nhân và thường dân vô tội bị giam giữ trên toàn Đông Dương vào ngày đạt được thoả thuận.

- Việc thả tù binh sẽ bắt đầu cùng ngày với việc rút quân của chúng tôi theo một thời gian biểu được thoả thuận và sẽ hoàn thành cùng ngày với các cuộc rút quân.

Các ngài nhận thấy chúng tôi bỏ điểm nói rằng tù binh phải được thả hết hai tháng trước khi hoàn thành các cuộc rút quân xem đó là cử chỉ thiện chí và nhằm đẩy nhanh tiến bộ.

* Về điểm 3 - Tôi muốn gác lại và thảo luận riêng trong phần cuối những nhận xét của chúng tôi.

* Điểm 4 - Không thể chấp nhận được về nguyên tắc như tôi đã nói lần trước. Tôi sẽ bình luận về điểm này sau khi tôi đã phát biểu về các điểm khác.

* Điểm 5 - Chúng tôi chấp nhận về nguyên tắc nhưng không theo lời lẽ dự thảo hiện nay. Chúng tôi sẵn sàng tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 và năm 1962 trên cơ sở có đi có lại áp dụng cho tất cả các nước. Chúng tôi xem những từ ngữ như "Hoa Kỳ xâm lược" là những sáo ngữ không thể chấp nhận được và phải bỏ đi. (Có trao đổi ngoài lề một chút về vấn đề này, không quan trọng lắm).

Về điểm 6 - Chúng tôi chấp nhận nguyên tắc là tương lai của Đông Dương phải do các bên Đông Dương giải quyết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Nhưng câu cuối của các ngài là không cần thiết...

* Về điểm 7 - Chúng tôi chấp nhận về nguyên tắc, nhưng muốn viết lại: sẽ có một cuộc ngừng bắn chung trên toàn Đông Dương bắt đầu khi Hiệp định được ký kết, xem như một phần của ngừng bắn, không được đưa thêm lực lượng ngoại nhập vào các nước Đông Dương.

Chúng tôi chấp nhận điều 8 và điều 9. Như thế là chúng tôi đồng ý các điểm 8 và 9, đồng ý về nguyên tắc các điểm 1, 2, 5, 6, 7.

Tiếp đó ông nói về điểm 3 và điểm 4.

Về điểm 4, Kissinger nói:

- Như tôi đã nói trong phiên họp lần trước, quan niệm về bồi thường là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên Tổng thống cho phép tôi nói với các ngài rằng chúng tôi muốn khởi đầu một mối quan hệ với các ngài cũng như với các nước Đông Dương.

Do đó, sau khi ký kết hoà bình, Tổng thống sẵn sàng mở đầu một chương trình viện trợ lớn tất cả các nước Đông Dương xem như một cử chỉ thiện chí. Chúng tôi sẽ làm việc đó như một hành động tự nguyện mà các ngài có thể tin cậy, chứ không xem như một nghĩa vụ hay một điều kiện hoà bình...

Mặt khác, chúng tôi có thể chấp nhận về nguyên tắc điểm 3 của các ngài theo nghĩa chung của nó. Chúng tôi có thể đồng ý là chúng tôi không cam kết với bất cứ một Chính phủ nào ở Sài Gòn, nhưng cũng theo nguyên tắc ấy chúng tôi phải được quan hệ với bất cứ Chính phủ nào tồn tại ở đó.

Chúng tôi sẵn sàng đồng ý về một mối quan hệ được quy định với bất cứ một chính phủ nào ở Sài Gòn sau khi Hiệp định hoà bình được ký kết. Nghĩa là chúng tôi sẵn sàng xác định mối quan hệ cụ thể về kinh tế, quân sự và chính trị mà một Chính phủ Sài Gòn có thể có với chúng tôi trong điều kiện hoà bình. Về vấn đề này chúng tôi sẵn sàng xem xét nghiêm chỉnh một số ý kiến nêu trong điểm 4b và điểm 5 trong đề nghị ngày 1 tháng 7 của bà Bình.

Đó là mức xa nhất chúng tôi có thể đi, cũng là mức tối đa các ngài có thể nêu ra một cách thực tế.

Chuyến đi Sài Gòn đã làm cho tôi tin rằng cách nhanh nhất để bắt đầu sự tiến triển chính trị đó là chúng ta thoả thuận trong mùa hè này một giải pháp cho cuộc xung đột.

Hoa Kỳ không chống ý kiến về vấn đề thống nhất Việt Nam nêu ở đoạn 4a trong tuyên bố của bà Bình. Tôi cũng cần phải vạch rõ rằng chúng tôi giữ thêm điểm 2 trong đề nghị bảy điểm của chúng tôi.

Cuối cùng, Kissinger kết luận:

- Bây giờ là thời gian chủ chốt để hai bên có những cố gắng to lớn nhằm thực hiện những tiến bộ để đi đến thoả thuận. Không có lúc nào thuận lợi hơn để đem lại hoà bình cho nhân dân chúng ta và nhân dân thế giới.

Xuân Thuỷ nêu ra một loạt câu hỏi, và cuộc thảo luận kéo dài. Xuân Thuỷ muốn gây sức ép để Kissinger đưa ra một ngày cụ thể để về việc rút quân Mỹ. Nhưng ông ta không chịu mà chỉ nói rằng đó là điểm thứ nhất trong chương trình làm việc khi hai bên thoả thuận về cái khung.

Về vấn đề thay Nguyễn Văn Thiệu vào lúc trước bầu cử tháng 10 được trao đổi nhiều.

Xuân Thuỷ nhấn mạnh:

- Thế nào cũng phải thay Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu... Các ông đã cung cấp cho họ một bộ máy quân sự, cảnh sát và hành chính để đàn áp nhân dân và những người đối lập. Như vậy là trên thực tế các ông vẫn duy trì Chính quyền Thiệu. Tôi xin nói nếu không thay Chính quyền Thiệu thì không thể giải quyết hoà bình được vấn đề Việt Nam... Ông nói không thể làm được nhưng chúng tôi lại cho rằng các ông có khả năng làm nhưng các ông không chịu làm. Nếu các ông không chịu làm việc này thì không những đàm phán không có kết quả được mà dư luận sẽ cho rằng Mỹ không muốn rút khỏi miền Nam Việt Nam. Các ông không muốn giải quyết vấn đề này t?