PHẦN II
2. Cuối thu, vùng núi rừng biên cương Hòa Lạc Lạng Sơn, trời đêm se lạnh, Vua Lê đang thấp thỏm, mỏi mắt hướng về phương Bắc ngóng trông những trung thần đem tin vui từ Thanh triều “rủ lòng cứu vớt”, bắt đầu một cơ duyên cho đất nước non sông(?), Chiêu Thống nói như tự an ủi: “Mùa thu cứ bước đi, bước đi, ước gì ta được ôm hôn hoàng đế Càn Long ba cái, như bao người trước, người sau!”.
Bỗng đâu, Duy Đản ở Thái Bình về, tâu rằng vua Thanh đã chuẩn y cứu viện, Lê Quýnh báo tin Thái hậu ở Nam Kinh khang kiện an vui. Chiêu Thống lệnh cho Duy Đản lấy giấy bút chép phúc thư, rồi ngửa mặt lên trời mà đọc rằng:
“ Kẻ tiểu tử Duy Khiêm này, gặp lúc vận nhà lắm nạn, được đức đại hoàng đế rũ lòng thương bảo bọc…, kẻ hèn mọn như chết đi sống lại, ơn tái tạo của đức đại hoàng đế cùng với công gầy dựng của Tôn tướng quân đáng ghi tạc như sông Lô, núi Tản, bền vững muôn đời…”*.
Sĩ Nghị tiếp được tờ bẩm của Triều Châu kèm phúc thư của Chiêu Thống, liền dâng biểu lên vua Thanh xin xuất quân, đại ý nói rằng: “ Thần nghe nói họ Lê ở An Nam hèn yếu, hơn nữa nơi ấy là đất cũ của ta, sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó ta cho quân đóng giữ, như thế vừa khôi phục được họ Lê, lại chiếm được nước An Nam, một công mà hai việc vậy”.
Đại quân gần 30 vạn, chia thành ba ngả, một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại Kinh chỉ huy theo ngả Tuyên Quang tràn xuống, một do tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống điều khiển từ Khâm Châu qua Cao Bằng, đạo còn lại do chính Tôn Sĩ Nghị và và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, theo đường Lạng Sơn, trực chỉ La Thành.**.
Ở Thăng Long, đại tư mã Ngô Văn Sở nghe theo kế của thị lang bộ lại là Ngô Thì Nhậm, rút quân về đóng ở núi Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, chờ lệnh của Bắc Bình Vương. Nghe tin Ngô văn Sở và Phan văn Lân đã lui quân, Tôn Sĩ Nghị cười lớn và bảo với quan tham tri nhà Lê là Vũ Trinh rằng:
“ Lũ các ông bị quân Tây Sơn đối xử tàn ngược đã lâu, nên nghe đến chúng là run sợ, nhưng theo ta xem xét thì chúng chỉ là hạng trâu dê, chỉ cần sai một người đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về cũng không khó gì, đợi khi quân ta đến La Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc, ngươi hãy chờ xem”*
Khi Nghị hành quân đến trấn Kinh Bắc, quang cảnh hoang tàn, đường đi không có bóng người, không có chó chạy, chim đã bay hết về rừng, vua Lê dẫn các quan đến đón, cùng quỳ xuống ven đường, trông rất thảm hại. Thấy vậy, Nghị an ủi:
-“ Quý tự mắc phải nạn lớn đã nhiều năm, nay nhờ ơn đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem hùng binh hộ tống mẹ và vợ con ông về nước. Chuyến này sang đây, trước hết cần phải bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn qui mô làm kế lâu dài, khi nào việc ổn thõa rồi mới rút quân, xin chớ lo gì việc nước nữa” *.
Vua Lê ôm Nghị hôn ba lần, rồi nghẹn ngào:
-“ Phận hèn này xin đội ơn đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao kể xiết, lại nhờ cụ lớn hạ mình đến đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai ngọc, được thõa lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn, mối tình Trung -Việt từ nay đời đời bền vững như núi Hoàng Liên Sơn vời vợi…”*
Vua Lê mời Nghị vào dinh nghỉ tạm, Nghị không vào, hắn cho quân bắn chín phát súng thị uy, rồi nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi đến bờ bắc sông Nhĩ Hà, thì trời đã chạng vạng, vua Lê xin qua sông, vào kinh thành trước, sai quân tìm cho được đèn hoa lụa gấm sửa sang điện Kính Thiên rồi mời Nghị vào ở, nhưng Nghị không vừa ý, đoạn chia quân đóng ở những nơi quang đãng nằm dọc hai bên bờ nam bắc Nhĩ Hà, lại có cầu phao, để tiện việc qua lại. Hôm ấy là một ngày giữa đông, 11 tháng 11 năm Mậu Thân 1788.