← Quay lại trang sách

CHÚ THÍCH

(*) 6 vua đó là: Trần Thái Tông (1226 - 1258), Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Nhân Tông (1279 - 1293), Trần Anh Tông (1293 - 1314), Trần Minh Tông (1314- 1329), Trần Hiến Tông (1329 - 1341).

(*) 5 vua đó là: Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), Trần Duệ Tông (1372 - 1377), Trần Phế Đế (1377 - 1388), Trần Thuận Tông (1388 - 1398), Trần Thiếu Đế (1398 - 1400).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, Tập II, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích, Hà Văn Tấn hiệu đính, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, trang 100.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 132.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 143. Trong khi trước đó, năm 1299, đời vua Anh Tông (ông nội của vua Dụ Tông), chỉ vì vua lỡ uông rượu, ngủ say mà suýt bị Thượng hoàng Nhân Tông truất ngôi (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 76 - 77).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 144.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 141. Trong khi năm 1296, quan Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì đánh bạc mà bị vua Anh Tông ra lệnh đánh chết (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 74).

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tập VI, Tổ biên dịch nghiên cứu Văn Sử Địa biên dịch và chú giải, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958, trang 614.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 146.

(*) Nhật Lễ là con của một người kép hát tên Dương Khương. Vợ Dương Khương khi làm đào đóng vai Vương Mầu diễn vở “Vương Mau hiến bàn đào”, tuy đang có thai song nhờ khéo hóa trang nên rất xinh đẹp và hát hay khiến cho Cung Túc Đại vương Dục (con vua Minh Tông và Hiến Từ Hoàng Thái hậu - anh vua Dụ Tông) mê đắm, liền lấy làm vợ. Sau đó, vợ Dương Khương đẻ ra Nhật Lễ và Cung Túc Đại vương Dục nhận Nhật Lễ làm con nuôi của mình.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 149.

(*) Dương Nhật Lễ vốn là rể của Nghệ Tông. Sau khi lên ngôi, Nhật Lê đã lập con gái của Nghệ Tông làm Hoàng hậu.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, hang 620.

(*) “Kẻ ăn thịt” ở đây chỉ người làm quan.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 157.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 161.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 161.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 164.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 138.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 152.

(*) VIỆT NAM CỔ VĂN HỌC sử, Nguyễn Đổng Chi, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, trang 205 - 206.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 183.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 184.

(*) Linh Đức Vương là tước hiệu của Đế Hiện sau khi vua bị Thượng hoàng Nghệ Tông truất ngôi (việc xảy ra ngày mồng 6 tháng chạp năm Mậu Thìn tức 3-1-1389).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 67.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 125.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, trang 166.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 181.

(*) Đại Việt sử kỷ toàn thư có chép sự kiện vào năm Ất Dậu (1405) “Quý Ly thấy mình tuổi đã 70” nên nhiều nhà nghiên cứu suy đoán ông sinh vào năm 1335. (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.)

(*) Ngu Thuấn là vua cuối thời Ngũ Đế bên Trung Quốc, nổi tiếng là đấng minh quân. Sau khi lên ngôi, Quý Ly đổi họ lại là Hồ (Hồ Quý Ly), đặt quốc hiệu là Đại Ngu (ĐẠI VIỆT sử KY TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 199). VIỆT SỬ TIÊU ÁN của Ngô Thì Sĩ cũng chép: “Quý Ly viện dẫn mình là con cháu Hồ Công Mân, tế vua Ngu Thuấn, tự gọi là ông tổ nhà mình, nên lấy quốc hiệu là Đại Ngu” (bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc văn hóa Á châu, Văn hóa Á châu xuất bản, Sài Gòn, 1960, trang 276). Để thống nhất cách gọi, chúng tôi thường dùng họ tên “Hồ Quý Ly” chung cho cả hai giai đoạn.

Theo HỒ GIA HỢP TỘC PHẢ KÝ thì Hồ Hưng Dật đã đậu Trạng nguyên, từ đất Chiết Giang sang nước ta vào thời vua Ẩn Đế nhà Hậu Hán (947 - 950) thời Ngũ Đại bên Trung Quốc, tức là vào thời Hậu Ngô (Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn) ở nước ta.

(Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH sử số 5 (264) năm 1992, bài Nguồn gốc Hồ Quý Ly và dòng họ Hồ của Trần Bá Chí, trang 13).

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG Mực, Tập VI, Sđd, trang 623.

Trong VIỆT SỬ TIÊU ÁN, Ngô Thì Sĩ viết: Hồ Hưng Dật, người đời Hậu Hán, có cháu 12 đời là Hồ Liêm dời đến làng Đại Lại, trấn Thanh Hóa, làm con nuôi Lê Huấn, nên mới đổi ra họ Lê (Sđd, trang 275).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, bản dịch của Cao Huy Giu, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, trang 224. VIỆT SỬ TIÊU ÁN, Sđd, trang 275.

Về chi tiết này, ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, bản dịch của Hoàng Văn Lâu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, lại ghị: “Quý Ly là cháu bốn đời của Huấn”. (Tập II, Sđd, trang 195). Còn VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỰC thì chỉ ghi: “Quý Ly là cháu bốn đời”. (Tập VI, Sđd, trang 623).

(*) VIỆT SỬ TIÊU ÁN, Sđd, trang 275.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 195 ghi “sang làm Thái thú Diễn Châu”...] ở Diễn Châu, sau làm nhà ở tại hương (làng) Bào Đột(2) [(2) Địa danh Bào Đột nay thuộc xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Còn hương Bào Đột thời xưa có thể gồm cả phần đất của các xã Bào Ngọc, Bào Đột, Bào An, Bào Trung, Bào Diễm thuộc tổng Hoàn Hậu, huyện Huỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Tạp chí NGHIÊN CỨƯ LỊCH sử số 5 (264) năm 1992, bài Nguồn gốc Hồ Quý Ly và dòng họ Hồ của Trần Bá Chí, trang 18).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 155.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 623. (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 117 lại ghi bà Minh Từ Hoàng thái phi Lê Thị cũng là mẹ sinh của vua Trần Hiến Tông. Như vậy, người em là bà Minh Từ sinh ra hai vua Hiến Tông và Nghệ Tông, người chị là bà Đôn Từ sinh ra vua Duệ Tông).

(*) Đế Hiện (Trần Phế Đế) là cháu gọi Thượng hoàng Nghệ Tông là bác, đồng thời là rể của Thượng hoàng.

(*) Theo Chiếu tháng 3 năm Canh Tuất (1250) đời vua Trần Thái Tông, mọi người phải gọi vua là “Quan gia”.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 174.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 187.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 187.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 177.

(*) Bằng là chung việc, đảng là chung phe; Bằng đảng là nhiều người kết thân lại cùng một phe, một bè với nhau.

Theo bài Bằng đảng luận của Âu Dương Tu thì từ xưa đã có... bằng đảng do “quân tử cùng với quân tử vì đồng đạo mà kết bạn với nhau; tiểu nhân cùng với tiểu nhân vì đồng lợi mà kết bạn với nhau, ấy là lẽ tự nhiên vậy. Song tôi nghĩ rằng tiểu nhân không có bằng đảng, chỉ quân tử mới có (...). Thời vua Trụ, ức vạn người mà mỗi người một bụng đủ rõ là không bằng đàng; bày tôi vua Võ Vương có 3.000 người, kết làm một bè lớn, nhà Châu bởi đó mà hưng thịnh”.

(VIỆT HÁN VĂN KHẢO, Phan Kế Bính, Mặc Lâm xb, Sài Gòn, 1970, trang 80).

Do sự kiện xảy ra vào năm 1389, Hồ Quý Ly gièm pha giết Nguyên Đa Phương vốn là người cùng bằng đảng với mình, nên Việt sử thông giám cương mục có lời phê rằng: “Chỉ có người quân tử mới có bằng đảng”, câu nói ấy thật đúng. (VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 652).

(*) Nguyễn Đa Phương là con của Sư Tề. Sư Tề là thầy dạy võ nghệ của Quý Ly nên Quý Ly đã nhận Đa Phương làm em. Lúc này, Đa Phương và Cự Luận là hai người bày giúp mưu kế cho Quý Ly. (ĐẠI VIỆT SỬ KY TOAN THƯ, Tập II, Sđd, trang 166.)

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 177.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 192.

(*) Trong số này, có người trước đó đã được Quý Ly cất nhắc, trọng dụng như Thái bảo Trần Hàng, Hành khiển Hà Đức Lân; Phạm Khả Vĩnh là người đã từng giữ chức Xa kỵ vệ Thượng tướng quân, theo lệnh của Quý Ly thắt cổ giết vua Thuận Tông vào tháng 4-1399... Sự kiện này lại cho thấy tình hình chính trị thời ấy hết sức phức tạp, cũng có thể đó là do cách xử sự của Quý Ly trong việc cân bằng lực lượng giữa các thế lực chính trị...

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 196.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 173.

(*) VỆT SỬ TIÊU ÁN, Sđd, trang 270.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 669 - 670.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 113.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 581.

(*) Lúc này, vua Thiếu Đế (cháu ngoại của Quý Ly) mới 5 tuổi, còn Thuận Tông (con rể của Quý Ly) đã bị cưỡng bức thắt cổ chết.

(*) Sách sử không ghi chính xác ngày sinh, ngày chết của Quý Ly, song được biết năm đó Quý Ly khoảng 65 tuổi (sinh vào khoảng năm 1335).

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG Mực, Tập VII? Sđd, trang 676. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 199 cũng chép chi tiết như vậy.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 192.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 22, 77, 187, 204.

(*) Hồ Quý Ly còn có người con trưởng tên Hồ Nguyên Trừng, dưới thời nhà Trần, từ năm 1394 đã làm chức Phan tư sự - một quan chuyên việc xét đoán ngục tụng ở Thượng lâm tự; năm 1399 giữ chức Tư đồ và trong vương triều Hồ, Nguyên Trừng làm Tả tướng quốc.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tạp II, Sđd, trang 203.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 681 - 682.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189. VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 666.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 198.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 212.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 198.

(*) Trong Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, đối với tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội (Điều 80), tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 94), các hành vi phạm tội cũng bị xử lý nghiêm khắc, hình phạt có thể đến mức tù chung thân hoặc tử hình mặc dù trong trường hợp này đối tượng mà tội phạm tác động vào có khi giá trị không lớn (như trộm cãp dây tài điện, dây điện thoại; phương tiện, thiết bị bảo đảm việc tưới, tiêu nước cho đồng ruộng v.v...).

(*) Lịch triều hiến chương loại chỉ (Quan chức chí) ghi đời Trần có “lục bộ” nhưng không biết thực sự đã có đủ 6 bộ chưa và các bộ đó cụ thể là bộ gì, chỉ thấy có chi tiết ghi bổ dụng người phụ trách Thượng thư bộ Lại, bộ Binh, bộ Hình... LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập II, trang 446, 466.

(*) Phương sĩ là người chuyên chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu.

(*) Chức “Quảng tế thự thừa” (chép trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206) được VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 733 chép là chức “Tá nhị”.

(*) Tháng 6 - 1399, Lê Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng, Lê Hán Thương làm Nhiếp Thái phó, sau lên ngôi vua nhà Hồ; Lê Nguyên Trừng là con cả của Lê Quý Ly làm Tư đồ, sau là Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng.

(*) LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập I, Sđd, trang 446.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 234.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 254.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 272.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 25.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 85.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 87.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 188.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189.

(*) Năm 1404, vua Hán Thương lại ra lệnh cho các quan viên không được đi hia, chỉ cho đi giày tơ gai sống. Việc này cũng phỏng theo lệ cũ của đời trước: quan từ lục phẩm trở lên mới được đi hia. (ĐẠI VIỆT sủ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 208).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 191.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG Mực, Tập VII, Sđd, trang 668.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 192.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 669.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 200. VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 676.

(*) Sử cũ chép từ đời Trần Minh Tông (1325), đã đặt cơ quan Liêm phỏng ty ở địa phương nhưng không ghi rõ để làm việc gì. Cụ thể như: - ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 110 chép: “Ất Sửu, năm thứ 2 (1325) (Nguyên Thái Định năm thứ 2). Mùa xuân, đặt ty Liêm phỏng ở các lộ. Lấy Đặng Lộ làm Liêm phỏng sứ hai lộ Đại Hoàng và An Tiêm” - VIỆT sủ THONG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 578 chép: “Ất Sửu, năm thứ 2 (1325) (Nguyên, năm Thái Định năm thứ 2). Mùa xuân, đặt chức Liêm phỏng sứ ở các lộ” - LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập I, Sđd, trang 445 chép: “Minh Tông, năm Khai Thái thứ 2 (1325), đôi Hành khiển ty làm Môn hạ sảnh. Lại đặt Liêm phóng ty ở các châu”.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 191.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 668.

(*) Chữ “hộ tịch” được dùng trong các sách chép vào thời này có nội dung là quản lý hộ khẩu ngày nay.

(*) LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập I, Sđd, trang 479.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 193 - 194.

(*) Ngày nay thuộc địa phận 2 xã Vĩnh Long và Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa).

(*) Xem:

- THÀNH CỔ VIỆT NAM, Đỗ Văn Ninh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983, trang 79 - 80.

- Tạp chí NGHIÊN cứu LỊCH sử số 5 năm 1992 (bài Thành nhà Hồ, nhìn từ góc độ di sản văn hóa của Lưu Trân Tiêu), trang 68 - 70.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 191.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 191.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 192.

(*) Bắt đầu từ đó, thành Thăng Long được gọi là Đông Đô.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ số 30 năm 1961 (bài Một vài ý kiến nhỏ về việc đánh giá vai trò cá nhân Hồ Quý Ly trong lịch sử của Hồ Hữu Phước ), trang 44.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ số 6 năm 1990 (bài Từ Lý cung đến Tây Đô của Lê Tạo ), trang 33.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨƯ LỊCH SỬ số 6 năm 1990 (Bài Di tích lịch sử thành nhà Hồ - một thực trạng đáng lo ngại của Viên Ngọc Lưu ), trang 49.

(*) Từ năm 1390 Chế Ma Nô Đà Nan đã được vua Việt phong cho làm Hiệu chính hầu.

(*) ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM QUA CÁC ĐỜI, Đào Duy Anh , Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1964, trang 98.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 733.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 212.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 197.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 200.

(*) “Thú” là thái thú, “lệnh” là lệnh doãn; “thú lệnh” là gọi chung những chức quan đứng đầu ở phủ, châu hoặc ở huyện. (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 200).

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 659.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 198.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204-205.

(*) Trước đó, Minh Thái Tổ đã đòi Đại Việt cống nạp người bị hoạn, những nhà sư và phụ nữ xoa bóp, ta đã chiều theo ý, đưa nộp cho họ. (ĐẠI VIẸT SƯ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, hang 206 - 207.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 208.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 212.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 208.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 158. về chi tiết này, Việt sử thông giảm cương mục ghi như sau: “Ai cũng phải xăm trán đê làm dấu ghi, như: quân túc vệ thì trán xăm hoa; quân mới đặt thêm thì xăm trán đồ đen. Còn Thiên Trường, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Lâm Bình và Thuận Hóa đều có quân hiệu, đặt Đại đội trưởng và Đại đội phó để cai quản”. (VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 626).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 158.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 159.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 164-165.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 631-632.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 207. VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỰC, Tập VII, Sđd, trang 735.

(*) LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập III, Sđd, trang 10.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 210. VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, trang 737.

(*) QUÂN THỦY TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM, Nguyễn Việt, Vủ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1983, trang 261.

HỒ QUÝ LY, MẠC ĐĂNG DUNG, Lê Văn Hòe, Quốc học thư xã xuất bản, Hà Nội, 1952, trang 8.

(*) TÌM HIỀU CÔNG TÁC HẬU CẦN THỜI XƯA, Nhiều tác giả , Tổng cục Hậu cần xuất bản, Hà Nội, 1977, trang 138 - 139.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ số 5 năm 1992 (Bài Nhìn lại những cải cách quân sự cùa Hồ Quý Ly của Hoàng Phương), trang 57.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 210. VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, trang 736.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 214.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 740.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 733.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 167.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 634.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 182.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 202.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 677.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ số 20 năm 1960 (bài Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly của Trương Hữu Quýnh), trang 51.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 180.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

(*) 10 mẫu ta lúc ấy khoảng gần 4 mẫu tây (hectare).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 192-193. VIỆT sử THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 671.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 193.

(*) Thời Trần, tước Đại vương dành phong cho một số hoàng tử và anh em ruột của vua. Ngoại lệ có vài người khác được phong Đại vương như: Trần Quốc Tuân con của An Sinh vương Trân Liêu (anh em chú bác của vua Trân Thánh Tông) vì có công lao đặc biệt được phong Hưng Đạo Đại vương; Hô Quý Ly là cha vợ của vua Trần Thuận Tông được phong Tuyên Trung vệ quốc Đại vương (1395), 3 năm sau tự gia phong Khâm đức Hưng liệt Đại vương (1398). Tước Trưởng công chúa thường dành phong cho một sô chị em ruột của vua như trường hợp Thiên Ninh Công chúa Ngọc Tha (con của vua Trần Minh Tông) được vua Nghệ Tông phong Lang quốc thái Trưởng công chúa... Đốn khi ban hành chính sách hạn điền, thực tế trong nước còn rất ít người mang tước Đại vương và Trưởng công chúa.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 194.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 673.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 278.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập IV, Sđd, trang 326.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập I, Sđd, trang 284 ( ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ ghi hai sự kiện này cùng xảy ra vào năm 1104).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 91.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 99.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 134.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 202.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 207.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập vn, Sđd, trang 735.

(*) Tập san sử ĐỊA số 19-20, Sài Gòn, 1970 (Bài Nam tiến Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục).

Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thu nhận 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bô Chính (tức vùng Quàng Bình và Bắc Quảng Trị); năm 1306 vua Trân Anh Tông thu nhận châu Ô và châu Lý (tức vùng Nam Quảng Trị và Thừa Thiên); năm 1402 vua Hồ Hán Thương thu nhận đất Chiêm Động và cổ Lũy (tức Quảng Nam và Quảng Ngãi).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 731.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 208.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 202.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 198.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 198.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 207.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 207.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 732.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 202.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 202.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG Mực, Tập VII, Sđd, trang 680.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 209.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 736.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 203.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 681.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.

(*) Đọc TIỀN CỔ VỆT NAM, Đỗ Văn Ninh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189.

(*) TIỀN CỒ VIỆT NAM, Sđd, trang 62.

(*) LỊCH SỬ VIỆT NAM, Đào Duy Anh, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958, trang 466.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 301.

(*) LỊCH TRIỀU HIỀN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập II, Sđd, trang 240.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 203 - 204.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tập VII, Sđd, trang 682) chép như sau: “Qui định lại phép đánh thuế tô và thuế dung. Trước kia, về triều nhà Trần, tư điền của dân cứ mỗi mẫu thu thóc 3 thăng; đất bãi trồng dâu, mỗi mẫu thu tiền 9 quan hoặc 7 quan. Đinh nam mỗi năm nộp tiền 3 quan. Đến nay Hán Thương thay đổi lại để cho thi hành: mỗi mẫu ruộng thu thóc 5 thăng; đất bãi trồng dâu chia ra 3 bậc: bậc cao nhất mỗi mẫu thu 5 quan, bậc trung bình mỗi mẫu 4 quan, bậc thấp nhất mỗi mẫu 3 quan. Thuế đinh nam thì căn cứ vào số ruộng để đánh thuê: người có ruộng từ 2 mâu 6 sào trở lên thu tiền 3 quan; người nào ruộng kém số ấy sẽ được giảm bớt dần; người không có ruộng cùng trẻ mồ côi và đàn bà góa mà có ruộng đêu được miễn thuế dung”.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tập VII, Sđd, trang 678) chép như sau: “Đánh thuế thuyền buôn. Chia các thuyền buôn làm 3 hạng: thượng đẳng, trung đẳng và hạ đẳng. Thượng đẳng mỗi chân chèo nộp thuế 5 quan, trung đẳng 4 quan, hạ đẳng 3 quan”.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 19.

LỊCH TRIỀU HIỂN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập II, Sđd, trang 227.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 165.

LỊCH TRIỀU HIỂN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập n, Sđd, trang 227.

(*) Về đối tượng này, sử cũ chép không rõ và không giống nhau. ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ chép: “Đinh nam không có ruộng (...) (Tập II, Sđd, 204); Việt sử thông giám cương mục chép: “Người không có ruộng (...)” (Tập VII, Sđd, trang 682); Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Đinh nam người nào không có ruộng đất (...)” (Tập II, Sđd, trang 227). Ở đây, chúng tôi hiểu đối tượng thụ thuế là bất cứ người nào không có ruộng đất, kê cả nam lẫn nữ.

(*) Cần lưu ý: nhà Hồ thu thuế bằng tiền giấy mà 1 quan tiền đồng cũ được đổi ra 1 quan 2 tiền giấy, như vậy sự thay đổi mức thuế trong thực tế cũng phải quy đổi giá trị tiền tệ theo tỷ lệ ấy thì mới có sự so sánh chính xác.

(*) Có người hiểu “Minh đạo” nghĩa là “Con đường sáng”.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 659.

(*) (la) (lb) (lc) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 659.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, trang 660.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 185.

(*) Quốc ngữ Thi nghĩa nghĩa là giải thích Kinh Thi bằng chữ quốc ngữ (chữ Nôm).

(*) CUỘC TIẾN HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM, Kiều Thanh Quế, Hoa Tiên xb., Sài Gòn, 1969, trang 110.

(*) Hàn Thuyên còn gọi là Nguyễn Thuyên, giữ chức Công bộ Thượng thư đời Trần Thái Tông (1225 - 1258), là người có tài làm thơ Nôm.

(*) Nguyên Sĩ cố giữ chức Thiện chương các học sĩ đời Trần Thánh Tông (1258 - 1278), phụ trách giảng giải ngũ kinh dưới đời Trân Anh Tông (1293 - 1313) và sang đời Trần Minh Tông (1314 - 1329) làm Hàn lâm viện thị độc học sĩ.

(*) Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng Hồ Quý Ly đã sử dụng chữ Nôm để viết sắc, chiếu... là các hình thức văn bản chính thức của Nhà nước. Cụ thể như:

- Hồ Hữu Tường (trong Lịch sử văn chương Việt Nam, Nxb. Lê Lợi, Paris, 1949, trang 18) viết: “Hồ Quý Ly là ông tổ xướng ra chủ trương người Việt Nam dừng tiếng Việt Nam trong mọi ngành hoạt động của mình. Hồ Quý Ly lúc được Nghệ Tông ban cho gưom và cờ thì làm thơ Nôm tạ ơn; lúc ở ngôi thì dùng chữ Nôm mà làm sắc, chiếu ban biểu ra trong dân, dịch kinh sách của Tàu để dạy học”.

- Thanh Lãng (trong Văn học sử Việt Nam: Văn chương chữ Nôm, Phong trào Văn hóạ xuất bản, Hà Nội, 1953, trang 26) viết: “Ông (tức Quý Ly) là người đầu tiên đem dùng văn quốc âm làm sắc, chiếu ban cho quốc dân”.

- Minh Tranh (trong Sơ thảo lược sử Việt Nam, Tập II, Ban nghiên cứu Văn Sử Địa xuất bản, Hà Nội, 1955, trang 59 - 60) viết: “Cho đến cà sắc, chiếu triều đình gửi đi các lộ, Hồ Quý Ly cũng ra lệnh phải dùng chữ Nôm” (trang 59); “Việc dùng chữ Nôm trong các vãn kiện chính thức cũng như sự phát triển của phong trào chữ Nôm cũng xác nhận sự trưởng thành của ý thức dân tộc Việt Nam trong thế kỷ thứ XV” (trang 60).

- Quốc Ấn (trong Hồ Quý Ly, Sài Gòn, 1974, trang 185) viết: “Năm Canh Thìn (1400) khi đã thoán ngôi nhà Trần, Quý Ly viết thủ chiếu bằng chữ Nôm để phủ ủy nhân dân”.

Đây là sự kiện quan trọng trong quá trinh phát triển chế độ công vụ và văn học sử nước ta, song đến nay chúng tôi vẫn chưa xác minh được nguồn gốc các sử liệu ấy. Trong ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ và Việt sử thông giám cương mục là hai bộ cổ sử căn bản của nước ta đêu không thây ghi chi tiết như nói trên.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 190.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 203.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 670.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ số 20 năm 1960 (bài Đánh giá lại vấn đề cải cách của Hồ Quý Ly của Trương Hữu Quýnh), trang 53.

(*) Tạp chí NGHIÊN CỨU LỊCH sử số 22 năm 1961 (bài Đánh giá vai trò Hồ Quý Ly thế nào cho đúng của Dương Minh), trang 65.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 670.

(*) Qua khoa thi này, Nguyễn Trãi đã đỗ Hoàng giáp (Tiến sĩ xuất thân).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 189.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 666.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 207.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 734. LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ, Tập II, Sđd, trang 155.

(*) Thi Hương là kỳ thi Cử nhân, lấy những người để sau bổ ra làm quan. Thực tế hai môn thi viết và toán đã từng được áp dụng vào đầu thời Trần, trong kỳ thi lại viên năm 1261, để chọn các thuộc lại làm việc ờ các sảnh, viện... chuyên tính toán sưu thuế, phu dịch, viết chép các sổ bộ cho Nhà nước. (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập n, Sđd, trang 32). Kỳ thi lại viên vào tháng 2 năm Đinh Tỵ (1077) dưới thời nhà Lý, cũng đã có thi môn toán (phép thi gồm 3 môn: viết chữ; phép tính và hình luật). (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 280).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC chép chi tiết có khác như sau: “Quan nô (...) của quan nhất phẩm hay nhị phẩm đều ghi một khoanh đen; của quan tam phẩm trở xuống ghi hai khoanh đen” (Tập VII, Sđd, trang 679).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

(*) Để thấy rõ giá trị 5 quan tiền lúc đó, có thể so sánh với sự kiện tháng 6 năm Giáp Dần (1254), Nhà nước Trần đã bán mỗi mẫu (diện) ruộng công (quan điền) với giá 5 quan tiền cho dân mua làm ruộng tư... Cuối năm Canh Dân (1290), bị nạn đoi, giá 3 thăng thóc là 1 quan tiền; dân nhiều người phải bán con làm nô tỳ, giá mỗi người 1 quan tiền... 1 quan tiền đồng lúc ây sau đôi được 1,2 quan tiền giấy nhà Hồ... (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 25, 189).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 188.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 666.

(*) Cần lưu ý, Nhà nước lúc này đang cần thanh niên đi lính để chống quân Chiêm Thành quấy nhiễu và quân Minh chuẩn bị xâm lược nước ta. Năm 1381, nhà Trần đã có lần tuyển lựa những nhà sư khỏe mạnh làm lính đi đánh Chiêm. (VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VI, Sđd, trang 633).

(*) Người có tài khéo.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 206.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 208.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.

(*) VIỆT NAM SỬ LƯỢC, Quyển I, Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1971, trang 197.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 194.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 731.

(*) J.J. Rousseau

(*) SƠ THẢO LỊCH SỬ PHÁT TRIỀN THỦ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM, Phan Gia Bền, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, trang 32.

(*) ĐẠI VỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 204.

(*) Linh Đức vương là tước hiệu của Trần Phế Đe sau khi bị truất ngôi.

(*) Trong Việt Nam phong sử (của Nguyễn Văn Mại, bản dịch của Tạ Quang Phát, Sài Gòn, 1972, trang 164) có chép việc Lê Lợi không chịu ra giúp nhà Hồ dù lúc đó Lê Lợi đã có sẵn lực lượng trong tay và Hồ Quý Ly nồ lực tìm người tài ra cộng tác chống quân Minh. Trong Hoàng Việt xuân thu (Vô danh thị, bản dịch của Nguyễn Hữu Quỳ, Sài Gòn, 1971, trang 63 - 64) cũng có kể chuyện Hồ Quý Ly mời triệu Lê Lợi nhưng Lê Lợi bỏ trốn vào rừng. Biết việc ấy, Quý Ly giận nói: “Trẫm biết tên thôn phu này có danh không thực, dám làm cho Trẫm phải khuất giá thân tới, tội đáng chém cả họ”. Tức thời hạ chiếu cho các quận, huyện truy bắt giải nạp... Sau đó Lê Lợi treo bảng chiêu mộ quân lính, vì thiên hạ đều chán nản chính sách độc dữ của họ Hồ, nên chưa đầy 3 ngày mà người tới theo Lê Lợi đã được tám ngàn. Người giàu thì giúp của, người mạnh thì giúp sức...

(*) VIỆT NAM PHONG sử, Sđd, trang 150, 151.

(*) Người trung thực.

(*) Mọt nước.

(*) TRUYỆN TRINH THỬ, Hồ Huyền Qui, Ưu Thiên Bùi Kỷ hiệu đính, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1950, trang 36.

(*) NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, trang 197.

(*) NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP, Sđd, trang 130.

(*) NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP, Sđd, trang 139.

(*) BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO.

(*) Minh Thành Tổ (1402 - 1424) là vua thứ ba của triều Minh, con của vua Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (1368 - 1398). Sau khi Minh Thái Tổ mất, Hoàng thúc Yên vương Chu Lệ giành ngôi của cháu là Minh Huệ đế (1398 - 1402), khởi binh đánh lấy Kim Lăng rồi cướp ngôi vua, đóng đô ở Yên Kinh (Bắc Kinh) tức Minh Thành Tổ... Minh Thái Tổ - người sáng lập triều Minh, có hiệu là Ngô vương nên sau này khi viết bố cáo hoàn thành công cuộc chống quân Minh cho thiên hạ biết, Nguyễn Trãi đã soạn “Bình Ngô đại cáo”.

(*) VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, trang 738.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211 chép: “đem 10 vạn quân ở Quảng Tây”.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.

VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC, Tập VII, Sđd, trang 739 chép: “Hán Thương sai chém Thiêm Bình”.

(*) Trong thời gian còn nắm giữ binh quyền nhà Trần, 5 lần Quý Ly cầm binh đi đánh Chiêm Thành (vào các năm 1376,1380,1383,1389 và 1391) đã bại hết 4 lần!

(*) KỶ NIỆM 600 NĂM NGÀY SINH NGUYỄN TRÃI, Nhiều tác giả (Diễn văn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Thủ tướng Chính phủ), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982, trang 22.

(*) Lời Trần Hưng Đạo trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông vào thế kỷ XIII.

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 201.

(*) Lời Nguyễn Trãi (NGUYỄN TRÃI TOÀN TẬP, Sđd, trang 130). Lưu ý thêm: Lúc đầu kháng chiến chống giặc Minh, quân của Bình Định vương Lê Lợi chỉ có mấy trăm người; đến khi thắng lợi (1427) có 35 vạn (Đại Việt sử kỷ toàn thư, Tập II, Sđd, trang 269).

(*) ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 211.

(*) “Ky Lê” là do chữ “Kỳ La” đọc chệch ra để diễn nghĩa là “trói họ Lê”; “Thiên cầm” có nghĩa gốc là “đàn trời” nhưng ở đây diễn nghĩa là “trời bắt”. Ông lão không muốn họ Hồ lưu lại ở vùng đó nên mới nói chệch đi để đánh lừa... Quý Ly nghe xong, cho ông lão là kẻ bất trung, bất nghĩa, muốn đuổi khéo mình, nên chém chết ông lão, cũng như trước đó Quý Ly đã chém Ngụy Thức vì Ngụy Thức đã khuyên cha con vua Hồ nên tự thiêu để bào toàn danh dự: “Nước đã sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác”... (ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ, Tập II, Sđd, trang 218-219).

(*) Bài đăng báo Thanh Niên từ 10 đến 15-8-2010.

(*) Qua kết quả khảo cổ gần đây, đã phát hiện ra những tiền đồng “Thánh Nguyên thông bảo” đúc vào đời Hồ Quý Ly (1400 - 1401) song những tiền đồng này chỉ có giá trị để chính thức hóa niên hiệu triều vua và đáp ứng một số yêu cầu chi tiêu buộc phải dùng tiền đúc, ví như ngoại thương chẳng hạn. (TIỀN CỔ VIỆT NAM, Sđd, từ trang 63 đến 66). Một số nhà nghiên cứu lại có ý kiến khác cho rằng ngay từ năm 1400, họ Hồ đã cho đúc lại các loại tiền đồng và hai thứ tiền giấy, tiền đồng lúc ấy vẫn được lưu hành song song. (LỊCH SỬ VIỆT NAM, Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh, Quyển 1, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1976, trang 248; LỊCH SƯ VIỆT NAM, Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, Tập I, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh ấn hành, 1993, trang 137).

(*) Theo các bộ sử cũ (Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều hiến chương loại chí), trước thời nhà Hồ, chỉ đinh nam mới phải nộp thuế đinh (dung); nhưng đến chế độ thuế đinh của nhà Hồ thì người nào có ruộng cũng phải nộp sắc thuế này; còn trẻ mồ côi và đàn bà góa dù có ruộng cũng được miễn. Như vậy phải chăng dưới thời nhà Hồ, trẻ em còn cha mẹ, đàn bà không góa chồng cũng phải nộp thuế đinh (chứ không phải chỉ “đinh nam” như các triều trước)? Và như vậy, phải chăng trong chính sách cải cách thuế của Hồ Quý Ly, diện người nộp thuế đinh đã mở rộng thêm, bao gồm cả trẻ em và phụ nữ, nhưng có sự chiếu cố đối với một số người thuộc diện chính sách như: người nghèo (không có ruộng), cô nhi, quả phụ?

ebook©vctvegroup

Scan & Pdf: @Nhantinh, @V/C

Ocr: @quandeptrai

Solo text: @Tuyết Nhung

Đóng gói: @Trúc Quỳnh Đặng

14/08/2019