Chương 11 .
Pháo đài bay không lật được thế cờ
Ngày 6 tháng 1 năm 1973, Lê Đức Thọ tới Paris. Năm 1968, Bộ trưởng Xuân Thuỷ tới phi trường De Gaulle trong vòng nguyệt quế của Tết Mậu Thân. Hôm nay Cố vấn Lê Đức Thọ tới trong hào quang của "trận Điện Biên Phủ trên không".
Xuân Thuỷ, đông đảo bà con Việt kiều, các bạn Pháp, Lào, Campuchia, Phi, Mỹ la tinh, hàng trăm nhà báo, hồ hởi vây quanh ông. Có thể nói đó là một cuộc mít tinh nhỏ chào mừng nhân dân Hà Nội, bất chấp pháo đài bay của Mỹ, đã đánh lui ý chí của Nixon muốn dùng sức mạnh áp đặt điều kiện với nhân dân Việt Nam.
Trong lúc đoàn Việt Nam trở lại bàn Hội nghị trên tư thế người chiến thắng thì đoàn Mỹ chỉ gợi lên những hình ảnh tàn phá và đau thương còn nóng rực hơi bom trong lễ Giáng sinh.
Những sự kiện chính trị mới nhất ở Washington còn theo họ như cái bóng: Nghị quyết ngày 2 tháng 1 năm 1973 của khối Dân chủ đối lập ở Hạ viện đòi cắt tất cả những chi phí cho các hoạt động dân sự Mỹ ở Đông Dương trừ kinh phí cho việc rút quân và hồi hương tù binh; tiếp theo là Nghị quyết tương tự của khối Dân chủ ở Thượng viện; phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở khắp nơi.
Khốn khổ cho Kissinger! Bóng ma phản chiến theo ông ta đến mức như ông ta kể lại trong Hồi ký, ngày 13 tháng 1 năm 1973 (sau khi cơ bản hoàn thành các văn kiện ở Paris) Kissinger về đến Washington, nhưng rất nhiều nhà báo đã tập trung đón ông, nên đài chỉ huy phải cho máy bay của ông ta đỗ ở một góc cách xa căn cứ Homestead ngoài cả tầm của máy thu hình (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1526.).
Đã dùng đến con chủ bài mạnh nhất mà không đạt được mục tiêu trước sức ép của Quốc hội và quần chúng, Chính quyền Nixon sẽ làm gì trong cuộc gặp gỡ sắp tới các đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời?
Cuộc họp đầu tiên của đợt đàm phán này diễn ra tại ngôi nhà quen thuộc ở Gif-sur-yvette bắt đầu từ 11 giờ sáng. Đoàn Việt Nam, khác với những lần trước, không ra đón Kissinger ngoài cổng. Khi đoàn xe Mỹ tới, người bảo vệ Pháp ra mở cổng, đoàn xe tiến vào sân, sân không có người Việt Nam nào. Chắc cũng hiểu ý nghĩa của sự lạnh nhạt đó, Kissinger dẫn đoàn của mình vào thẳng phòng họp để đón nhận cái chào lịch sự nhưng cũng lạnh nhạt của các đồng sự Việt Nam.
Lê Đức Thọ nổ phát súng đầu, phê phán mạnh mẽ thái độ lật lọng của Mỹ, lên án cuộc ném bom tàn bạo 12 ngày đêm, rồi nói:
- Các ông lấy cớ đàm phán gián đoạn để ném bom lại miền Bắc Việt Nam giữa lúc tôi vừa về đến nhà. Việc các ông "đón" tôi khi về đến Hà Nội có thể nói là rất “lịch sự"! Tôi có thể nói rằng hành động của các ông rất trắng trợn và thô bạo. Các ông tưởng rằng làm như vậy là có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm... Chính các ông đã làm cho cuộc đàm phán khó khăn, chính các ông đã làm cho danh dự nước Mỹ bị hoen ố.
Ông đòi Mỹ chấm dứt thủ đoạn thương lượng trên thế mạnh và đi vào đàm phán nghiêm chỉnh.
Kissinger không bào chữa hăng hái như những lần trước, chỉ thanh minh rằng sở dĩ có những sự việc vừa qua là vì cách đàm phán của Việt Nam trong tháng 12 làm cho Washington cho là Việt Nam kéo dài đàm phán, không muốn giải quyết:
- Bây giờ số vấn đề tồn tại đã giảm xuống con số rất nhỏ; nếu lần này chúng ta không thể giải quyết được thì tôi chắc rằng các lần sau cũng không thể giải quyết được. Tôi hy vọng rằng kết thúc đợt họp này thì chúng ta đã đem lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương...
Lê Đức Thọ tiếp tục phê phán Mỹ gay gắt.
- Tôi có nghe những tính từ, tôi đề nghị không dùng những từ đó! Kissinger nói.
- Tôi dùng những tính từ đó cũng là kiềm chế lắm rồi - ông Thọ đáp - Chứ dư luận thế giới, các nhà báo và chính các nhân vật ở Mỹ còn dùng những câu chữ dữ dội hơn nhiều.
Kissinger ngồi im.
Chuyển sang bàn chương trình nghị sự, không khí vẫn căng thẳng. Kissinger yêu cầu dựa trên cơ sở những thoả thuận ngày 23 tháng 11 năm 1972, như đã nêu trong các công hàm gửi Hà Nội ngày 18 tháng 12 và 27 tháng 12 năm 1972 (tức là đòi Quân đội miền Bắc rút về miền Bắc). Lê Đức Thọ bác bỏ quan điểm đó và khẳng định rằng cơ sở tiếp tục thảo luận là kết quả làm việc cho đến ngày 13 tháng 12 năm 1972, do vậy trong Hiệp định chỉ còn hai vấn đề lớn: khu phi quân sự và cách ký các văn kiện; ngoài ra có một số vấn đề không phải là quan trọng do chuyên viên nêu lên.
Cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề cơ sở thảo luận là gì, thoả thuận ngày 23 tháng 11 năm 1972, hay các thoả thuận cho đến ngày 13 tháng 12 năm 1972, kéo dài đến hết buổi sáng.
Lê Đức Thọ nói:
- Không, bây giờ dứt khoát đi. Chỉ còn hai vấn đề đó để thảo luận thôi rồi đến các vấn đề cụ thể khác. Nếu ông đồng ý hai vấn đề đó thì chúng tôi thảo luận. Tôi giữ đúng điều trong thông điệp của các ông gửi cho chúng tôi. Lời các ông nói còn đó, biên bản còn đó? Tôi thấy ông là người rất quanh co.
Đến đầu buổi chiều mới thoả thuận được chương trình làm việc: giải quyết hai vấn đề lớn trong Hiệp định; bàn các hiểu biết và nguyên tắc các Nghị định thư, sau đó bàn vấn đề thời gian biểu.
Hai vấn để lớn tồn tại của Hiệp định
Ngày 9 tháng 1, họp tại nhà của một nhà kinh doanh Mỹ ở Saint-nom-la- Bretèche trên một ngọn đồi nhỏ do phía Mỹ sắp xếp. Bàn hai vấn đề tồn tại của Hiệp định.
Đến phiên họp ngày 12 tháng 12 năm 1972, trong vấn đề khu phi quân sự chỉ còn một chỗ khác là ghi vấn đề đi lại của nhân dân hay ghi vấn đề qua lại dân sự. Người ngoài cuộc có thể thắc mắc có gì vướng mắc giữa hai khái niệm đó để không thể thoả thuận được?
Người ta nhớ Hiệp định Genêve năm 1954 qui định việc thành lập một khu phi quân sự ở hai bên vĩ tuyến 17 được coi là giới tuyến quân sự tạm thời nhằm giải quyết vấn đề tập kết chuyển quân, cách ly hai miền Nam, Bắc Việt Nam trong hai năm chờ đợi thống nhất nước Việt Nam. Hai bên đã đồng ý giữ khu phi quân sự, giới tuyến quân sự tạm thời, nhưng mỗi bên có sự lo lắng riêng của mình. Phía Việt Nam coi nước Việt Nam là thống nhất, mọi qui định về khu phi quân sự coi hai miền Nam, Bắc là hai Quốc gia riêng biệt đều không thể chấp nhận được, đây là vấn đề nguyên tắc không thể nhân nhượng. Phía Việt Nam cũng không muốn có sự hạn chế nào đối với sự đi lại của lực lượng quân sự của mình. Còn về phía Mỹ và Sài Gòn, họ muốn coi giới tuyến quân sự tạm thời là biên giới Quốc gia và muốn ngăn chặn lực lượng quân sự vũ khí đạn dược, lương thực từ miền Bắc vào miền Nam. Phía Mỹ đòi ghi công thức “qua lại dân sự" để muốn nói rõ rằng việc “qua lại quân sự" là mặc nhiên bị cấm. Phía Việt Nam không chịu ghi “qua lại dân sự" là muốn ngỏ cửa cho việc đi lại quân sự. Thật ra phía Việt Nam cũng nêu quá cao vấn đề vì khi đó Quân Giải phóng miền Nam đã hoàn toàn làm chủ phần Nam của khu phi quân sự, nếu Hiệp định được ký kết trên nguyên tắc ngừng bắn tại chỗ thì họ vẫn có quyền đóng tại phần Nam khu phi quân sự. Về phía Mỹ, họ đã chịu mất khu phi quân sự, toàn tỉnh Quảng Trị nối với Tây Nguyên thì việc ngăn cấm lực lượng quân sự chỉ mang ý nghĩa lý thuyết nếu không phải là vô tích sự.
Trong cuộc thương lượng về khu phi quân sự, đến ngày 23 tháng 11 năm 1972, hai bên đã thoả thuận công thức “hai miền tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời". Ngày 12 tháng 12 năm 1972, phía Việt Nam đề nghị ghi "Trong các vấn đề thương lượng qua lại giới tuyến quân sự tạm thời”, Kissinger nói nếu thêm chữ dân sự thì có khả năng xem xét. Tuy vậy vấn đề vẫn bị treo lại.
Vào phiên họp hôm nay, Lê Đức Thọ khai thông việc giải quyết vấn đề khu phi quân sự bằng cách đưa công thức "trong các vấn đề sẽ thương lượng có vấn đề đi lại của nhân dân...". Kissinger nói có thể đồng ý nếu thêm “phù hợp với tính chất đặc biệt của khu phi quân sự và với các điều khoản của Hiệp định và các Nghị định thư kèm theo Hiệp định".
Đến đây lại nổ ra cuộc tranh luận gay gắt về đề nghị của Kissinger.
Lê Đức Thọ giải thích rằng nhân dân không bao hàm quân đội lực lượng vũ trang, nhưng cuối cùng đưa ra công thức "trong vấn đề thương lượng có vấn đề thể thức qua lại dân sự giới tuyến tạm thời”. Kissinger chấp nhận.
Kissinger còn đòi sửa lại điều I - Mỹ không muốn thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Lê Đức Thọ bác bỏ ngay. Kissinger phải gác lại và xin hoãn họp ngày hôm sau.
Các vấn đề nhỏ khác được thay đổi bằng cách đổi chác. Trong điều 12 - b về nhiệm vụ Hội đồng hoà giải hoà hợp dân tộc, Mỹ đồng ý giữ chữ “đôn đốc” trong bản tiếng Việt để Việt Nam bỏ câu “và các Nghị định thư kèm theo Hiệp định này”. Mỹ đồng ý sửa câu đầu của điều 20 - a để Việt Nam đồng ý để chữ “đã bị phá huỷ" trong điều 7. Câu đầu điều 20-a trong văn bản thoả thuận ngày 20 tháng 10 năm 1972 là "bốn Chính phủ (đủ tên) triệt để tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đã được Hiệp định Genève năm 1954 về Đông Dương và Hiệp định Genève năm 1962 về Lào công nhận...".
Ngày 7 tháng 12 hai bên đã thoả thuận: ‘các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam triệt để tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và Hiệp định Genève năm 1952 về Lào triệt để tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của...". Hôm nay hai bên giải quyết xong vấn đề về công thức: "Các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam triệt để tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và Hiệp định Genève năm 1962 về Lào đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Lào và Campuchia: độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các nước đó".
Đến đây văn bản Hiệp định coi như đã hoàn thành.
Các hiểu biết
Cuối ngày 9, ngày 10 và sáng ngày 11, hai bên chủ yếu bàn giải quyết cho xong các hiểu biết.
Đặc điểm của Hiệp định Paris về Việt Nam là ngoài các Nghị định thư, Phụ lục ra, còn có những hiểu biết (understanding). Đây là một loại hình thoả thuận mà các bên ký kết, vì lý do của mình, thấy không nên hoặc không cần ghi vào Hiệp định hoặc Nghị định thư kèm theo. Nội dung các hiểu biết có thể là những vấn đề cụ thể, có thể là vấn đề nguyên tắc. Các hiểu biết tuy vậy vẫn được coi là bộ phận của Hiệp định.
Kèm theo Hiệp định Paris lần này có tám hiểu biết: năm bản có ý nghĩa thực chất, ba bản có ý nghĩa kỹ thuật.
Hiểu biết về việc Mỹ chấm dứt trinh sát đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Mỹ đã chấp nhận vấn đề này, nhưng hôm nay hai bên mới thoả thuận cách viết, thực tế là thông qua văn bản hai bên đã chấp nhận ngày 12 tháng 12 năm 1972.
Hiểu biết về trao trả nhân viên dân sự bị bắt
Ngày 10 tháng 1 năm 1973, Kissinger đọc “hiểu biết" về nhân viên dân sự Việt Nam bị giam giữ ở miền Nam Việt Nam.
"Hoa Kỳ sẽ dùng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy các bên miền Nam Việt Nam trao trả trong khuôn khổ thời gian định ra bởi các điều khoản phù hợp của Hiệp định và trao trả đa số có thể được trong vòng 60 ngày. Tuy nhiên Hoa Kỳ nói rõ rằng tác dụng của ảnh hưởng đó trực tiếp chịu ảnh hướng của 1) mức độ của việc bố trí lại lực lượng thuộc quyền chỉ huy của Chính phủ Cách mạng Lâm thời cũng như Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đề nghị ngày 23 tháng 11 năm 1972, và 2) mức độ tiến bộ về việc phục viên Lực lượng vũ trang Nam Việt Nam theo điều 131”.
Lê Đức Thọ:
- Tôi hoàn toàn bác bỏ đề nghị này của ông. Tôi không thể chấp nhận được.
- Tại sao ông bác bỏ? - Kissinger hỏi.
Lê Đức Thọ:
- Vì rằng đề nghị của tôi với ông về cái gọi là Lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam thuộc Chính phủ Cách mạng Lâm thời bố trí lại một cách tượng trưng. Chúng tôi đề nghị điều đó trong khuôn khổ yêu sách của chúng tôi đòi thay đổi điều 8c (nhân viên dân sự Việt Nam bị giam giữ), về sau ông không chịu, chúng tôi để nguyên điều 8c và chúng tôi chỉ giữ điều cam kết mà ông đã nói với chúng tôi. Chúng tôi cũng nhắc tới điều đó trong thông điệp của chúng tôi gửi cho Tổng thống Mỹ. Vì vậy cho nên sự trả lời của Tổng thống đã tỏ ra thoả mãn với sự trả lời của chúng tôi về điều 8c và về việc thay thế vũ khí, và do đó đã coi văn bản Hiệp định là hoàn thành. Trong thông điệp chúng tôi có nhắc đến lời cam kết đó cho nên chúng tôi vẫn giữ cái đó.
Bây giờ ông đặt ra vấn đề phức tạp như thế này thì tôi cho rằng sẽ không giải quyết được và tôi cho rằng bằng cách đặt vấn đề như thế này ông sẽ làm trở ngại cho việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Cho nên chúng tôi không bao giờ chấp nhận điều đó, tôi đã nói điều này nhiều lần lắm rồi.
Lê Đức Thọ còn phê phán Kissinger đã lật ngược các điều cam kết của Kissinger rất nhiều lần.
Kissinger cố gắng thanh minh và nói:
- Những điều chúng tôi nói trong đoạn 2 trong văn bản này là những điều kiện khách quan, nhưng thôi, chúng tôi thấy không cần nói như vậy trong một sự hiểu biết. Do đó để giải quyết công việc nhanh chóng, chúng tôi xin rút lui đoạn thứ 2.
Sang vấn đề hiểu biết về việc rút tàu chiến và tàu sân bay Mỹ ra khỏi bờ biển Việt Nam. Có hai vấn đề phải thảo luận là xa bờ biển Việt Nam hay xa bờ biển Bắc Việt Nam thôi. Lê Đức Thọ đọc dự thảo đòi các tàu chở máy bay của Hoa Kỳ sẽ di chuyển nơi đậu ra xa cách bờ biển Việt Nam 300 hải lý - căn cứ vào thông điệp của Hoa Kỳ ngày 30 tháng 10 năm 1972, và bắt đầu thi hành từ ngày ký Hiệp định.
Kissinger đưa ra nhiều lý do để lùi lại 60 ngày mới thực hiện việc đó và chỉ rút cách bờ biển Bắc Việt Nam 300 hải lý - còn đối với bờ biển Nam Việt Nam thì không thể như thế được.
Lê Đức Thọ phê phán Kissinger là lật ngược lại lời tuyên bố 20 tháng 10 năm 1972 của ông ta, và như vậy Mỹ vẫn uy hiếp miền Nam Việt Nam. Hôm đó chưa giải quyết được. Đến ngày 13 tháng 1 năm 1973, phía Mỹ nhận có hai hiểu biết; - một hiểu biết nói: "Hoa Kỳ có ý định chắc chắn chuyển các tàu chở máy bay của mình ra khỏi bờ biển Bắc Việt Nam quá 300 hải lý... - một hiểu biết miệng đối với miền Nam Việt Nam: “Sau khi rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ có ý định chắc chắn không đậu các tàu chở máy bay của mình cách xa bờ biển Việt Nam dưới 100 hải lý”
Hiểu biết về nhân viên dân sự Mỹ liên quan đến quân sự.
Để cho Chính quyền Sài Gòn có thể đứng được, Nixon ồ ạt đưa thêm vũ khí vào miền Nam Việt Nam theo kế hoạch ENHANCE PLUS đồng thời lập Văn phòng tuỳ viên quốc phòng (DAO) để thay Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn. Nhân viên dân sự nói đây là những quân nhân mặc dân sự của DAO.
Mỹ đã chấp nhận rút rồi, vấn đề còn lại là trong thời hạn nào. Lúc đầu phía Mỹ đòi 15 tháng, phía Việt Nam đòi 6 tháng. Phía Mỹ xuống dần 14 tháng rồi 12 tháng. Phía Việt Nam đồng ý 12 tháng.
Hiểu biết về vấn đề Lào và Campuchia
Trong đợt đàm phán lại tháng 11 năm 1972, Mỹ tỏ ra muốn có ngừng bắn sớm ở Lào đồng thời hoặc vài ba ngày sau ngừng bắn ở Việt Nam; và muốn cùng Việt Nam dùng ảnh hưởng để chấm dứt các hoạt động tấn công và khôi phục Uỷ ban Quốc tế ở Campuchia. Đây là những vấn đề liên quan đến chủ quyền của Lào và Campuchia, Việt Nam không thể thay mặt hai nước đó mà bàn bạc với Mỹ được. Tuy vậy ta có thể bàn bạc với Lào vì Neo Lào Hắc Xát là đồng minh thân thiết của ta (Neo Lào Hắc Xát đã thông báo chính thức cho ta đồng ý sẽ sớm ký Hiệp định với Chính phủ Phouma. Và ngày 21 tháng 2 năm 1973 Hiệp định về lập lại hoà bình ở Lào đã được ký kết tại Lòng Chăn, sau Hiệp định về Việt Nam ba tuần (xem lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập II, trang 540, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 1995)).
Đối với Campuchia, vấn đề có khó khăn hơn vì Trung Quốc có ảnh hưởng ở đây và phái Pol Pot lại chống Việt Nam. Lần này phía Mỹ muốn ngừng bắn sớm hơn và đặt lại vấn đề Campuchia. Đoàn Việt Nam kiên quyết không bàn thêm về vấn đề Campuchia và nhận sẽ bàn với đồng minh Lào ngừng bắn trong vòng 15 ngày sau khi Hiệp định về Việt Nam được ký kết. Sau hai bên thoả thuận chỉ có hiểu biết về Lào.
Còn về Campuchia, phía Mỹ đành bằng lòng với đoạn c: "Sau khi chiến tranh ở Việt Nam chấm dứt, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tích cực góp phần mình vào việc lập lại hoà bình ở Campuchia" trong công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 21 tháng 10 năm 1972, trả lời công hàm ngày 20 tháng 10 năm 1972 của Tổng thống Mỹ về vấn đề này (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr. 1523.).
Ngoài năm hiểu biết trên đây, còn ba hiểu biết nữa có tính chất kỹ thuật giao cho chuyên viên duyệt lại.
Cách ký Hiệp định
Cách ký là một vấn đề kỹ thuật nhưng thật ra lại là vấn đề chính trị mà cả bốn bên đều quan tâm. Đây là một cuộc Hội nghị gồm bốn bên thuộc hai phe, các bên khác phe không ai công nhận ai, riêng Mỹ không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về ngoại giao nhưng công nhận là một bên đàm phán có giá trị và đã nhận sẽ cùng ký. Và làm sao có thể khác được khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là địch thủ chính của Mỹ? Ý của Mỹ và Nguyễn Văn Thiệu là không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam sẵn sàng ký với Chính phủ Việt Nam Cộng hoà nhưng kiên quyết không chấp nhận việc gạt bỏ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong các văn kiện và cách nêu tên người ký kết. Như vậy không chỉ có vấn đề cách ký mà cả vấn đề nêu tên các bên ký kết và chức vụ người ký kết.
Trong đợt đàm phán lại tháng 12 năm 1972, lúc đầu Kissinger đề nghị: Mỹ, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời (ba bên) ký chung một văn bản có lời mở đầu ghi đủ tên bốn chính phủ và Bộ trưởng Ngoại giao ký: Chính phủ Cộng hoà Việt Nam ký riêng một bản với Lời mở đầu "Việt Nam Cộng hoà hành động phối hợp vó các bên tham gia Hội nghị Paris...". Năm ngày sau, Kissinger lại đề nghị: Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký một văn bản với Lời mở đầu và điều 23 đầy đủ (điều 23 qui định Hiệp định do Bộ trưởng Ngoại giao ký); Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Chính phủ Việt Nam Cộng hoà mỗi bên ký dưới hình thức công hàm gia nhập (adherence).
Lê Đức Thọ không đồng ý cả hai cách và ngày 11 tháng 12 đề nghị: ký ba văn bản: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ ký một văn bản, Chính phủ Cộng hoà Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời mỗi bên ký một văn bản Hiệp định cùng một nội dung, nhưng ngày 13 tháng 12 lại rút lại.
Trong đợt đàm phán lại tháng 1 năm 1973, Lê Đức Thọ đòi hai bên ký và bốn bên ký. Kissinger không đồng ý và đề ra ba cách ký để chọn một;
- Chỉ có hai bên Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký như đã thoả thuận tháng 10 năm 1972.
- Ký bốn bên nhưng không có tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Việt Nam Cộng hoà trong Lời mở đầu, không có chức vụ người ký.
- Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký một văn bản, Lời mở đầu và điều 23 đầy đủ; Chính phủ Việt Nam Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký hai văn bản riêng, nội dung Hiệp định đầy đủ nhưng Lời mở đầu không có tên bốn Chính phủ, ký tên nhưng không có chức vụ.
Cả ba cách giống nhau ở một điểm: không có tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời và chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Ngày 9 tháng 1, Lê Đức Thọ đề nghị công thức mới: Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ký tắt, bốn bên ký chính thức với Lời mở đầu có tên bốn Chính phủ, người ký có nêu chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao. Phía Mỹ không chấp nhận. Sau khi văn bản Hiệp định hoàn thành, Lê Đức Thọ đưa một công thức mới, mềm dẻo hơn:
- Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký với Lời mở đầu và điều 23 đầy đủ.
- Bốn bên ký với Lời mở đầu "Các bên tham gia Hội nghị Paris" (không nêu tên bốn Chính phủ), Hiệp định sẽ do bốn Ngoại trưởng ký đồng thời.
Ngày 11 tháng 1, hai bên tập trung giải quyết vấn đề cách ký. Dựa vào đề nghị trên của Lê Đức Thọ, Klssinger đề nghị: hai bên ký, bốn bên ký nhưng trong bản bốn bên thì mỗi bên ký một tờ riêng biệt và cả bốn tờ đó gộp chung vào Hiệp định; người ký đều có ghi chức vụ.
Đến đây coi như đã thoả thuận sẽ ký hai bên và bốn bên.
Về văn bản hai bên ký, Lê Đức Thọ đề nghị: Lời mở đầu ghi đủ tên bốn Chính phủ, điều 23 ghi: "Văn bản này do Bộ trương Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Hoa Kỳ ký, và văn bản Hiệp định cùng nội dung và lời văn do Bộ trưởng Ngoại giao (kể đủ bốn Chính phủ) ký cùng ngày hôm nay hợp thành một Hiệp định quốc tế lấy tên là Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam". Kissinger chỉ thêm bớt câu chữ và cuối cùng chấp nhận.
Về văn bản bốn bên ký, Lê Đức Thọ đề nghị về Lời mở đầu: “Các bên tham gia Hội nghị Paris (không ghi tên bốn Chính phú) đã thỏa thuận, cam kết tôn trọng và thi hành những điều khoản sau đây...”. Về điều 23 ông đề nghị công thức: “Hiệp định này do Bộ trưởng Ngoại giao của các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam ký và Hiệp định có cùng nội dung và lời văn như Hiệp định này do Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Hoa Kỳ ký cùng ngày hôm nay hợp thành một Hiệp định quốc tế lấy tên là...".
Kissinger đồng ý nhưng cho rằng trong văn bản, điều 23 không cần và không nên ghi Bộ trưởng Ngoại giao mà chỉ nên ghi: “Đại diện của các bên". Tất nhiên ông Thọ không chịu. Cuối cùng, Kissinger cam kết rằng Mỹ, dù không ghi Bộ trưởng Ngoại giao, sẽ dùng ảnh hưởng của mình để Bộ trưởng Ngoại giao Sài Gòn ký và các bên ghi rõ chức vụ. Lê Đức Thọ chấp nhận ghi điều 23: “Hiệp định sẽ có hiệu lực khi đại diện toàn quyền của các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam ký...".
Về số trang dành để ký, hôm trước Lê Đức Thọ đề nghị bốn bên cùng ký tên trên một trang, Kissinger đề nghị bốn bên ký bốn trang riêng. Hôm nay hai bên thỏa thuận ký trên hai trang, một trang Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký, một trang Mỹ và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký. Các trang này đều đánh số thứ tự trong Hiệp định. Sẽ có hai lễ ký riêng biệt nhưng cùng trong một ngày: buổi sáng bốn bên ký, buổi chiều Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ ký. Địa điểm ký: Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở đại lộ Kléber.
Các Nghị định thư
Chiều 11 tháng 1 năm 1973, Bill Sullivan, được sự đồng ý của Nguyễn Cơ Thạch, thay mặt hai đoàn chuyên viên trình bày với Lê Đức Thọ và Kissinger những vấn đề lớn của các Nghị định thư để hai Cố vấn giải quyết:
- Cần bao nhiêu Nghị định thư?
- Tổng số nhân viên của Ủy ban Quốc tế và Ban Liên hợp quân sự.
- Vấn đề vùng kiểm soát và vị trí đóng quân.
- Vấn đề thăm trại giam.
Về vấn đề thứ nhất, Lê Đức Thọ đề nghị thêm một Nghị định thư về bồi thường. Kissinger nói rằng Mỹ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh nhưng không nên có một Nghị định thư ngay khi tù binh Mỹ chưa được thả, vả lại số tiền đóng góp còn phải được Quốc hội Mỹ thông qua. Kissinger đề nghị dùng hình thức trao công hàm viết và sẽ bàn sau. Ông Thọ đồng ý.
Vấn đề tổng số nhân viên của Uỷ ban Quốc tế và Ban Liên hợp quân sự bốn bên phải bàn lâu là vì quan điểm của hai bên rất khác nhau. Đối với Mỹ, Uỷ ban Quốc tế phải có quyền hạn rộng, được tự do đi lại, có người rải khắp miền Nam, kể cả khu phi quân sự. Lúc đầu họ đề nghị tổng số nhân viên Uỷ ban Quốc tế từ 7000 đến 12000 người, 334 tổ công tác.
Hôm nay họ hạ xuống 2000 người. Đối với Việt Nam, Ban Liên hợp quân sự là đại diện cho các bên ký kết và chủ quyền của hai bên miền Nam Việt Nam, do đó nó phải có chức năng “phát hiện và ngăn chặn vi phạm”, còn Uỷ ban Quốc tế chỉ có chức năng giám sát và kiểm soát việc thi hành Hiệp định. Ban Liên hợp quân sự phải có ở cấp Trung ương và tất cả các khu vực và các tỉnh, do đó cần tổng số nhân viên là 4000 người. Phía Mỹ nói chỉ cần Ban Liên hợp Trung ương, Ban liên hợp các khu vực, các tổ liên hợp, do đó cần khoảng 500 người. Hôm nay Kissinger chịu nâng tổng số Ban Liên hợp quân sự lên 2500 người. Cuối cùng hai bên thoả thuận tỷ lệ 3/1: tổng số nhân viên Ban Liên hợp quân sự 3, tổng số nhân viên Uỷ ban Quốc tế 1. Cụ thể là: Ban Liên hợp quân sự 3300 người, Uỷ ban Quốc tế 1150 người.
Hai bên đã đồng ý có Ban Liên hợp quân sự hai bên ở miền Nam. Mỹ đề nghị 48 giờ sau ngừng bắn, đại diện hai bên miền Nam trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên gặp nhau để bàn việc tổ chức Ban Liên hợp quân sự hai bên. Lê Đức Thọ đề nghị nếu Ban Liên hợp quân sự chưa thành lập được thì người của hai bên miền Nam trong Ban Liên hợp quân sự bốn bên vừa làm nhiệm vụ của Ban Liên hợp quân sự bốn bên vừa làm nhiệm vụ của Ban Liên hợp quân sự hai bên. Phía Mỹ đồng ý.
Vấn đề vùng kiểm soát và vị trí đóng quân nổi lên trong khi bàn bạc Nghị định thư về ngừng bắn. Điều 3-b của Hiệp định ghi: “Ban Liên hợp quân sự hai bên nói trong điều 17 sẽ qui định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân".
Phía Việt Nam đòi có vùng kiểm soát để thể hiện nguyên tắc hai Chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Phía Mỹ nhấn mạnh vị trí trú quân. Hai bên tranh luận mãi về tiêu chuẩn vùng kiểm soát, về tiêu chuẩn vị trí trú quân. Cuối cùng trong Nghị định thư không ghi thêm điều khoản về vùng kiểm soát và vị trí trú quân, chỉ căn cứ điều 3-b của Hiệp định cũng được.
Vấn đề thăm trại giam liên quan tới những tù chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị tra tấn và giam cầm trong những điều kiện cực kỳ tồi tệ như Côn Đảo, Phú Lợi, Phú Quốc... Hai bên đã thoả thuận Uỷ ban Quốc tế và Ban Liên hợp quân sự đi kiểm tra trại giam của các quân nhân bị giam giữ (điều 8-a), nay ta nêu vấn đề kiểm tra trại giam, Kissinger không chịu. Lê Đức Thọ tiếp tục giữ yêu cầu kiểm tra này nhưng đề nghị giao Hội chữ thập đỏ bốn nước trong Uỷ ban Quốc tế làm việc này, còn Uỷ ban Quốc tế và Ban Liên hợp quân sự thì kiểm tra nơi giam giữ cuối cùng. Kissinger chấp nhận.
- Đến đây điều 8c đã xong - Lê Đức Thọ nói.
- Có lẽ chúng ta phải im lặng một phút để tưởng nhớ điều 8c.
Kissinger đáp:
- Nhưng sau khi ký Hiệp định rồi, ông và tôi vẫn còn phải nhắc tới điều 8c.
Về ngân sách của Uỷ ban Quốc tế hai bên thoả thuận là sẽ do bốn bên ký Hiệp định Paris cung cấp. Uỷ ban Quốc tế định ra ngân sách của mình và chuyển cho bốn bên để chuẩn y.
Đến chiều ngày 12 tháng 1 năm 1973, các vấn đề lớn có tính chất nguyên tắc đã được giải quyết xong. Lê Đức Thọ và Kissinger giao chuyên viên hai bên tiếp tục làm việc để hoàn thành các Nghị định thư. Đến ngày 19 tháng 1, thoả thuận xong các Nghị định thư về ngừng bắn và các Ban Liên hợp quân sự, về Uỷ ban Quốc tế giám sát và kiểm soát, việc trao trả nhân viên các bên bị bắt và giam giữ. Bắt đầu bàn ngày 24 tháng 1 năm 1973, Nghị định thư về gỡ mìn, mãi cuối tháng 1 năm 1973 mới hoàn thành.
Vấn đề Mỹ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh
Hồi tháng 10 năm 1972, Kissinger hứa: “Mỹ sẽ đóng góp cho mục đích hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại miền Bắc Việt Nam ước lượng trị giá 3 tỷ đô la Mỹ". Trong thông điệp gửi Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 20 tháng 10 năm i972, Tổng thống Nixon viết: "Quan hệ kinh tế Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ được thảo luận khi Tiến sĩ Kissinger vào Hà Nội”. Trong các đợt đàm phán lại tháng 11 và 12 năm 1972, hai bên chưa bàn thêm vấn đề này. Chiều ngày 11 tháng 1 năm 1973, khi bàn các Nghị định thư, Lê Đức Thọ đưa ra một dự thảo Nghị định thư về đóng góp của Mỹ trong đó có ghi con số 5 tỷ đô la. Như trên đã viết ông Thọ đã đồng ý với Kissínger là sẽ bàn sau một hình thức công hàm. Trong phiên họp cuối cùng ngày 13 tháng 1 năm 1973, sau khi những vấn đề khác đã giải quyết xong, Lê Đức Thọ nêu lại vấn đề.
Kissinger nói sau khi Hiệp định được ký kết, ngày 30 tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon sẽ gửi công hàm cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu những nguyên tắc về việc Hoa Kỳ tham gia vào công cuộc xây dựng lại kinh tế Việt Nam sau chiến tranh, phù hợp với điều 21 của Hiệp định. Tiếp đó Kissinger trình bày dự thảo công hàm để phía Việt Nam xem xét:
- Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ căn cứ vào các yếu tố, nhu cầu của Bắc Việt Nam, khả năng của Bắc Việt Nam tiếp nhận viện trợ, chương trình cung cấp ngân sách hàng năm của Quốc hội Hoa Kỳ.
- Chương trình tham gia của Hoa Kỳ sẽ vào khoảng 3 tỷ đô la trong 5 năm.
- Lập Uỷ ban kinh tế hỗn hợp Hoa Kỳ - Việt Nam Dân chủ cộng hoà để thoả thuận về bộ máy quản lý chương trình.
Lê Đức Thọ nói chấp nhận hình thức công hàm và sẽ có công hàm ghi nhận. Về nội dung không chấp nhận sự đóng góp sẽ căn cứ vào khả năng tiếp nhận viện trợ của Bắc Việt Nam, cũng đề nghị không nêu “chương trình cung cấp ngân sách của Quốc hội Hoa Kỳ”. Lê Đức Thọ yêu cầu ghi rõ nguyên tắc viện trợ không hoàn lại và không kèm theo điều kiện chính trị. Về số tiền, ông đòi 4,5 tỷ đô la Mỹ. Hai Cố vấn giao Nguyên Cơ Thạch và Sullivan sửa lại lời văn công hàm, còn vấn đề số tiền sẽ giải quyết trước khi ký tắt.
Bốn ngày sau khi Hiệp định được ký kết, ngày 1 tháng 2 năm 1973, Tổng thống Nixon gửi cho Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công hàm và bản ghi về việc Hoa Kỳ tham gia công cuộc xây dựng lại miền Bắc Việt Nam sau chiến tranh với nội dung đúng như hai đoàn đã thoả thuận. Ngày 23 tháng 2 năm 1973, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Tổng thống Nixon công hàm và bản ghi ghi nhận nội dung các văn bản của Hoa Kỳ.
Ngày họp cuối cùng
Ngày 13 tháng 1 năm 1973, hai bên họp phiên họp cuối cùng tại Saint-nom-la-bretèche.
Lê Đức Thọ và Kissinger bàn vấn đề đóng góp xây dựng lại Bắc Việt Nam (xem trên), duyệt hai hiểu biết về tù chính trị và nơi đậu tàu sân bay của Mỹ và giải quyết nốt vài điểm cụ thể.
Phần còn lại và cũng là phần lớn thời giờ hai ông bàn về thời gian biểu triển khai việc ký kết và các công việc sắp tới liên quan đến Hiệp định.
Kissinger đề nghị không đọc diễn văn và chỉ có chúc tụng từng người ở bên ngoài. Ông ta cũng nói rằng đó sẽ là ngày trang trọng ở Mỹ, và ở Việt Nam lại càng trang trọng hơn nữa. Vì vậy chúng ta nên khởi đầu với một thái độ hoà giải, quảng đại và nồng nhiệt đối với nhau.
Lê Đức Thọ vui vẻ đồng ý ngay.
Kissinger cũng nói:
- Chắc các ông sẽ không dùng từ chiến thắng chiến tranh xâm lược
Lê Đức Thọ cũng tỏ vẻ đồng tình. Hai bên thoả thuận về thời gian biểu như sau:
1- Ngày 15 tháng 1 năm 1973: 12 giờ, giờ Washington (24 giờ, giờ Hà Nội) ngừng ném bom và thả mìn ở toàn miền Bắc Việt Nam
2- Ngày 19 tháng 1 năm 1973: thông báo cho chủ nhà Pháp biết.
3- Ngày 23 tháng 1 năm 1973: gặp chính thức Lê Đức Thọ - Xuân Thuỷ - Kissinger để hoàn thành đàm phán và ký tắt Hiệp định tại Trung tâm các Hội nghị Quốc tế tại đại lộ Kléber.
4- Ngày 24 tháng 1 năm 1973: công bố tin Hiệp định đã được ký tắt. Công bố toàn văn Hiệp định và các Nghị định thư.
5- Ngày 27 tháng 1 năm 1973: Lễ ký chính thức tại Trung tâm Kléber. Ký bốn bên buổi sáng, ký hai bên Hoa Kỳ - Việt Nam Dân chủ Cộng hoà buổi chiều.
6- Ngày 27 tháng 1 năm 1973: 24 giờ giờ GMT ngừng bắn có hiệu lực trên toàn miền Nam Việt Nam.
7- Ngày 29 tháng 1 năm 1973: Ban Liên hợp quân sự bốn bên họp tại Sài Gòn. Hai bên miền Nam bàn việc thành lập Ban Liên hợp quân sự hai bên. Uỷ ban Quốc tế bắt đầu hoạt động.
8- Ngày 30 tháng 1 năm 1973: Tổng thống Hoa Kỳ gửi công hàm cho Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh.
9- Ngày 31 tháng 1 năm 1973: Đưa tin Kissinger sẽ vào Hà Nội
10- Ngày 7 hoặc 8 tháng 2 năm 1973: Tiến sĩ Kissinger vào Hà Nội.
11- Ngày 26 tháng 2 năm 1973: Họp Hội nghị Quốc tế.
Sau khi nghỉ, Lê Đức Thọ và Kissinger trao đổi về nội dung thảo luận giữa Kissinger và các nhà lãnh đạo Hà Nội. Hai bên thoả thuận:
- Việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh.
- Vấn đề quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ.
- Việc triệu tập Hội nghị Quốc tế.
- Những vấn đề khác mà mỗi bên nêu ra.
Lê Đức Thọ đề nghị duy trì bốn đoàn đàm phán của bốn bên tại Paris trong thời gian 60 ngày để quan hệ với nhau trong việc thúc đẩy thi hành Hiệp định, hai bên miền Nam gặp nhau ngay để bàn việc triệu tập Hội nghị Hiệp thương giữa hai bên miền Nam. Kissinger chấp nhận.
Mười chín giờ ngày 13 tháng 1 năm 1973, cuộc đàm phán kết thúc, trừ vài vấn đề sẽ giải quyết sau.
Trưa hôm đó, trong một không khí cởi mở và niềm vui chung, hai đoàn ăn bữa cơm chung.
Lê Đức Thọ nâng cốc nói với Kissinger:
- Như vậy là hôm nay chúng ta kết thúc cuộc hội đàm. Tuy đây là kết quả bước đầu nhưng bước đầu rất quan trọng và cơ bản để lập lại hoà bình ở Việt Nam... Tôi đồng ý với ông là sẽ không thay đổi một tý gì trong văn bản và thời điểm. Chúng tôi sẽ làm đúng như thế. Đó là lời hứa của chúng tôi. Và chúng tôi tin là không mấy ngày nữa hoà bình sẽ được lập lại ở Việt Nam.
- Tôi coi Hiệp định, các hiểu biết và Nghị định thư đã hoàn thành - Kissinger đáp - Tôi cam kết là phía chúng tôi sẽ không có gì thay đổi... và tôi chắc rằng đến lúc này thì hoà bình sẽ trở lại Đông Dương, sẽ trở lại với hai dân tộc chúng ta vào ngày 27 tháng 1 ngày ký Hiệp định, chúng tôi sẽ tôn trọng Hiệp định ấy. Hiệp định này phải là một Hiệp định đánh dấu sự bắt đầu của một nền hoà bình thật sự. Cái bảo đảm tốt nhất cho nền hoà bình thật sự này là cải thiện quan hệ giữa nhân dân hai nước chúng ta. Chúng ta đã qua nhiều năm đau khổ, tôi muốn nói với ông là chúng tôi quyết tâm hết sức mình để cải thiện quan hệ giữa hai nước.
- Chúng ta sẽ không quên ngày hôm nay.
- Cả hai chúng ta đều không ai quên được.
Nhà Trắng vui mừng đã kết thúc đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, nhưng chưa phải đã hết chuyện với Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời kể của Kissinger, Nixon đã nói với ông Thiệu như sau: "ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên khốn kiếp đó (ce salaud) không chịu chấp nhận, ông hãy tin lời tôi". Đến đoạn chót của cuộc đàm phán Paris và sau khi trả giá đắt cho các cuộc ném bom tháng Chạp 1972, ông không thể dung thứ cho Thiệu cản chân ông. Đại tướng Haig trao cho Thiệu bức thư ngày 16 tháng 1 năm 1973 của Nixon, bức thư mà Kissinger gọi là bốc lửa. Trong thư này đoạn quan trọng nhất là:
"Vì vậy chúng tôi đã quyết định dứt khoát (irrévocablement) sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần thế, tôi sẽ làm đúng thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hoà bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại Chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình. (Phải chăng Nixon có ý định thay Thiệu - Tác giả). Tuy vậy, sau tất cả những gì hai nước chúng ta đã cùng nhau chia sẻ và đau buồn trong cuộc chiến tranh, chúng ta sẽ đi cùng với nhau để bảo vệ hoà bình và gặt hái những kết quả” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1526 - 1527).
Nixon yêu cầu trả lời chiều ngày 17 tháng 1 năm 1973. Ngày 17, Thiệu trao thư trả lời yêu cầu Hoa Kỳ cố gắng chút nữa để sửa thêm vài chỗ và mong được trả lời trước buổi sáng ngày 20 tháng 1 (là ngày Nixon lên nhậm chức nhiệm kỳ 2).
Nixon trả lời ngay hôm đó cho Thiệu và bảo đảm với Thiệu rằng “Hoa Kỳ công nhận Chính phủ ngài là Chính phủ hợp pháp duy nhất ở Nam Việt Nam” (R.Nixon, Hồi ký. Sđd, tr. 749 - 750)
Vừa bị đe doạ vừa được bảo đảm như vậy, Thiệu cử Tổng trưởng Ngoại giao Trần Văn Lắm sang Paris để nắm tình hình đợt đàm phán chót, một hình thức giữ thể diện.
Nixon yêu cầu Thiệu trả lời đồng ý với Hiệp định vào 12 giờ ngày 21, nếu không ông sẽ tuyên bố với các lãnh đạo Quốc hội rằng Thiệu khước từ đi chung với Hoa Kỳ. Ngày 21 Thiệu trả lời đồng ý, chỉ đòi hỏi Hoa Kỳ ra tuyên bố đơn phương công nhận Chính phủ Sài Gòn là Chính phủ hợp pháp của Việt Nam và nói rằng Hà Nội không có quyền gì có quân ở miền Nam. Đề nghị đó phù hợp với ý đồ của Hoa Kỳ đối với Hiệp định nên họ đáp ứng ngay.
Chín giờ ba mươi lăm ngày 23 tháng 1 năm 1973, Lê Đức Thọ - Xuân Thuỷ gặp lại Kissinger tại Hội trường Kléber với đông đủ chuyên viên của mình. Không khí hồ hởi.
Cố vấn Nhà Trắng hỏi Lê Đức Thọ về địa điểm và cách trao trả tù binh Mỹ. Lê Đức Thọ cho ông biết các phi công Mỹ bị bắt ở miền Nam cũng sẽ được trao trả ở miền Bắc - còn phi công Mỹ bị bắt ở Lào - Việt Nam sẽ trao đổi với bạn Lào
Lê Đức Thọ còn nhắc lại việc Mỹ hàn gắn vết thương chiến tranh, việc triệu tập Hội nghị Quốc tế, nội dung làm việc khi Kissinger vào Hà Nội, việc hai bên miền Nam Việt Nam gặp nhau ở Sài Gòn.
Lê Đức Thọ còn gợi ý hai bên miền Nam Việt Nam thay trưởng đoàn. Và một lần nữa Kissinger đọc lại “hiểu biết về việc rút tàu chở sân bay của Mỹ" thông báo cho ông Thọ biết 48 giờ sau khi ký Hiệp định Paris về Việt Nam, Chính phủ của Lonnol ở Campuchia sẽ ra tuyên bố chấm dứt các cuộc tấn công, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt các hoạt động trên không sau 72 giờ. Nếu không có cuộc tấn công trở lại quân Mỹ và quân Campuchia thì Mỹ sẽ không oanh tạc trở lại.
Kissinger còn trao cho ta một bản dự thảo công hàm của Mỹ về xây dựng lại miền Bắc Việt Nam và hứa 30 tháng 1 năm 1973, sẽ trao bản chính thức cho ta. (Thực tế ngày mồng 1 tháng 2 năm 1973, Mỹ mới trao). Lê Đức Thọ nhắc lại con số 4 tỷ đô la cho miền Bắc, và sau cùng thoả thuận 3 tỷ 250 triệu. Viện trợ biếu không mỗi năm 650 triệu đô la; viện trợ với điều kiện nhân nhượng: 1 đến 1,5 tỷ đô la Mỹ. Viện trợ không hoàn lại sẽ dùng hình thức công hàm; viện trợ khác dùng bản ghi (note).
Hai bên hồ hởi vì đã làm xong mọi việc.
Ký tắt xong, Kissinger trao cây bút của ông vừa ký cho Lê Đức Thọ và nói:
- Tôi xin tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử này.
Lê Đức Thọ tươi cười nhận và tặng lại Kissinger cây bút mình vừa ký và nói:
- Tôi tặng lại ông cây bút này - và xin ông nhớ cho ký rồi phải giữ lấy lời nhé!
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, lễ ký kết Hiệp định bốn bên và hai bên cũng tại Hội trường Kléber.
11 giờ 00 ngày hôm đó, đúng lúc bắt đầu lễ ký, với quân hàm đại tá, Lưu Văn Lợi rời Paris để đi Sài Gòn nhận chức Phó Trưởng đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và bảo đảm sự có mặt tại chỗ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngay sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Cùng đi còn có Đại sứ Stawiersky, Phó trưởng đoàn Ba Lan trong Uỷ ban Quốc tế, trung tá Mỹ Adams có nhiệm vụ tháp tùng, Đặng Văn Thu, Phó trưởng đoàn Đại biểu quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời và một số sĩ quan, phiên dịch của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Tiếp đó các công việc khác được tiến hành theo đúng lịch đã thoả thuận.
Hiệp định ngày 20 tháng 10 năm 1972 và Hiệp định chính thức
(Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà binh ở Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm 1973
So sánh hai văn bản này tức là xét việc Washington lật lọng, từ bỏ Hiệp định đã thoả thuận ngày 20 tháng 10 năm 1972 thì được gì, mất gì?
Kissinger đã coi Hiệp định ngày 20 tháng 10 là thích đáng. Trả lời thông điệp ngày 19 tháng 10 năm 1972 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ngày 20 tháng 10, Tổng thống Nixon đã khẳng định:
“Với hai điều khoản trong điều 7 và 8 mà phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thoả thuận, văn bản Hiệp định bây giờ có thể xem là đã hoàn thành”.
Mặc dầu vậy, theo lối chơi hình như quen thuộc của ông, Nixon đòi xét lại văn bản đó, nêu ra 69 chỗ cần sửa của Nguyễn Văn Thiệu, trong đó tất nhiên có cả những điểm của Nhà Trắng, thậm chí dùng cả đòn nặng cân B52 để ép Việt Nam chấp nhận sửa đổi theo ý Mỹ.
Người ta đã thấy: Mỹ dùng B52 thì Việt Nam hạ B52, Mỹ muốn thương lượng lại, Hà Nội và Washington đã hoàn toàn đi tới thống nhất một văn bản mới tức là Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Về hình thức, điểm mới là: tháng 10 năm 1972 chỉ định ký một Hiệp định song phương giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ, ngoài ra không có văn bản nào khác, nay thì có văn bản ký hai bên, có văn bản ký bốn bên, ngoài Hiệp định chính thức còn có nhiều Nghị định thư, nhiều hiểu biết. Khách quan mà nói nếu thiếu điều quy định cụ thể của các Nghị định thư thì chắc chắn việc thi hành Hiệp định song phương ngày 20 tháng 10 năm 1972 sẽ gặp nhiều khó khăn phải bàn bạc thêm mới giải quyết được. Các nhà thương lượng hai bên không phải không biết còn thiếu những quy định cụ thể để làm dễ dàng việc thi hành Hiệp định nhưng có lẽ họ có những tính toán riêng đều xuất phát từ một điểm chung: ngày bầu cử Tổng thống 7 tháng 11 năm 1972. Nixon muốn tung tin hoàn thành Hiệp định để giành phần chắc thắng trong dịp bầu cử, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lo ngại Washington rút lại những điều khoản đã thoả thuận sau khi thắng cử cho nên muốn ép họ ký vào ngày 30 tháng 10. Một bên là muốn đánh một cú Poker, một bên thì nghi ngờ, kết quả là hai bên đều chấp nhận một văn bản Hiệp định còn thiếu nhiều điều khoản cụ thể để thi hành.
Ý đồ lớn của Washington và Sài Gòn là không ghi tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời trên bất cứ văn bản nào, bất cứ ở chỗ nào cần phải ghi. Nếu ký hai bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ thì không có vấn đề gì, nhưng ký bốn bên thì đẻ ra vấn đề ngăn không cho tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời được ghi trong văn bản, không cho đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký với chức vụ đầy đủ. Nhưng trong văn bản Hiệp định ngày 27 tháng 1, Sài Gòn phải cùng ký Hiệp định mà còn chịu để Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình ký với đầy đủ chức vụ: Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Sài Gòn và Washington không muốn thừa nhận miền Nam có hai Chính quyền, hai Quân đội, hai vùng kiểm soát, không muốn có Hội đồng Quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc ba thành phần, không muốn Hội đồng đó là một cơ cấu Chính quyền có chức năng duy trì sự ngừng bắn, giữ vững hoà bình. Nhưng trong Hiệp định ngày 27 tháng 1 năm 1973, họ chịu chấp nhận:
- Các lực lượng vũ trang miền Nam, sau khi ngừng bắn, sẽ “ở nguyên vị trí của mình" và “sẽ quy định vùng do mỗi bên kiểm soát và những thể thức trú quân”. Nghĩa là công nhận có quân đội hai bên và mỗi bên có vùng kiểm soát của mình.
Miền Nam có Hội đồng Quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau, có các Hội đồng cấp dưới, có nhiệm vụ “đôn đốc hai bên miền Nam Việt Nam thi hành Hiệp định, thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc, bảo đảm tự do dân chủ”, tổ chức tổng tuyển cử và tự do dân chủ. Tuy vậy, phía Việt Nam phải rút chữ cơ cấu Chính quyền và “duy trì ngừng bắn giữ vững hoà bình”.
Washington và Sài Gòn muốn đày quân miền Bắc trở về miền Bắc. Nhưng trong Hiệp định ngày 27 tháng 1 năm 1973, họ chịu chấp nhận:
- Trong vòng 60 ngày, rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi Quân đội, Cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, nhân viên quân sự liên quan đến chương trình bình định, vũ khí đạn dược và dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác (trong khi đó quân miền Bắc vẫn ở nguyên tại chỗ trong vùng kiểm soát của họ).
- Hai bên miền Nam sẽ thảo luận những biện pháp giảm số quân của họ và phục viên số quân đã giảm (họ không ghi được yêu cẩu: phục viên trở về sinh quán, ý muốn nói miền Bắc).
Washington muốn Uỷ ban Quốc tế cao hơn Ban Liên hợp Quân sự: Uỷ ban Quốc tế từ 7000 đến 12.000, có 334 tổ công tác rải khắp miền Nam Việt Nam. Uỷ ban Quốc tế gồm 5 nước trung lập. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho rằng trách nhiệm thi hành Hiệp định thuộc về các bên ký kết, do đó Ban Liên hợp Quân sự phải cao hơn Uỷ ban Quốc tế, còn Uỷ ban Quốc tế chỉ làm nhiệm vụ giám sát và kiểm soát.
Trong Hiệp định ngày 27 tháng 1 năm 1973, Washington chấp nhận:
- Uỷ ban Quốc tế gồm đại diện bốn nước: Ba Lan, Canađa, Hunggari, Inđônêxia, có 1160 nhân viên và 59 tổ các loại.
- Ban Liên hợp Quân sự có 8300 nhân viên, 1 Ban Liên hợp Quân sự Trung ương, 7 Ban Liên hợp Quân sự khu vực và 26 tổ Liên hợp Quân sự địa phương.
Phía Việt Nam đồng ý sửa “Hoa Kỳ tôn trọng” trong “Hiệp định tháng 10” thành “Hoa Kỳ và các nước tôn trọng”, chấp nhận thêm “Hai miền tôn trọng khu phi quân sự” vào Hiệp định tháng 10 năm 1972.
Tóm lại, phía Việt Nam vẫn giữ được nội dung chủ yếu của văn bản ngày 20 tháng 10 năm 1972.
- Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân, chấm dứt dính líu quân sự (ngoài ra còn đòi Mỹ phải rút hết nhân viên dân sự liên quan đến quân sự trong một hiểu biết riêng).
- Giữ vững lực lượng chính trị vũ trang của phía Việt Nam; công nhận miền Nam có hai Chính quyền, hai Quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị, giữ được về cơ bản chức năng của Hội đồng Quốc gia hoà hợp dân tộc, gạt được ý đồ của Mỹ - Thiệu muốn hạ nó xuống thành một cơ quan bầu cử đơn thuần.
- Giữ nguyên các điều khoản về thực hiện tự do dân chủ, hoà hợp dân tộc. - Mỹ nhận đóng góp xây dựng lại Bắc Việt Nam sau chiến tranh với con số cao hơn hồi tháng 10 năm 1972.
Trong Hồi ký, Kissinger nói về các sửa đổi so với văn bản tháng 10, cũng đặt câu hỏi: “Điều đó có bõ không? Những sự thay đổi liệu có đủ quan trọng để biện minh cho nỗi lo âu và cay đắng trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh không? Không! đối với chúng ta, hẳn rồi, gần như là chắc chắn đối với Sài Gòn mà sự sống sót, nói cho cùng, là cái cớ của chiến tranh” (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1524 - 1525).
Những sửa đổi đó có bõ công không? Câu trả lời chính xác nằm trong sự so sánh khách quan văn bản tháng 10 năm 1972 và các văn bản ký kết tháng 1 năm 1973.
LỜI BẠT
27 tháng 1 năm 1973 - 27 tháng 1 năm 2002
Hiệp định Paris được ký kết đến nay đã được gần ba mươi năm. Với khoảng cách thời gian chưa dài lắm nhưng cũng đủ để những tình cảm sôi nổi lắng đọng xuống, chúng ta có thể bình tĩnh đánh giá Hiệp định đó và việc thi hành nó.
Hiệp định Paris đã được thương lượng đi thương lượng lại từ ngày 8 tháng 10 năm 1972 đến ngày 20 tháng 1 năm 1973 dưới mọi khía cạnh chính trị, ngoại giao, pháp lý, trong sự giao tiếp lịch sự, nhiều khi trong những đối đáp nẩy lửa, thậm chí trong tiếng bom man rợ. Ngay cả những yêu sách quá đáng của Nguyễn Văn Thiệu cũng được nêu ra, xem xét. Nó phản ánh đúng đắn so sánh lực lượng giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giữa Chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Anh em Kalb nói hóm hỉnh: “Nixon được tù binh trở về. Lê Đức Thọ được Mỹ rút ra. Thiệu được giữ lại Chính quyền và Chính phủ Cách mạng Lâm thời (Chính phủ Việt cộng) được một mức độ hợp pháp chính trị ở Nam Việt Nam. Mỗi người được một cái gì đó nhưng không có ai được tất cả mọi cái" (Marvin Kalb và Bemard, Kissinger Sđd tr. 477. Xem thêm: J. Amter, Sđd, tr. 290.).
Tuy vậy việc thi hành các điều khoản không phải đều giống nhau. Các điều khoản về rút quân Mỹ và đồng minh, trao trả tù binh Mỹ, ngừng bắn đối với miền Bắc Việt Nam (kể cả gỡ mìn), trao trả tù chính trị, về thành lập Uỷ ban Quốc tế, Uỷ ban Liên Hợp quân sự Trung ương và khu vực, địa phương nói chung được thi hành nghiêm chỉnh. Một số điều khoản bị vi phạm "trước khi Hiệp định được ký kết”. Đó là trường hợp các điều khoản cấm đưa vũ khí, đạn dược, nhân viên quân sự Mỹ vào miền Nam sau khi Hiệp định có hiệu lực.
Để sau này khỏi mang tiếng là vi phạm, trong ba tháng - từ tháng 10 năm 1972 đến tháng 1 năm 1973 - Mỹ đã lập một cầu hàng không dưới mật danh Enhance Plus (Tăng cường hơn nữa) để hối hả và ồ ạt đổ vũ khí, đạn dược, dụng cụ chiến tranh vào miền Nam nhằm tăng cường Quân đội Sài Gòn. Dự kiến Bộ Tư lệnh quân Mỹ ở Sài Gòn (MACVI) mà báo chí quen gọi là Lầu Năm Góc Phương Đông, sẽ phải rút khỏi miền Nam, Washington lập ngay một tổ chức thay thế gọi là DAO (Văn phòng tuỳ viên quốc phòng), như vậy vẫn duy trì được sự có mặt quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Sở chỉ huy lực lượng không quân Mỹ ở Sài Gòn cũng được sơ tán sang căn cứ Na khom Phanom cách đó vài trăm dặm.
Về điều khoản ngừng bắn ở miền Nam, Quân đội Sài Gòn đã có cả một kế hoạch vi phạm chuẩn bị từ trước. Kissinger viết: Ngày 11 tháng 10 1972 (tức ba ngày sau khi Lê Đức Thọ trao dự thảo Hiệp định cho Mỹ) “tôi điện cho Bunker để nhắc y (Thiệu) phải nỗ lực tối đa để chiếm thêm được càng nhiều đất đai có thể được, đặc biệt là các vùng quan trọng đông dân quanh Sài Gòn” (Henry A.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1414.).
Không nói ai cũng hiểu cái gì đã xảy ra trong thời gian trì hoãn việc ký kết Hiệp định. Đó là kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm, bình định.
Bảy giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, đúng lúc phải bắt đầu ngừng bắn, bộ binh, xe tăng của Sài Gòn tấn công Cửa Việt, một căn cứ do quân Giải phóng kiểm soát ở gần khu phi quân sự. Quân Sài Gòn còn đánh chiếm Sa Huỳnh và nhiều nơi khác thuộc miền Trung, lấn chiếm hầu hết vùng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trong mấy tháng đầu ngừng bắn, Sài Gòn đã lấn chiếm gần 400 ấp, đóng thêm hơn 100 đồn thuộc vùng kiểm soát của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, dồn hơn một triệu dân vào vùng kiểm soát của họ.
Ngay từ ngày 23 tháng 1 năm 1973, tức là trước khi Hiệp định hoà bình được ký kết, Tổng thống Nixon công bố sẽ không ủng hộ tổng tuyển cử và sẽ "tiếp tục thừa nhận Chính phủ Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam”. Lời tuyên bố trắng trợn này, cộng với tất cả các biện pháp khẩn cấp mà ông đã làm trong thời gian trì hoãn việc ký kết để cho chính quyền Sài Gòn đủ sức chơi với Việt Cộng sau khi quân Mỹ rút, càng khuyến khíc