← Quay lại trang sách

PHẦN III

3. Còn hơn một tháng nữa mới đến tiết đông chí, nhưng trời Thăng Long rét đậm, lại có mưa phùn, người ta chỉ trông thấy những chiếc bóng mờ nhạt như bóng ma lom khom, co ro trong những chiếc áo tơi lá cọ cũ nát trên những con đường vắng ngắt, thỉnh thoảng mới thấy những toán quân Thanh tay cầm giáo dài đi tuần.

Hôm sau, Chiêu Thống thân hành đến doanh đón Nghị. Nghị sai người bày biện nghi trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên để làm lễ phong vương cho Chiêu Thống, truyền tất cả quan chức nhà Lê tới hầu. Vua Lê mặc áo cổn đội mũ miện quỳ ở giữa sân, Nghị tuyên đọc sắc chỉ của hoàng đế nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương. Sau lễ thụ phong, vua Lê, theo thông lệ, phải dâng biểu, ngửa mặt xa trông về cửa khuyết nơi bắc phương mà lạy tạ.

Tuy rằng từ đây Chiêu Thống là vua nước Nam, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi đều dùng niên hiệu Càn Long. Ngày ngày, sau buổi chầu, Chiêu Thống chẳng còn võng lọng gì nữa, chỉ cỡi ngựa cùng Lê Quýnh và mươi tên quân hầu, tới chầu ở doanh Nghị để nghe truyền việc nước, việc quân. Nghị thì ngông nghênh, tự cho mình là tôn quý, có khi vua tới yết kiến, hắn không thèm tiếp, cho quận lính đuổi về. Người trong kinh có thấy cũng không biết là vua, nếu có người biết thì cũng chỉ dám xầm xì to nhỏ với nhau rằng:

“ Nước Nam ta từ khi có đế, có vương, chưa thấy có ông vua nào luồn cúi đê hèn đến thế.”. Riêng đám quan lại nhà Lê, trước kia phiêu bạt khắp nơi, nay lục tục kéo đến lạy mừng, vua đều phong chức tước: cho Lê Duy Đán, Vũ Trinh làm tham mưu chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự, Trần Danh Án làm phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quý Thích làm độ chi bộ hộ, Lê xuân Hạp, Ngô Vi Quý làm đồng tri binh chính, Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ lại, Nguyễn Huy Túc làm bình chương sự, đặc biệt Lê Quýnh làm quân trung úy đốc, tước quận công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc quân *. Cả quần thần nhà Lê bấy giờ như một đám bèo trên sông, tán tụ tùy theo con nước, giờ đây lại càng thể hiện tính giá áo túi cơm, theo vua tìm miếng đỉnh chung, quả là đất nước thời mạt vận.

Quân Thanh ngày càng lộng hành, ra đường nghênh ngang say sưa, cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, nhưng nếu có ai dám nói động đến uy danh của Tôn tướng quân, hay của thiên triều, hoặc trình báo lên quan nhà Lê những điều uất ức, thì lập tức bị chính vua Lê ra lệnh bẻ răng rút lưỡi, tống vào ngục, cho nên không ai dám hé môi, kinh thành như bãi tha ma, chó không dám sủa, gà không dám gáy, chỉ còn vật vờ bóng lũ quan họ Lê và đám kiêu binh nhà Thanh bạo ngược.

Trong đám quan lại của Lê triều có phó hiến trấn Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào, lấy cớ già ốm, xin cho lui về vườn, nhưng còn dâng sớ xin vua gấp rút đem quân tấn công quân Tây Sơn trong khi Sở và Lân còn trơ vơ ở Tam Điệp. Vua Lê và các quan cho là phải, nhưng Lê Quýnh bác đi và đem việc tâu với Nghị, hắn trả lời:

- “ Việc gì mà các ông vội vã thế? Nay, ví như thò tay lấy đồ vật trong túi, đến sớm thì lấy sớm, đến muộn thì lấy muộn đấy thôi. Giặc gầy mà ta béo, hãy để cho chúng tự đến nộp thịt.”

Đã gần hai tháng, từ ngày Nghị đặt chân lên mảnh đất “ Nước Nam vua Nam ở” ngót ngàn năm, nhờ sự quì gối đốn mạt của Chiêu Thống, viên tổng đốc lưỡng Quảng và các tướng Thanh còn ngất ngây trong mùi chiến thắng, ngày đêm say sưa hoan lạc trong tửu sắc, ngày nào Lê Quýnh cũng đòi vua Lê dâng gái đẹp rượu ngon cho Nghị và bọn tùy tướng, còn bọn lính Thanh thì mặc sức lùng sục kiếm gái trong tận hang cùng ngõ hẻm của Thăng Long thành, khiến nhà nhà đều phải đưa đàn bà con gái đi lánh nạn nơi khác.