Chương 10 .
Mỹ lại đề nghị hoãn
Chủ trương của phía Việt Nam trong thời gian tới vẫn là:
"Tiếp tục thực hiện phương hướng Bộ Chính trị đã đề ra... tranh thủ khả năng giải quyết sớm trên cơ sở bảo đảm yêu cầu của ta, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng khả năng chiến tranh kéo dài.
Vấn đề quan trọng nhất là giữ vững văn bản đã thoả thuận... Ta kiên trì đấu tranh đòi Mỹ từ bỏ việc sửa đổi Hiệp định đồng thời ta cũng sẵn sàng rút một số điểm ta mới thêm để buộc Mỹ phải tôn trọng văn bản Hiệp định đã thoả thuận. Trên cơ sở đó ta có thể có một số điểm mềm dẻo để mở đường kéo Mỹ đi vào giải quyết càng sớm càng tốt. Nhưng ta không vội không gò bó về thời điểm và phải kiên trì đấu tranh đánh bại ý đồ đàm phán trên thế mạnh của Mỹ.
Mặt khác ngay từ bây giờ ta cần chuẩn bị sẵn sàng đối phó với trường hợp Mỹ liều lĩnh đánh phá trở lại trên toàn miền Bắc".
Hà Nội cũng đề ra phương hướng đấu tranh để giữ vững những điều cụ thể đã thoả thuận.
Ngày 27 tháng 11, Mỹ gửi công hàm cho Việt Nam nêu rõ họ sẽ đến cuộc gặp tới với một cố gắng cuối cùng. Mỹ sẽ tôn trọng các nguyên tắc của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng nhấn mạnh rằng những nguyên tắc của họ phải được tôn trọng... Hai bên phải có cố gắng lớn vào ngày 4 tháng 12.
Trong Hồi ký của mình, Tổng thống Nixon đã báo cho Thiệu biết rằng nếu Thiệu là cản trở duy nhất cho việc ký Hiệp định thì những nghị sĩ trung thành và ủng hộ mạnh mẽ chính sách của Nixon ở Việt Nam sẽ lãnh đạo việc chống lại Thiệu khi Quốc hội (Mỹ) họp lại (R.Nixon. Hồi ký Sđd, tr. 724.).
Sáng 4 tháng 12, vẫn họp hẹp, mỗi bên ba người theo yêu cầu của Mỹ. Lê Đức Thọ nói:
- Điểm lại sáu ngày họp vừa qua chúng tôi thấy là các ông chưa thật sự đáp ứng một yêu cầu nào... sau đó các ông lại gián đoạn đàm phán, rồi ông lại đến đây với lời lẽ đe doạ chúng tôi. Sau đó các ông lại liên tiếp gửi hai công hàm trong đó cũng nói nếu không giải quyết thì hậu quả không thể lường trước được. Trong mười năm chiến tranh chúng tôi đã biết hết sự tàn khốc của chiến tranh, đặc biệt dưới Chính quyền Nixon thì sự tàn khốc đó có thế nói là ghê gớm lắm. Chúng tôi cũng tính nếu không giải quyết được thì chiến tranh sẽ rất tàn khốc, có thể các ông đem B.52 ném bom ồ ạt san bằng cả Thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Các ông nói Tổng thống có quyết tâm lắm, chúng tôi biết Tổng thống Nixon có quyết tâm xâm chiếm đất nước chúng tôi và quyết tâm tàn phá đất nước chúng tôi. Chúng tôi không hiểu sai điều đó... Chúng tôi đã chịu đựng hàng chục triệu tấn bom đạn tương đương với năm, sáu quả bom nguyên tử nhưng chúng tôi không hề khiếp sợ... Chúng tôi quyết tâm chống lại các ông... chúng tôi không chịu khuất phục, không chịu làm nô lệ. Cho nên những lời đe doạ của các ông và việc các ông không giữ đúng lời hứa chứng tỏ các ông chưa thật sự đàm phán nghiêm chỉnh.
Lê Đức Thọ nêu ra những hoạt động quân sự của Mỹ trên chiến trường và các yêu sách vô lý của Mỹ trong đàm phán, và kết luận những đòi hỏi sửa đổi Hiệp định của Mỹ là không thể chấp nhận được. "Các ông phải có cố gắng lớn, chúng tôi cũng cố gắng" thì hai bên giải quyết được.
Kissinger thanh minh rằng hai bên đã gặp nhau trong hai mươi ba phiên họp rồi: “Tôi không thấy có thời kỳ nào mà Hoa Kỳ đe doạ nền độc lập của Việt Nam!”.
Ông ta lại nêu ra khó khăn với Sài Gòn và nói chỉ còn bốn hay năm vấn đề khó khăn tồn tại giữa hai bên... và chỉ khác nhau về câu chữ thôi. Ông ta giải thích tại sao Hoa Kỳ không đáp ứng đề nghị ngày 23 tháng 11 của Việt Nam (bố trí lại một số lực lượng tượng trưng đổi lấy Chương III về trao trả những người bị bắt) vì không thể thuyết phục được Sài Gòn.
Kissinger nói rằng có thể đi tới một thỏa thuận về nguyên tắc tối ngày mai và đưa ra một thời điểm mới:
- Sau thoả thuận ngày 5 tháng 12 thì thứ tư (6 tháng 12) Phó Tổng thống Hoa Kỳ cùng tướng Haig đi Sài Gòn mang theo Hiệp định. 48 giờ sau khi thỏa thuận ở đây, Hoa Kỳ ngừng ném bom miền Bắc. Ngày 16 và 17 tháng 12, Kissinger đi Hà Nội, ký Hiệp định không trễ hơn 22 tháng 12.
Trong Hồi ký của mình, Kissinger nói rằng đấy là thỏa thuận giữa ông ta và Lê Đức Thọ, điều đó không đúng (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr. 1487.).
Tiếp đó Kissinger đưa ra đề nghị tối đa của Mỹ:
1- Về tên chính phủ Cách mạng Lâm thời, Hoa Kỳ sẵn sàng ký với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một văn kiện có Lời mở đầu nói rõ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Chính quyền Sài Gòn ký một văn bản có mở đầu riêng biệt. Như vậy các bên trao đổi bốn văn kiện trong đó ba văn kiện giống nhau và một cái khác về Lời mở đầu. Trừ Lời mở đầu ra, các văn kiện đó hoàn toàn giống hệt nhau. Như vậy là sẽ ký bốn văn kiện, sau đó các bên trao đổi văn kiện cho nhau và mỗi bên giữ ba văn kiện.
2- Hoa Kỳ chấp nhận ba thành phần ngang nhau trong Hội đồng Quốc gia hoà giải hoà hợp dân tộc, thành viên sẽ do hai bên lựa chọn ngang nhau. Việc thành lập Hội đồng cấp dưới Hoa Kỳ chấp nhận như cũ. Về cơ cấu Chính quyền, văn bản tiếng Việt phải ghi là “cơ cấu hành chính”.
3- Về lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam, Kissinger vẫn giữ như cũ: giảm quân số một đổi một, phục viên về sinh quán.
4- Về khu phi quân sự, Kissinger thêm vào một đoạn: Miền Nam và miền Bắc tôn trọng khu phi quân sự và lãnh thổ của nhau.
5- Trong điều 8c - trao trả người dân sự bị bắt - Kissinger vẫn giữ như cũ. Hoa Kỳ sẽ dùng ảnh hưởng của mình đối với Sài Gòn nếu Việt Nam bố trí lại lực lượng.
6- Liên quan đến Lào và Campuchia, Kissinger bỏ câu: “Lực lượng vũ trang phải ở trong biên giới Quốc gia”, thay bằng câu: “Không dùng vũ lực đối với nhau”.
Kết thúc cuộc họp buổi sáng, hai bên thoả thuận buổi chiều họp lại với sự tham gia của các Cố vấn. Phía Mỹ đề nghị hôm sau đổi địa điểm, đến một nơi mà phía Mỹ đã chọn. Họ sẽ bố trí đủ tiện nghi để hai bên ghi biên bản, kể cả ghi âm. Nhưng mãi tới ngày 8 tháng 12, hai bên mới họp tại đó – (Neuilly-sur-seine).
Buổi chiều cuộc họp bắt đầu lúc 16 giờ tại một ngôi nhà ở Saint Gemme. Lê Đức Thọ nêu ra các vấn đề lớn để giải quyết:
Về vấn đề quân sự, cái gọi là “quân miền Bắc", ông Thọ nói:
- Trong vấn đề này còn hai điểm ám chỉ việc rút quân miền Bắc. Chúng tôi không chấp nhận: “phục viên về sinh quán” - Khi đã phục viên thì số người đó muốn về đâu thì tuỳ họ - “Lực lượng vũ trang ở trong biên giới Quốc gia" các ông bỏ đi rồi, nhưng lại thêm? “Không dùng vũ lực với nhau”. Câu đó là thừa vì các nước Đông Dương đã cam kết không đưa quân đội vũ khí vào các nước của nhau.
Vấn đề thứ hai - Nhân viên dân sự Mỹ liên quan đến quân sự - Mỹ phải rút hết. Chúng ta có thể có một sự hiểu biết riêng đối với các nhân viên dân sự đó: có thể rút một tháng sau khi Mỹ rút hết quân.
Về khu phi quân sự, Lê Đức Thọ phê phán Mỹ có ý đồ chia cắt lâu dài Việt Nam, và đề nghị của Mỹ là trái với Hiệp định Genève năm 1954. Ông Thọ đề nghị:
- Miền Bắc và miền Nam sẽ thoả thuận về qui chế khu phi quân đội và thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời.
Về vấn đề chính trị, ông Thọ nêu ba vấn đề:
- Về Hội đồng... chúng tôi vẫn giữ nguyên những đề nghị của chúng tôi.
- Về tên Hội đồng - chúng tôi đề nghị vẫn ghi cơ cấu Chính quyền. Chữ Structure administrative có thể dịch: cơ cấu hành chính, cơ cấu Chính quyền, cơ cấu cai trị. Các ông viết “cơ cấu hành chính”, còn chúng tôi viết “cơ cấu quyền lực”.
Về ba thành phần ngang nhau - Chúng tôi vẫn giữ như cũ, nghĩa là chỉ ghi: “Hội đồng hoà giải và hoà hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau, sau đó hai bên miền Nam sẽ bàn cách lựa chọn trên tinh thần bình đẳng” - (Kissinger muốn bỏ chữ bình đẳng).
Về lề lối làm việc của Hội đồng, chúng tôi vẫn giữ chữ “đôn đốc”. Hội động phải có nhiệm vụ “đôn đốc” chứ không phải chỉ “khuyên khích". Nhiệm vụ đôn đốc hai bên thi hành Hiệp định là bình thường.
Về tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời - trong phần đầu của Hiệp định phải ghi rõ tên bốn Chính phủ. Điều đó đúng với ý nghĩa chính trị và pháp lý.
Vấn đề thứ ba là vấn đề chính trị quan trọng. Trước đây có ghi ở Chương I: "Hoa Kỳ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thông nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam". Lần trước chúng tôi đã chiếu cố đến đề nghị của ông, nhưng tôi được chỉ thị của Chính phủ chúng tôi phải giữ lại điều này như cũ.
Lê Đức Thọ thêm:
- Ở đây khác với Hội nghị Genève năm 1954 và 1962 về Lào. Hội nghị Genève năm 1954 là Hội nghị Quốc tế nên mới ghi: Các nước tôn trọng các quyền dân tộc của Việt Nam. Còn bây giờ các ông đàm phán với chúng tôi thì phải ghi trong Hiệp định? “Hoa Kỳ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam”. Đó là bình thường. Nhân dân Việt Nam rất tin tưởng Mỹ sẽ không bao giờ can thiệp vào công việc nội bộ chúng tôi nữa, quan hệ hữu nghị của hai nước sẽ tốt hơn lên. Còn danh dự của nước Mỹ là vấn đề tồn tại của Chính quyền Sài Gòn và vấn đề Thiệu từ chức thì đề nghị ngày 8 tháng 10 của chúng tôi là đã giải quyết vấn đề danh dự của Mỹ rồi.
Vấn đề cuối cùng trong vấn đề chính trị là vấn đề tù dân sự ở miền Nam. Lê Đức Thọ đòi thả trong hai tháng. Để giải quyết một cách dễ dàng vấn đề này, chúng tôi có sự hiểu biết về việc điều chỉnh lại một số lực lượng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở phần Bắc của Nam Việt Nam.
Kissinger tỏ rõ sự thất vọng sau khi nghe Lê Đức Thọ nói. Lúc đầu ông ta tỏ ra lạc quan là có thể đi đến Hiệp định hôm nay, nhưng bây giờ ông ta không còn thấy khả năng đó nữa. Ông ta nói phía Việt Nam đã tăng thêm yêu sách. Kissinger nói lại từng điểm một và kết luận:
- Tất cả những sửa đổi của các ông cộng lại với nhau thì sẽ có hậu quả thực tế là phá hoại thực chất của Hiệp định.
- Chính các ông phá hoại chứ không phải chúng tôi? - Lê Đức Thọ trả lời - Nếu các ông giữ nguyên Hiệp định thì chúng tôi cũng giữ nguyên hoàn toàn không thay đổi một chữ.
Ông Thọ nói câu này nhiều lần một cách rõ ràng:
- Nếu các ông không sửa chữ nào thì chúng tôi cũng không sửa chữ nào, kể cả điều 8c (tù dân sự) cũng giữ nguyên, vấn đề nhân viên dân sự Mỹ liên quan đến quân sự cũng không nêu ra, thời hạn thành lập Hội đồng mười lăm ngày cũng bỏ. Tóm lại chúng tôi sẵn sàng bỏ tất cả những điều mới thêm.
Phát biểu của Lê Đức Thọ đã gây tác động mạnh đối với Kissinger. Ông ta nói phải xin ý kiến của Tổng thống và mặc dầu ông ta đã đề nghị hôm sau họp lại, nhưng sáng sớm ngày 5 tháng 12, ông xin hoãn cuộc họp lại hai mươi bốn giờ.
Kissinger báo cáo về Nixon là:
“Cuộc nói chuyện đã đi đến chỗ gần như chắc chắn sẽ tan vỡ, và đề nghị hai cách lựa chọn: trở lại và chấp nhận các điều khoản của Hiệp định tháng 10, không thay đổi bất cứ điều gì; hoặc là chấp nhận nguy cơ tan vỡ của cuộc thương lượng. Ông ta đề nghị Mỹ “phải sẵn sàng chuẩn bị cho sự tan vỡ" và đẩy mạnh ném bom miền Bắc để gây áp lực với Việt Nam” (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr. 725, 726, 727, 728.). Ông ta cũng nêu lại việc xin từ chức.
Nixon không chấp nhận và chỉ thị tiếp tục thương lượng. “Trong bất cứ trường hợp nào Hoa Kỳ không được chủ động cắt đứt cuộc nói chuyện - Chúng ta cần yêu cầu hoãn cuộc họp để tham khảo thêm" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 1489.).
Cũng đêm 4 tháng 12, theo thông báo của đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn cho ta, Kissinger đã gặp đại sứ Hoàng Chấn với vẻ bực dọc bi quan, lời lẽ tức tối. Kissinger đã tường thuật lại cuộc họp riêng 4 tháng 12.
Ngày 5 tháng 12, Kissinger xin hoãn họp một ngày. "ông nhận định sự tan vỡ hầu như chắc chắn" (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr. 722.).
Lê Đức Thọ: Có hai cách lựa chọn... Tuỳ các ông!
Trước thái độ của Việt Nam, Mỹ tính đến việc giảm bớt yêu cầu của Chính quyền Thiệu.
Sáng 6 tháng 12, Lê Đức Thọ đưa ra dự thảo về vấn đề tù binh: tách hai vấn đề quân nhân và nhân viên dân sự.
Kissinger đặt nhiều câu hỏi, đặc biệt ông muốn biết rõ số phận 108 tù bình Mỹ trong tay Chính phủ Cách mạng Lâm thời và 495 người bị mất tích ở miền Nam, mối liên quan trong việc trao trả ở miền Bắc và miền Nam, trách nhiệm của Mỹ trong việc trao trả nhân viên dân sự của hai bên Nam Việt Nam.
Lê Đức Thọ nhắc lại đề nghị cũ về việc bố trí lại một số lực lượng tượng trưng ở phần Bắc của Nam Việt Nam đổi lấy việc trao trả tù dân sự ở Nam Việt Nam trong 60 ngày. Kissinger muốn biết con số cụ thể về lực lượng sẽ được bố trí lại.
Lê Đức Thọ nói:
- Nó có con số của nó nhưng điều quan trọng là ông có tán thành đề nghị của chúng tôi không?
Hôm nay Kissinger trở lại vui vẻ hơn hôm trước và kể câu chuyện vui châm biếm:
- Trong chiến tranh người ta bàn phương pháp chống tàu ngầm. Có người nói là làm cho nước bể nóng sôi lên. Nhưng khi người ta hỏi là làm thế nào thì người đó trả lời: đó là sáng kiến của tôi còn cách thực hiện các ông phải nghĩ ra. Điều đó cũng như ông Cố vấn đặc biệt đưa ra ý kiến và nói rằng cách thi hành là tùy thuộc vào chúng tôi.
Trực tiếp vào đề nghị của ông Thọ, Kissinger nói:
- Hậu quả khách quan là phía Việt Nam không chịu rút đi cái gọi là quân miền Bắc. Quân đội đó là Quân đội miền Bắc hoặc là những người theo chủ nghĩa hoà bình thì mới không có quân đội trên đất mình. Tôi không nghĩ các ông là người hoà bình chủ nghĩa.
Ông ta nhận xét thêm là theo đề nghị của ta vấn đề thả những người bị bắt được coi là nghĩa vụ pháp lý còn việc bố trí lại lực lượng chỉ là sự hiểu biết không ghi vào đâu cả. Ông đề nghị giữ toàn bộ điều 8c (tù chính trị) như cũ nhưng thêm vào đó có sự hiểu biết và Mỹ cũng ghi lại là việc thả những người bị bắt gắn liền với việc bố trí lại lực lượng.
Kissinger đưa ra công thức theo đó: Chính quyền Sài Gòn sẽ thả một số đáng kể thường dân bị giam giữ đồng thời với việc triển khai một số đáng kể quân đội ở phần Bắc của Việt Nam. Ba tháng sau khi ký Hiệp định, hai bên Nam Việt Nam sẽ thu xếp những hành động đồng thời tiếp theo để có thêm thường dân bị giam giữ sẽ được thả theo một số tỷ lệ liên quan trực tiếp với số quân đội do hai bên được giải ngũ.
Như vậy là Kissinger lợi dụng ta đưa ra việc điều chỉnh lực lượng để nâng giá mặc cả nhằm ép ta chấp nhận điều 8c.
Lê Đức Thọ không trả lời cũng không phê phán đề nghị đó, mà nói:
- Hai bên đều muốn giải quyết vấn đề thì phía Mỹ phải cố gắng lớn.
Kissinger thêm vào:
- Nói hai bên cùng cố gắng cho công bằng.
- Không! Chúng tôi có cố gắng lớn như các ông đã biết - Lê Đức Thọ trả lời.
Nhân việc Kissinger nói về khó khăn của Mỹ đối với Sài Gòn, Lê Đức Thọ cũng kể khó khăn của ta. Như đối với Chính phủ Cách mạng Lâm thời, trong vấn đề Inđônêxia tham gia Uỷ ban Quốc tế. Hồi đó, sau khi Tổng thống A.Xukacnô đổ, Đảng Cộng sản Inđônêxia bị đàn áp và tan rã, thái độ của Jacacta đối với cách mạng miền Nam cũng có khác trước.
Lê Đức Thọ nói:
- Đối với Lào, chúng tôi và các ông đồng ý trong Hiệp định, Lon Nol thì hoan nghênh, nhưng ông Khiêu Xăm Phon lại tuyên bố cuộc đàm phán ở Paris không vượt qua đầu Campuchia được. Đấy là ám chỉ chúng tôi chứ không ai khác là không được can thiệp vào công việc của người ta. Ông Phouma thì tuyên bố ngừng bắn ở Lào trong một tuần hay mười lăm ngày, nhưng Neo Lào Hắc Xát lại điện hỏi chúng tôi có phải điều đó Việt Nam điều đình với các ông không?
Ông Thọ tỏ ra thân mật:
- Ngay trong những người cộng sản cũng có khi có những mâu thuẫn rất gay gắt.
Kissinger cũng tỏ vẻ đồng tình.
Tiếp đó Lê Đức Thọ nêu ra những việc Mỹ leo thang trong các yêu sách của họ rồi nói một cách dứt khoát:
- Mỗi bên đều có khó khăn của nhau và bây giờ chỉ có hai cách:
Một là chúng ta sẽ trở lại Hiệp định mà chúng ta đã thoả thuận trong văn bản trước đây và có sửa lại thì chỉ sửa về chi tiết, không thuộc về thực chất và nguyên tắc.
Hai là hai bên đều sửa đổi. Các ông sửa đổi điểm này thì chúng tôi sửa đổi điểm khác. Nếu sửa đổi như vậy thì thành ra chúng ta lại thảo luận lại một số vấn đề. Mỗi bên đều có nguyên tắc và lập trường của mình. Như vậy thảo luận sẽ kéo dài và có khó khăn hơn.
Trong hai cách đó, các ông muốn cách nào chúng tôi cũng sẵn sàng. Tuỳ ông. Nhưng theo chúng tôi cách tốt nhất là giữ cơ bản của Hiệp định.
Đề nghị của Lê Đức Thọ rất hợp lý và mở ra triển vọng giải quyết vấn đề bế tắc của Mỹ nên Kissinger hưởng ứng ngay:
- Lời phát biểu của ông Cố vấn đặc biệt có tính xây dựng?
Ông ta hứa sẽ xin ý kiến Tổng thống và sẽ cố gắng lớn giảm bớt những thay đổi mà ông ta đưa ra.
Trước khi nghỉ, Kissinger còn nhắc lại chữ “cơ cấu Chính quyền”, cho rằng đối với Nixon điều đó gần giống như một nguyên tắc của tôn giáo không chấp nhận điều gì có nghĩa là Chính quyền liên hiệp và yêu cầu ông ta ghi “cơ cấu hành chính”.
Ông ta còn thêm rằng những sửa đổi mà ta đã chấp thuận trong tháng 11 sẽ được xem như những chi tiết. Ông ta muốn nuốt trôi những nhượng bộ của ông Thọ trong phiên họp 23 tháng 11.
Lê Đức Thọ đòi bỏ tất cả những câu có ám chỉ đến quân miền Bắc nhất là câu: “hai miền tôn trọng lãnh thổ của nhau”.
Hôm sau, 7 tháng 12, Kissinger đưa ra "cố gắng cuối cùng" một lập trường tuyệt đối tối thiểu không thể lùi thêm được nữa.
Trước hết là giữ nguyên tất cả những thay đổi mà hai bên đã thoả thuận trong tuần trước (tháng 11).
Bỏ một số đề nghị ông ta mới đưa ra hôm 4 tháng 12. Bỏ câu “Các thành viên Hội đồng Quốc gia hoà giải hoà hợp dân tộc sẽ do hai bên lựa chọn bằng nhau”, và trở lại văn bản tháng 10, nhưng vẫn ghi “cơ cấu hành chính” trong văn bản tiếng Việt.
Bỏ việc giảm quân số trên cơ sở “một đổi một" và câu “đưa họ về quê quán”, nhưng vẫn ghi: “hai bên Nam Việt Nam sẽ bàn việc giảm quân số trong ba tháng”.
Bỏ hai miền tôn trọng lãnh thổ của nhau trong vấn đề khu phi quân sự, nhưng thêm “Bắc và Nam Việt Nam không dùng vũ lực chống lại nhau”, và “hai miền sẽ thảo luận thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời”
Kissinger đã có bước lùi, nhưng Lê Đức Thọ thấy Mỹ vẫn đòi sửa đổi nhiều đối với ta, nên lại phê phán Mỹ lại có ý đồ chia cắt Việt Nam, kéo dài đàm phán. Ông nhắc lại thiện chí của ta và nêu rõ:
- Trong 9 vấn đề có ý nghĩa quan trọng Mỹ đã đề ra và chúng tôi đã thoả thuận, trong đó có các vấn đề như khu phi quân sự, thay thế vũ khí, giảm bớt nhiệm vụ Hội đồng Quốc gia hoà hợp hoà giải dân tộc v.v... thì nay chúng tôi vẫn đồng ý giữ nguyên 6 vấn đề
Còn lại Lê Đức Thọ đòi sửa hai điểm và giữ nguyên điểm 1 như văn bản tháng 10.
Kissinger nói:
- Đây là bản Hiệp định đầu tiên của nhiệm kỳ mới của Tổng thống Nixon mà nó mở đầu bằng một chương riêng biệt, đặc biệt lại nhằm về phía Hoa Kỳ. Đó là điều hết sức khó khăn, cho nên về điểm 1, chúng tôi phải xin ý kiến Nixon - ông ta chấp nhận bỏ chữ “nghĩa vụ” trong vấn đề Lào và Campuchia trong điều 20.
Cuộc tranh luận tỏ ra gay gắt chung quanh câu Mỹ đưa ra: “Hai miền không dùng vũ lực chống lại nhau” và vấn đề tù dân sự. Nhưng găng nhất là vấn đề khu phi quân sự.
Kissinger nói:
- Hậu quả của đề nghị của các ông là xoá bỏ khu phi quân sự.
Phía Mỹ đề nghị hôm sau họp ở nhà do phía họ bố trí ở Neuilly - sur - Seine, mỗi bên ba người, phía Mỹ chỉ có Kissinger, Haig và Sullivan. Còn phía Việt Nam, Kissinger đề nghị mang theo ông Thạch. Ông ta nói rằng: mỗi khi chúng ta đến gần thoả thuận thì ông Thạch lại viết giấy đưa cho ông Cố vấn.
Xuân Thuỷ:
- Ông Sullivan thì cũng không kém!
Ngày 8 tháng 12 năm 1972 - tại Neuilly - sur - Seine, Kissinger phát biểu trước, nêu những vấn đề tồn tại như sau:
Vấn đề Lời mở đầu.
Chữ cơ cấu Chính quyền.
Vấn đề phục viên trong chín mươi ngày.
Vấn đề giữ nguyên điều 1 như trước.
Vấn đề quy chế khu phi quân sự.
Lê Đức Thọ:
- Còn vấn đề nhân viên dân sự (Mỹ) liên quan đến quân sự, điều 8c... còn một hai vấn đề nữa tôi sẽ nói sau.
Cuộc họp hôm ấy mang tính đổi chác quá rõ ràng nhưng cũng không phải nói toạc móng heo, mà các nhà thương lượng còn thăm dò, rào đón trước sau, bằng những câu đạo lý, những lời thuyết minh để chứng minh khó khăn và cố gắng cũng như thiện chí của mỗi bên.
Kissinger nói:
- Về Lời mở đầu, Mỹ không sẵn sàng ký một Hiệp định mà trong Lời mở đầu ghi rõ tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Về điều 1: Đấy là vấn đề rất khó khăn đối với chúng tôi. Chúng tôi hiểu khi nói: Tất cả các nước... thì có nghĩa là khoảng một trăm năm mươi nước. Chúng tôi đề nghị: Các bên sẽ tôn trọng... như vậy chỉ còn bốn bên. Nếu để Hoa Kỳ ngay từ đầu thì chẳng khác gì nhìn nhận một sự đầu hàng.
Lê Đức Thọ:
- Như vậy là chúng tôi tôn trọng chúng tôi.
- Về vấn đề “Nam và Bắc Việt Nam sẽ không dùng vũ lực đối với nhau”, chúng tôi - Kissinger tiếp - sẵn sàng rút câu đó nếu các ông sẵn sàng phục hồi cái câu trước là: hai bên sẽ tôn trọng khu phi quân sự.
Rồi ông ta vẫn đòi ghi “cơ cấu hành chính” trong bản tiếng Việt, vẫn đòi hai bên miền Nam bàn vấn đề phục viên quân đội trong ba tháng.
Lê Đức Thọ nhận xét ngay:
- Ông chưa thay đổi gì. Chỉ có vấn đề không dùng vũ lực với nhau các ông thêm vào, trong Hiệp định không có, nay bỏ đi thì không phải là nhân nhượng.
Nhìn lại thì toàn các ông đưa ra những sửa đổi và chưa đáp ứng được điểm nào của chúng tôi. Ông có cố gắng lớn thì chúng tôi cũng có cố gắng lớn, ông có cố gắng vừa thì chúng tôi cũng có cố gắng vừa. Ông có cố gắng nhỏ thì chúng tôi có cố gắng nhỏ. Nếu không giải quyết được thì trách nhiệm hoàn toàn ở các ông. Chúng tôi không bao giờ ký một Hiệp định mà không có ghi tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong Hiệp định.
Kissinger:
- Về tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Hoa Kỳ có thể thuyết phục được Sài Gòn nhận Hiệp định nếu các ông chấp nhận ghi lại: hai miền tôn trọng lãnh thổ của nhau... hoặc có điều nói: “bốn nước Đông Dương”.
Lê Đức Thọ:
- Nếu bốn bên ký thì ghi rõ bốn tên Chính phủ, nếu hai bên ký thì ghi: Chính phủ Hoa Kỳ với sự thoả thuận của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với sự thoả thuận của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Nếu các ông chấp nhận những điều trên thì chúng tôi đồng ý bỏ chữ cơ cấu Chính quyền và đồng ý như các ông: chỉ để chữ Hội đồng Quốc gia hoà hợp và hoà giải dân tộc thôi. Về các nước Đông Dương, trước kia chúng ta đã thoả thuận ba nước Đông Dương, vừa rồi các ông sửa là các nước Đông Dương. Chúng tôi đã đồng ý. Như vậy là hợp tình hợp lý lắm rồi.
Kissinger nhắc lại điểm 1 và nói:
- Hoa Kỳ sẵn sàng nhận cả điều đó nhưng với điều kiện là phải đưa xuống Chương IV (về quyền tự quyết của Nam Việt Nam).
Lê Đức Thọ vẫn đòi để nguyên Chương I và nói:
- Để chiếu cố đến các ông... để tránh hiểu là chỉ có Hoa Kỳ mới tôn trọng, tôi đề nghị viết là “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”
Kissinger nói câu này xấu hơn nhưng sẵn sàng nhận nếu để xuống Chương IV.
Lê Đức Thọ nói không phải xấu hơn mà tốt hơn câu cũ và đây là chỉ thị của Chính phủ không thay đổi được. Ông Thọ cho Kissinger biết: kỳ này tôi về Hà Nội thì điều này tôi bị chỉ trích nhiều nhất.
Lê Đức Thọ đã nói đúng sự thật. Trong điện ngày 1 tháng 12, Bộ Chính trị đã nêu rõ điều 1 phải đòi ghi lại như cũ.
Về việc phục viên lực lượng vũ trang hai bên ở miền Nam, ông Thọ đề nghị:
- Hai bên miền Nam Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để hoàn thành việc giảm quân số và phục viên càng sớm càng tốt.
Về vấn đề nhân viên dân sự Mỹ liên quan đến quân sự, đề nghị phần lớn rút hết trong sáu mươi ngày. Số còn lại sẽ rút trong vòng một trăm hai mươi ngày sau khi ký Hiệp định - và sẽ có sự hiểu biết riêng với Mỹ về việc này.
- Mỹ có hàng vạn Cố vấn loại này ở miền Nam.
Kissinger:
- Chỉ có 1.300 người làm việc cho Chính phủ, còn 5.000 làm việc cho các công ty.
Mỹ đưa ra thời hạn hai năm để rút hết. (trong Hiệp định tháng 10 không nói tới vấn đề này).
Kissinger nói vui rằng ông Thọ rất tế nhị - những nhân nhượng của ông không bao giờ là nhân nhượng cuối cùng - và những điều ông Thọ rút đi cũng không bao giờ rút đi hoàn toàn.
Kissinger lại nhắc đến vấn đề tù chính trị, mà ông ta tưởng phía Việt Nam đã đồng ý.
Lê Đức Thọ nói:
- Trong hai vấn đề này nếu các ông giữ nguyên như Hiệp định đã thoả thuận thì chúng tôi không đề cập thêm nữa.
Kissinger lại nêu ra khó khăn với Sài Gòn, đến quan hệ tương lai giữa hai nước - và đòi có đi có lại giữa điều khoản này với điều khoản khác.
Kết thúc phiên họp, ông ta nói:
- Chỉ có một lĩnh vực mà Hoa Kỳ có khả năng sửa đổi được, đó là vấn đề liên quan đến dính líu của Hoa Kỳ, không phải là lĩnh vực về nhân viên dân sự và khu phi quân sự. Về hai vấn đề đó chúng tôi không thể đi xa hơn được.
Kissinger đề nghị hôm sau họp ở Gif - sur - Yvette.
Ngày 9 tháng 12, cả hai bên muốn giải quyết nhanh. Sau mấy câu đạo lý chung chung, Kissinger nói:
- Tổng thống nay chấp nhận đề nghị của Việt Nam đưa ra về điều 1 (Hoa Kỳ và các nước tôn trọng độc lập...) và để ở đầu Hiệp định. Hoa Kỳ cũng chấp thuận giảm quân số và phục viên càng sớm càng tốt, chấp nhận ghi Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong Lời mở đầu và cho rằng cách viết như hồi tháng 10 là tốt nhất: Hoa Kỳ (với sự thoả thuận của... hoặc hành động chung với.) Chính phủ Việt Nam Cộng hoà, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (với sự thoả thuận của... hoặc hành động chung với...) Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Lê Đức Thọ hỏi thêm về cách ký, Kissinger cho biết: sẽ do Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký và sau đó sẽ có thư gia nhập của Chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Lê Đức Thọ nói:
- Tôi lạc quan về việc Mỹ nhận một số vấn đề, nhưng không lạc quan khi Mỹ vẫn đòi để điều 4. Như vậy Mỹ vẫn tiếp tục dính líu quân sự vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Rõ ràng ông Cố vấn đưa ra một tay và tay kia lấy lại thì kết quả vẫn như cũ.
Về khu phi quân sự, tôi đề nghị ghi: "Tôn trọng khu phi quân sự và hai miền Nam và Bắc Việt Nam sẽ thoả thuận về thể thức đi lại qua giới tuyến quân sự tạm thời".
- Như thế là quy định thể thức đi lại của dân chúng? - Kissinger hỏi lại.
- Thể thức đi lại qua giới tuyến - ông Thọ trả lời.
Về thời hạn, đề nghị rút các nhân viên dân sự ở miền Nam trong hai tháng như các ông đã nói với Bộ trưởng Xuân Thuỷ hôm 17 tháng 10.
Kissinger cho là Lê Đức Thọ tăng thêm nhiều điều kiện trong một số vấn đề và làm cho cuộc thương lượng như một việc buôn bán ngựa.
Lê Đức Thọ nói Mỹ nêu lên các sửa đổi rồi lại rút đi để nói là nhân nhượng, và nói:
- Ở Việt Nam không có từ buôn ngựa mà người ta thường nói “lái trâu".
Sau khi nghỉ, Kissinger đề nghị:
- Nếu tất cả các vấn đề khác mà giải quyết một cách thoả đáng thì Hoa Kỳ đồng ý để điều 1 và điều 4 trong Hiệp định. Đề nghị rút nhân viên dân sự trong 15 tháng.
Lê Đức Thọ nói sẵn sàng bỏ điều ghi về nhân viên dân sự trong đề nghị của Việt Nam và có sự hiểu biết riêng nhưng không ghi vào Hiệp định. Ông Thọ cũng đồng ý để lnđônêxia tham gia Uỷ ban Quốc tế. Nhưng thời gian rút nhân viên dân sự 15 tháng thì dài quá.
Kissinger nói Việt Nam nhân nhượng ít quá, không đủ cho Phó Tổng thống Mỹ đi Sài Gòn mà ông ta nói từ đầu.
Hai bên lại bàn đến vấn đề khu phi quân sự.
Kissinger đề nghị:
- Trong việc lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt có vấn đề cho phép đi lại của dân thường qua giới tuyến quân sự tạm thời.
- Nếu các ông chấp nhận câu đó thì chúng tôi đồng ý bỏ câu nói "tôn trọng lãnh thổ của nhau”
Lê Đức Thọ:
- Tôi không có quyền quyết định.
Kissinger:
- Tôi cũng vậy.
- Tôi phải hỏi Chính phủ. Tôi không có quyền. - ông Thọ nói
- Tôi cũng thế, tôi tin ở ông - Kissinger đáp.
Lê Đức Thọ lại nói:
- Tôi bị phê phán rất dữ. Tôi phải tìm một công thức như thế là quá lắm rồi. Trong tuần qua tôi đã trao đổi nhiều lần với Hà Nội. Nhưng Chính phủ chúng tôi còn chỉ thị cho tôi cao hơn công thức mà tôi nêu với ông. Sự thật bây giờ ở vùng giới tuyến một bên là miền Bắc, một bên là vùng giải phóng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Đáng lẽ chúng tôi không có gì phải quy định vấn đề qua lại giới tuyến này, nhưng vì cố gắng để giải quyết với các ông chúng tôi mới tìm ra công thức đó. Đó là thực tế.
Lê Đức Thọ nói thêm:
- Tôi còn phải hỏi lại rồi đến ngày kia (11 tháng 12) gặp lại.
Đúng là hôm trước đoàn nhận được chỉ thị của Bộ chính trị: Về khu phi quân sự ta kiên trì không ghi công thức của Mỹ vì như vậy sẽ đẻ ra nhiều vấn đề phức tạp. Ta ghi theo công thức của Bộ Chính trị đã thông qua: “Hai miền sẽ thoả thuận về quy chế khu phi quân sự và định ra thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời”.
Hai bên thoả thuận phải xin chỉ thị của Chính phủ, và trong khi chờ đợi, các chuyên viên sẽ họp vào sáng chủ nhật 10 tháng 12, mỗi bên ba người, để rà soát lại văn bản.
Hôm đó là một cuộc họp căng thẳng. Huyết áp của Lê Đức Thọ lên cao, phải nghỉ nhiều lần và kết thúc cuộc gặp riêng không thoải mái gì cho cả hai bên.
Bế tắc
Tối hôm đó, đoàn Mỹ gửi cho ta một công hàm nhân danh Tổng thống nói rằng Nixon chưa chấp nhận công thức của Kissinger đưa ra và đòi phục hồi lời lẽ Chương V mà Việt Nam đã thoả thuận hôm 23 tháng 11 về khu phi quân sự đưa ra hôm qua là hết sức đúng đắn và hợp tình hợp lý.
Cuộc họp hôm 11 tháng 12 thực ra chỉ còn một vấn đề lớn: Khu phi quân sự. Nhưng khi vào họp, Lê Đức Thọ nói chưa nhận được chỉ thị của Chính phủ, có lẽ sáng mai mới có trả lời và chiều mai mới thảo luận được.
Kissinger tỏ ra bực bội và thất vọng. Ông ta nói rằng ở Washington bầu không rất căng thẳng, người ta không còn kiên nhẫn nữa. Ông đưa ra nhiều lý do để nói người ta ngày càng bực tức: Phó Tổng thống Agnew cứ chờ mãi để đi Sài Gòn, bây giờ lại phải hoãn lại. Còn ông ta tối mai phải về Washington và do đó không thể đi Hà Nội cho đến sau lễ Noel. Ông đổ cho Việt Nam kéo dài đàm phán.
Nhưng ông ta cũng đồng ý thảo luận vấn đề ký kết và lại đưa một thời điểm:
- Nếu ngày mai đạt được thoả thuận thì tối mai Phó Tổng thống Mỹ đi Sài Gòn. Tối thứ năm ông trở về Washington. Sau đó đi Hà Nội vào thứ tư hoặc thứ năm tuần tới. Đó là cách duy nhất làm xong trước Noel. Nếu không thì phải trì hoãn tất cả hoặc bỏ cuộc đi Hà Nội của ông ta.
Kissinger cũng dự định ký Hiệp định ở Paris vào ngày 27 hoặc 28 tháng 12.
Để tỏ rõ sự bực bội, ông ta đề nghị nghỉ họp để đi báo cáo Nixon. Không khí trở nên căng thẳng thêm.
Về cách ký kết, Lê Đức Thọ không đồng ý đề nghị cũ của Mỹ là Chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời gửi thư tham gia vào văn bản Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ ký. Ông đề nghị cả hai bên và bốn bên cùng ký một văn bản. Kissinger không chịu. Cuối buổi, Lê Đức Thọ đưa ra công thức: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ ký một văn bản. Chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng Lâm thời ký vào hai bản khác nhưng nội dung giống nhau. Tức là có ba văn bản nội dung giống nhau mà có lần Kissinger đã đề ra. Phía Mỹ hứa nghiên cứu.
Về các hiểu biết. Vì có nhiều phức tạp do yêu cầu hai bên khác nhau, nên cuộc họp thoả thuận ngày 12 tháng 12, các đại diện Mỹ, đại sứ Porter, đại sứ Sullivan gặp lại Xuân Thuỷ và Nguyễn Cơ Thạch để duyệt lại.
Lê Đức Thọ nói nếu ngày mai xong thì ông cũng quay về, mà không xong thì cũng về.
Ngày 12 tháng 12, khi vào họp Lê Đức Thọ nói:
- Chúng tôi mới nhận được chỉ thị đáp ứng yêu cầu các ông về khu phi quân sự như sau:
“Miền Bắc và miền Nam tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời. Miền Bắc và miền Nam sẽ sớm bắt đầu thương lượng lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt. Trong các vấn đề thương lượng có vấn đề thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời".
Công thức này gần giống công thức Mỹ đưa ra hôm 7 tháng 12 và hôm 9 tháng 12 - chỉ khác có hai chữ: Mỹ viết “cho phép đi lại của thường dân" (thay dân sự)
Kissinger hỏi lại ngay:
- Việc đi lại của dân chúng có phải không?
Lê Đức Thọ:
- Không - Vấn đề thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời, đúng như hôm trước ông đề nghị.
Kissinger nói rằng công thức đó Mỹ đã rút đi rồi và châm biếm:
- Con trâu có đi lại được không?
- Trâu sắt thì không, còn trâu thường thì không có vấn đề gì. Ông Thọ trả lời.
Chúng tôi quan sát thấy nhiều “con voi" (đoàn xe - tiếng Anh) qua khu phi quân sự - Kissinger nói.
- Không, các ông nhầm đấy. Đó là những con voi thật đấy - Lê Đức Thọ trả lời.
Tiếp đó ông Thọ nói luôn đến cách ký kết. Ông đòi hai bên ký rồi bốn bên cùng ký. (Như vậy là thay đổi luôn ý kiến ta mới đưa ra hôm qua). Ông nói:
- Đó là chỉ thị của Chính phủ chúng tôi để nói với các ông như vậy... Nếu không giải quyết được thì tôi phải về rồi sau đó tôi sẽ gửi công hàm cho các ông. Vì tôi không có quyền giải quyết.
Trước khi bình luận, Kissinger châm biếm:
- Đại sứ Sullivan cho rằng ông Cố vấn có nhiều trâu nhất ở Việt Nam.
- Ông thì có nhiều ngựa nhất ở Mỹ - Lê Đức Thọ nói rồi cười.
Cuộc thảo luận tiếp tục.
Kissinger nhắc lại nhiều lần “Hoa Kỳ quan tâm đến vấn đề đi lại của thường dân”.
- Nếu ta ghi lại: việc đi lại của thường dân hay đi lại dân sự thì Hoa Kỳ đồng ý ngay.
Ông Thọ nhắc lại:
- Tôi không có quyền.
Thực ra Lê Đức Thọ ở trong tình trạng rất khó khăn.
Về vấn đề khu phi quân sự:
Trong thoả thuận tháng 10 giữa ta và Mỹ không có vấn đề đề khu phi quân sự. Chỉ có một câu: "Giới tuyến quân sự ở vĩ tuyến 17 là tạm thời, không phải ranh giới về chính trị hay lãnh thổ".
Ngày 20 tháng 11, theo yêu cầu của Sài Gòn, phía Mỹ đề nghị thêm: "Trong khi chờ đợi thống nhất Việt Nam, khu phi quân sự phải được hai bên tôn trọng”. Ý đồ của Mỹ là muốn làm rõ miền Nam Việt Nam là một Quốc gia riêng biệt.
Hôm sau đoàn ta đề nghị:
“Hai miền tôn trọng khu phi quân sự và thoả thuận về quy chế và định ra thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời".
Ngày 23, ta thoả thuận bỏ đoạn "về quy chế và thể thức" mà chỉ ghi "miền Bắc và miền Nam sẽ tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời".
Hà Nội không tán thành công thức này. Trong chỉ thị ngày 1 tháng 12 năm 1972, Hà Nội chỉ thị cho đoàn: "Cần ghi thêm là quy chế sẽ do hai bên thoả thuận". Hôm sau lại chỉ thị thêm cho đoàn “Nếu không nói rõ quy chế sẽ do hai miền thoả thuận thì Mỹ có thể giải thích là ta tôn trọng khu phi quân sự như quy chế cũ. Do đó có thể gây thêm phức tạp quanh vấn đề này”.
Ngày 4 tháng 12, theo chỉ thị của Hà Nội, Lê Đức Thọ bổ sung thêm "Hai miền sẽ thoả thuận về quy chế khu phi quân sự và thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời". Phía Mỹ không chịu, cho ta rút đi sự thoả thuận quan trọng nhất đạt được hồi tháng 11, làm cho cuộc thảo luận căng thẳng.
Ngày 7 tháng 12, Mỹ đề nghị "trong các vấn đề thảo luận có vấn đề thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời". Họ không nói gì đến quy chế khu phi quân sự và đặt vấn đề đi lại giữa hai miền.
Ngày 9 tháng 12, ta dựa vào công thức của Mỹ đưa ra công thức “Miền Nam và miền Bắc sẽ thảo luận về thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời" liên sau câu tôn trọng khu phi quân sự như đã nói ở trên.
Báo cáo về Hà Nội, Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ viết:
“Nếu ta cứ đòi cả thoả thuận về quy chế về thể thức thì cứng quá mà chỉ nên để thể thức qua lại, vì bàn thể thức qua lại là bàn cả quy chế rồi, như vậy vừa đạt yêu cầu vừa mềm dẻo”.
Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ nhận được trả lời của Hà Nội.
"Ta kiên quyết không ghi vấn đề khu phi quân sự theo cách của Mỹ vì như vậy sẽ đẻ ra nhiều vấn đề phức tạp”. Đây là âm mưu rất lớn của Mỹ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành một nước riêng, tạo điều kiện cho Nguỵ trở lại vấn đề “rút quân miền Bắc" về phía Bắc khu phi quân sự theo các điều khoản Hiệp định Genève năm 1954... Hà Nội đã thảo luận kỹ vấn đề này mà họ không giải quyết. Còn ta không nên vì muốn giải quyết mà bỏ vấn đề nguyên tắc này.
Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ hiểu rằng vấn đề khu phi quân sự là vấn đề nguyên tắc, càng cương quyết đấu tranh. Nhưng nếu thấy trở lại công thức có cả qui chế khu phi quân sự thì Mỹ khó chấp nhận, hai ông báo cáo về Hà Nội:
"Nếu Mỹ không nhận thì có khả năng đàm phán có thể gián đoạn một thời gian, chiến tranh tiếp tục, tuy họ không có khả năng kéo dài nhưng sẽ đánh ồ ạt tập trung sau một thời gian lại yêu cầu đàm phán lại. Nếu ta không gặp thì chiến tranh tiếp tục và Mỹ sẽ đố trách nhiệm cho ta. Nếu ta công bố mà nội dung chỉ còn một vấn đề khu phi quân sự thì ta sẽ khó giải thích; dư luận còn có thể hiểu lầm rằng ta không muốn tôn trọng khu phi quân sự, ta còn muốn tiếp tục đưa quân. Nếu ta nhận gặp thì lúc đó ta ở thế bị sức ép mà cũng chỉ đặt vấn đề khu phi quân sự như công thức Bộ Chính trị nhưng cũng có thể không đạt, mặt khác ta lại bị thiệt hại thêm ở miền Bắc do đó ảnh hưởng một phần ở miền Nam.
Ta không (bị) thúc bách nhưng cần thấy thời cơ. Hiện nay Mỹ đang cần giải quyết, nếu để quá thì sẽ lỡ và ép họ thì cũng ít tác dụng vì mọi việc đều có giới hạn...".
Ngày 12 tháng 12, Hà Nội nói rõ quan điểm cho đoàn ở Paris:
“Không thể theo công thức 23 tháng 12 và đồng ý công thức sau:
"Miền Nam và miền Bắc sẽ tôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời và sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt”.
Nếu Mỹ không đồng ý công thức này, ta có thể lấy công thức của Mỹ sửa lại như sau:
"Miền Nam và miền Bắc Việt Nam sẽ tôn trọng khu phi quân sự hai bên giới tuyến quân sự tạm thời. Miền Nam và miền Bắc sẽ sớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ bình thường về nhiều mặt. Trong các vấn đề thương lượng có vấn đề thể thức qua lại giới tuyến quân sự tạm thời. Nhất định là không nhận ghi đi lại về dân sự của Mỹ".
Chiều 12 tháng 12, Lê Đức Thọ đưa ra công thức này cho Kissinger, nhưng Mỹ nhất định không công nhận vì không nói rõ đi lại dân sự. Như vậy là bế tắc, chỉ còn khác nhau hai chữ dân sự.
Trong phiên họp ngày 12 tháng 12 ấy còn vấn đề ký kết nữa. Sau khi Lê Đức Thọ thay đổi ý kiến về cách ký kết, Kissinger nói Việt Nam đưa thêm vấn đề mới ông ta phải hỏi ý kiến của Tổng thống và sẽ trao đổi công hàm với phía ta.
Tuy vậy, sau khi thảo luận quá găng mà không giải quyết được vấn đề khu phi quân sự, không khí trở lại bình tĩnh hơn và hai bên thoả thuận được ba văn bản: hiểu biết về việc Lào và Campuchia, về định nghĩa các bên trong Chương, về trao trả tù binh.
Cuộc thương lượng đã thật sự bế tắc. Nhưng hai bên vẫn thoả thuận hôm sau chuyên viên hai bên rà soát văn bản và 10 giờ 30, Lê Đức Thọ và Kissinger lại gặp nhau ở Neuilly để duyệt.
Hôm sau (13 tháng 12) cuộc họp bắt đầu, Kissinger hỏi Lê Đức Thọ hôm nào về tới Hà Nội. Một câu hỏi xã giao hay hữu ý? Vì ngày 18 là bắt đầu các cuộc ném bom bằng B52.
Và hai bên đi vào xem xét lại văn bản.
Hôm qua khi thảo luận về vấn đề này Kissinger đã nói rằng: Về văn bản thì ông Lưu Văn Lợi và ông Negroponte là những kẻ phá hoại, còn về nội dung thì ông Sullivan và ông Nguyễn Cơ Thạch là những kẻ phá hoại. Ông Lưu Văn Lợi là người cầm đầu nghiệp đoàn buôn trâu.
Hôm nay, khi vào cuộc họp Kissinger phàn nàn rằng chuyên viên phía ta đã nêu lên 17 vấn đề trong đó có nhiều vấn đề Lê Đức Thọ và Kissinger đã thoả thuận xong rồi. Đúng là Lưu Văn Lợi có bỏ chữ phá huỷ trong vấn đề thay thế vũ khí, sửa lại đoạn đầu điều 20 (a) - sửa ba tháng thành hai tháng trong vấn đề trao trả tù binh, và bỏ đi 9 chỗ có ghi Việt Nam Cộng hoà, vì tên Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã bị bỏ đi. Trong nhiệm vụ Hội đồng ta vẫn giữ từ “đôn đốc” - mà phía Mỹ không chịu... Trong các điểm sửa đó có ba điểm theo chỉ thị của Bộ trưởng Nguyễn Duy Trinh hôm 7 và 12 tháng 12.
Cuộc thảo luận về từ ngữ cũng trở nên căng thẳng. Tình hình nhiệm vụ của Hội đồng Quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc hồi tháng 10, Mỹ đưa ra bốn chữ “khuyến khích”, ta không đồng ý, sau đó họ đưa ra ba từ: “to promote” (thúc đẩy), “to oversee” (trông nom, giám sát) và “to see to” (chăm lo), còn ta vẫn dùng chữ “đôn đốc”. Cuối cùng phía Mỹ đồng ý bỏ bớt tên Việt Nam Cộng hoà trong Hiệp định nhưng sẽ qua công hàm để xác nhận. Ta đồng ý điều 8c (tù dân sự miền Nam) vẫn để ba tháng nhưng có hiểu biết riêng - còn các vấn đề khác gác lại.
Trong khi thảo luận, Kissinger vừa đùa cợt vừa đả kích Lưu Văn Lợi (một nhà luật, nhà báo, trợ lý Bộ trưởng, chuyên viên về văn bản của ta). "ông Lưu Văn Lợi muốn được Huân chương nên có nhiều ý kiến trong việc dùng từ ngữ”, "Cần cho ông Lưu Văn Lợi phục viên về sinh quán”, “Hoa Kỳ không có chuyên viên nào đủ mức tế nhị như ông Lợi!”, “Phải xây dựng tượng ông Lợi cạnh một cái hồ...”.
Lê Đức Thọ cũng tỏ ra vui vẻ thêm vào: chân bức tượng đó phải ghi những đề nghị sửa đổi Hiệp định của ông Lợi.
Kissinger đổ cho ta kéo dài đàm phán, việc sửa đổi nhiều về từ ngữ càng củng cố thêm ý nghĩ đó của ông ta, nếu không nói ta quá chặt chẽ về câu chữ.
Hai bên còn trao đổi về Nghị định thư. Mỹ quan tâm đến Nghị định thư về Uỷ ban Quốc tế và Uỷ ban Liên hợp nhưng chưa giải quyết được.
Kissinger bắt tay Lê Đức Thọ, hai người chúc nhau lên đường bình yên. Khi bắt tay Lưu Văn Lợi, ông ta hỏi:
- Bao giờ tượng ông sẽ được dựng?
Lê Đức Thọ hài hước nói chen vào:
- Mỹ có tiếng là giỏi về khoa học và kỹ thuật, nhưng không hiểu có làm nổi bức tượng ông Lợi có hai mắt nháy được không?
Cuộc chia tay nếu không là hữu nghị thì ít nhất cũng là bình thường. Sự thật mây đen từ chân trời xa do phía Mỹ tạo nên đang đùng đùng kéo về phía máy bay của Lê Đức Thọ đang đi tới.
Mùa Noel của Nixon
Như trên đã nói, để đáp lại sự tiết lộ xuyên tạc của Mỹ, ngày 26 tháng 10 năm 1972, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố sự thật về các cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ - Xuân Thuỷ và Kissinger và công bố bản Hiệp định mà Hà Nội và Washington đã đạt được ngày 20 tháng 10 năm 1972, và tố cáo Mỹ trì hoãn việc ký kết Hiệp định đó, tố cáo Nguyễn Văn Thiệu mưu toan phá hoại việc ký kết đó. Từ ngày đó, các cuộc thương lượng Việt Mỹ bước sang một thời kỳ mới rất phức tạp.
Ngày 24 tháng 10, Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn trước Quốc hội Sài Gòn công khai lên án và bác bỏ Hiệp định 20 tháng 10 năm 1972.
Ngày 14 tháng 11, Thiệu đích thân đưa cho tướng Haig, phái viên của Tổng thống Nixon, bức giác thư yêu cầu sửa 69 điểm trong Hiệp định ngày 20 tháng 10 năm 1972, bảo lưu các Nghị định thư, lưu ý phía Mỹ tới các hiểu biết (understanding). Ngày 18 tháng 11, Sài Gòn lại gửi một giác thư mới nêu các vấn đề “sinh tử” như vấn đề quân miền Bắc, Hội đồng hoà giải và hoà hợp dân tộc không gồm ba thành phần, Uỷ ban Quốc tế gồm toàn nước trung lập. Thiệu cử đặc phái viên Nguyễn Phú Đức sang gặp Nixon, cử Phạm Đăng Lâm hàng ngày gặp Kissinger để nắm tình hình thương lượng với Lê Đức Thọ - Xuân Thuỷ, cử các đại sứ Sài Gòn ở London và Washington phụ tá cho Lâm, v.v...
Hạ nghị viện Sài Gòn thông qua nghị quyết lên án mọi giải pháp liên hiệp với cộng sản. Tổng trưởng Ngoại giao Sài Gòn ra tuyên bố nói sẵn sàng chấp nhận ngừng bắn nhưng không chấp nhận giải pháp đi ngược lại lợi ích của 17,5 triệu nhân dân miền Nam.
Từ đây Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu trở thành một bên thương lượng tuy là gián tiếp.
Thiệu dùng chiến thuật hai mặt: một mặt đòi sửa đổi nhiều điều khoản mà Mỹ đã thoả thuận với ta, mặt khác đòi Chính quyền Nixon tiếp tục đưa vũ khí vào miền Nam Việt Nam theo kế hoạch Enhance Plus (tăng cường hơn nữa). Nixon vẫn thuyết phục Thiệu chấp nhận Hiệp định nhưng đồng thời hạn chế những yêu cầu của Thiệu chẳng hạn không đồng ý mở rộng thành phần nói chuyện riêng, trì hoãn việc tiếp phái viên Nguyễn Phú Đức.
Nixon cố ép Thiệu nhưng bị Thiệu ép lại mạnh hơn, cố ép Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng bị đòn ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tấn công mạnh. Sức ép của chính giới và nhân dân Mỹ trước khi Quốc hội Mỹ họp, sức ép của dư luận quốc tế càng thôi thúc Nixon phải lựa chọn: hoặc là cắt đứt đàm phán (và đương nhiên là ném bom trở lại) hoặc là gạt các yêu cầu của Thiệu.
Đợt đàm phán lại (từ 20 tháng 11) bốn phiên họp chính thức, hai phiên họp hẹp, đạt được một số thoả thuận, trong đó một số điểm có ý nghĩa. Tuy vậy, đến 23 tháng 11 nhiều vấn đề lớn vẫn chưa được giải quyết như Chương III, Chương IV (về vấn đề rút nhân viên dân sự Mỹ) đối với ta, vấn đề giảm quân số 1-1, phục viên về sinh quán, bỏ ba thành phần Hội đồng hoà giải và hoà hợp dân tộc, hai miền tôn trọng lãnh thổ của nhau, quân đội các nước Đông Dương ở trong biên giới của nước mình, v.v... đối với Mỹ.
Đến lúc này Kissinger thấy các điểm sửa đổi đạt được còn cách rất xa yêu cầu của Thiệu và con bài mặc cả không có, không ép được Việt Nam sửa đổi, tiếp tục họp nữa chỉ càng bế tắc. Kissinger báo cáo với Nixon hai khả năng lựa chọn: một là cắt đứt đàm phán và tăng cường ném bom, hai là chấp nhận các sửa đổi đã đạt được cải thiện chút ít về vấn đề chính trị để vớt vát thể diện cho Sài Gòn.
Lúc đầu Nixon điện cho Kissinger không tán thành phương án một. Tuy đã chỉ thị cho Kissinger rằng “chúng ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đạt được một Hiệp định theo những đường lối của nguyên tắc ngày 8 tháng 10 (đúng ra là 20 tháng 10), nhưng hôm sau ông ta vẫn điện cho Kissinger ngừng đàm phán một tuần lễ đế tham khảo ý kiến Chính phủ. Ông ta nói: Tôi có thể sẵn sàng cho phép ném bom ồ ạt miền Bắc Việt Nam trong thời gian nghỉ ngơi đó" (R.Nixon. Hồi ký. Sđd, tr. 730 - 734.)
Trong đợt đàm phán lại đầu tháng 12 năm 1972, bắt đầu ngày 4, quan điểm hai bên vẫn còn xa nhau. Cuối cùng ngày 4, Lê Đức Thọ nói rõ ràng: “Nếu các ông muốn giữ Hiệp định như cũ thì chúng tôi cũng sẵn sàng giữ nguyên như cũ không thay đổi một chữ. Nếu các ông không sửa một chữ nào thì chúng tôi cũng không sửa một chữ nào”, và ông Thọ còn rút đi nhiều điều quan trọng mà phía ta mới thêm vào.
Kissinger thấy ý nghĩa của đề nghị phải chăng đó là xin hoãn phiên sau đến ngày 6 để xin chỉ thị Tổng thống. Người ta không hiểu tại sao 12 giờ đêm ngày hôm đó ông ta lại đến gặp Đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn với vẻ nghiêm trọng, bực dọc, bi quan, và nói: “Nếu ngày thứ tư 6 tháng 12, Bắc Việt Nam vẫn giữ lập trường của họ thì chúng tôi buộc phải cắt đứt đàm phán".
Trong dịp này, tự nhận đã thất bại trong đàm phán, Kissinger nêu vấn đề từ chức với Tổng thống.
Ngày 5 tháng 12, Nixon điện cho Kissinger: "Tôi nhất quyết cho rằng chúng ta không được tự dồn mình vào góc bằng cách nói rằng đây là đề nghị cuối cùng của chúng tôi hoặc đây là cuộc họp cuối cùng của chúng tôi. Hãy để một chỗ hở ở cửa cho các cuộc họp tiếp" (R.Nixon Hồi ký. Sđd, tr.730-734.)
Giải thích thế nào thái độ của Kissinger: ông ta bi quan thật hay suy tính điều gì?
Qua ngày 6 tháng 12, Lê Đức Thọ lại nhắc lại đề nghị hai bên rút hết mọi đề nghị sửa đổi và trở lại Hiệp định đã thoả thuận: “Nếu sửa thì chỉ sửa một số chi tiết không thuộc thực chất và nguyên tắc; hai là hai bên đều sửa đổi. Đã sửa đổi thì bên này sửa lớn, bên kia cũng sửa lớn; bên này sửa nhỏ bên kia cũng sửa nhỏ, không thể chỉ một bên sửa một bên không sửa. Cứ như thế, sửa đi sửa lại mãi, không thể hoàn thành được. Trong hai cách đó, phía Mỹ chọn cách nào chúng tôi cũng sẵn sàng, nhưng chúng tôi cho rằng cách tốt nhất là cơ bản giữ Hiệp định ".
Đề nghị của Lê Đức Thọ làm cho không khí dịu hơn và dù cuộc tranh luận có lúc căng thẳng, khiến Lê Đức Thọ nhiều lúc huyết áp tăng, nhiều vấn đề tồn tại cũng đã được lần lần giải quyết.
Đến ngày 12 chỉ còn hai vấn đề sẽ giải quyết bằng trao đổi công hàm: cách ký văn kiện và vấn đề khu phi quân sự. Hai bên còn thoả thuận sáng 13 rằng nhóm chuyên viên sẽ rà soát văn bản Hiệp định và tiếp tục bàn các hiểu biết và Nghị định thư. Kissinger giới thiệu Porter, Sullivan, Aldrich; Lê Đức Thọ giới thiệu Nguyễn Cơ Thạch vào nhóm chuyên viên.
Nhưng nhiều vấn đề Lê Đức Thọ và Kissinger tưởng đã giải quyết xong lại trở thành vấn đề tranh cãi trong nhóm chuyên viên rà soát văn bản. Thí dụ: bản tiếng Việt viết là: Hội đồng đôn đốc thi hành Hiệp định và các Nghị định thư kèm theo và chữ “đôn đốc” ở đây tương đương với các từ: “to direct”, đề nghị “encourage”, phía Việt Nam bác chữ đó; cuối cùng đồng ý chữ “to promote”. Ta chấp nhận chữ “to promote” nhưng đòi bản tiếng Việt vẫn để là “đôn đốc”. Phía Mỹ cũng không nhận chữ “đôn đốc” trong bản tiếng Việt
Đến ngày 13, ngoài những vấn đề tồn tại trong văn bản, qu