BÀI ĐỌC THÊM HÀNH TRÌNH TÌM MỘ HỒ QUÝ LY(*)
.
• GIAO HƯỞNG
TỪ NHỮNG GIẤC MỘNG LẠHồ Quý Ly là vị vua đầu tiên của nhà Hồ, một nhân vật với những cài cách táo bạo hồi thế kỷ XIV. Đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về ông, song điều mà tất cả đều rõ: Hồ Quý Ly là người dấn thân vào chính trường suốt hơn 30 năm và quyết liệt chống quân Minh xâm lược. Cuối đời ông bị giặc bắt giải về Trung Quốc và mất bên ấy, chưa rõ được chôn nơi nào...
Mộ ông ở đâu? Và mộ hàng nghìn người Việt Nam yêu nước phải sống xa xứ và bị đày chết bên Trung Quốc cùng Hồ Quý Ly thời ấy nay đâu? Câu hỏi nhức nhối đó từng thôi thúc các nhà sử học và khảo cổ học ở nước ta đề tâm tìm kiếm. Trong đó có Giáo sư Trần Văn Giáp (đã mất) và nhà Khảo cổ học lão thành Đỗ Đình Truật (nay đã 80 tuổi, hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh).
Hai vị (Trần Văn Giáp và Đỗ Đình Truật - NV) đã gặp nhau tại Quảng Tây (Trung Quốc) vào cuối thập niên 1950, cùng đi tìm dấu vết của mộ Hồ Quý Ly và tìm hiểu về đời sống của hậu duệ họ Hồ tại đó sau cuộc lưu đày. Vì theo sử liệu của nhà Minh, Hồ Quý Ly đã mất tại Quảng Tây (cùng một số thân thuộc họ Hồ). Lúc gặp nhau để cùng tìm đến các địa điểm nghi vẫn có mộ Hồ Quý Ly và con cháu họ Hồ thì Giáo sư Trần Văn Giáp đã là một nhà nghiên cứu sử học, ngôn ngữ học và dân tộc học nổi tiếng ở Việt Nam, tuổi đã hơn 60 (sinh năm 1898). Còn nhà Khảo cổ học Đỗ Đình Truật 30 tuổi, được cử sang du học ở Trung Quốc. Họ đi khắp các địa phương, đến cả Dinh Tổng đốc Lưỡng Quảng, tìm hiểu tàng thư cổ của Việt Nam ở Côn Minh - Vân Nam, xem xét nghiên cứu kỹ các tài liệu, các bản đồ sưu tập được. Công việc có thuận lợi vì lúc bấy giờ Giáo sư Trần Vần Giáp đang làm việc tại các thư viện lớn ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Quế Lâm, nhất là vùng Quảng Tây...
Dựa trên tài liệu truy cứu từ các thư viện trên, hai ông Trần Văn Giáp và Đỗ Đình Truật đã đến tận những nơi cẩn thiết để dò xem dấu vết mộ Hồ Quý Ly cùng những người Việt bị lưu đày và chết chôn ở đó. Nhưng cuối cùng, hai ông có được kết luận bất ngờ (khác với những khẳng định trước kia) rằng: thông tin Hồ Quý Ly cùng các bộ tướng, thân quyến bị bắt đày đi lính và mất ở Quảng Tây là không đúng! Vậy thì mộ Hồ Quý Ly ở đâu?
Hai vị lại tiếp tục nghiên cứu tìm kiếm. Đến năm 1962, ông Đỗ Đình Truật phải về nước để chuẩn bị tham gia cuộc khai quật lớn đầu tiên tại Việt Nam (và phát hiện những hóa thạch trên vùng Lạng Sơn). Những năm sau đó, mặc dù tất bật, ông vẫn cất công tổng hợp tất cả các tài liệu về Hồ Quý Ly trên đất Trung Quốc, trao đổi và hỏi ý kiến giáo sư Trần Văn Giáp để chọn lọc tài liệu, đối chiếu các bản đồ có trong tay ở nhiều vùng mộ chí của các dân lưu đày trên đất khách. Ông vào Thanh Hóa, về thành Tây Giai - thành nhà, ráp nối các điểm có thể liên quan đến dẫu vết của con cháu nhà Hồ còn sót lại, như Quý Công - cháu Hồ Quý Ly - trốn thoát vào đất Quảng Ngãi và có miếu thờ ở tỉnh Quảng Nam. Ông đến Sơn lình (Quảng Ngãi) tìm hiểu, ghi chép những nội dung cần thiết di mộ của Võ tướng Đỗ Đình Hầu, người có công với nhà Hồ trong công cuộc chinh phạt quân Chiêm Thành (Chiêm Thành lúc ấy âm thầm cấu kết với nhà Minh để tạo thế gọng kìm âm mưu vây bức đất Việt). Sau ngày Giáo sư Trần Văn Giáp qua đời năm 1973, ông Đỗ Đình Truật dẩn dẫn tìm thấy ánh sáng le lói qua các dấu vết và thông tin sử học từ nhiều nhà nghiên cứu có uy tín khác. Trong các thông tin đó, ông “chấm dấu đỏ” vào một địa danh đáng chú ý nhất trên đường tìm kiếm: núi Lão Hổ Sơn nằm trên địa bàn thôn Kim Lăng, thuộc thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô. Theo ông đoán định, đó là nơi có mộ của Hồ Quý Ly và gia tộc họ sau cơn quốc nạn.
Từ đó, ông mong sao đến tận Nam Kinh tham cứu thực địa. Nhưng mãi sau năm 1975, lúc đã vào Nam để tiến hành các cuộc khai quật khảo cổ học mới, ông vẫn chưa có cơ hội thực hiện. Đến đầu thập niên 1990, ông được cộng tác với nhiều người cùng chung chí hướng tại Thành phố Hồ Chí Minh, nên dự định đi tìm lăng mộ họ Hồ bên Trung Quốc lại sống dậy mãnh liệt. Nhất là, như ông nói: “Suốt mấy đêm liền tôi không ngủ được, hình như có sức mạnh siêu hình hối thúc tôi lên đường. Tôi linh tính cơ hội đang đến gần. Hễ chợp mắt ngủ được một lát thì có ai đó lay thức dậy, bắt tôi tưởng tượng về một chuyến đi tìm mộ mà tôi chưa đủ điều kiện để sắp đặt. Không ngủ được, tôi lại ngồi dậy lôi tấm bản đổ đã cũ rách vì xem quá nhiều lần ra xem đi xem lại mấy lần nữa, để mắt đến khu vực thành phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô trên bản đồ. Đó là nơi giam giữ tù binh gồm những người Việt Nam yêu nước chống quân Minh xâm lược thuở nào. Tôi nhủ thầm đâu là núi Lão Hổ Sơn, đâu là thôn Kim Lăng, nơi chôn những nắm xương tàn của người Việt bị đày sang và có thể là nơi hoàng đế Hồ Quý Ly an nghỉ. Tôi lại tự hỏi suốt 600 năm qua, những linh hồn xa quê lạc xứ ấy phải chịu cảnh mồ hoang cỏ rậm, ai là người lo hương khói cho họ? Lòng tôi quặn đau cùng cảnh ấy và tôi thề rằng quyết làm sáng tỏ sự việc mặc cho hậu thế hiểu họ sao thì hiểu...”. Không lâu sau những đêm có giấc mơ lặp đi lặp lại về cuộc gặp gỡ với những người lạ mặt, mà nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật đoán là các linh hồn viễn xứ thì ông có được cơ hội để bay đến tận thành phố Nam Kinh vào năm 2004.
ĐẾN VÙNG MỘ TÁNG LÃO HỔ SƠNCách thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô (Trung Quốc) khoảng 20 cây số có một vùng núi âm u, vắng vẻ với các bãi tha ma chập chùng trong cỏ dại, đã trải nhiều thế kỷ mộ táng - đó là vùng Lão Hổ Sơn - nơi nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật và những cộng sự của ông đoán định có mộ cổ của vua Hồ Quý Ly.
Đến nay ông Đỗ Đình Truật cùng tất cả cộng sự vẫn còn nguyên những thao thức chưa nguôi vì tuy đến được nơi đó cách đây 6 năm (vào 2004) nhưng do vướng một số trở ngại, khúc mắc, nên việc khai quật và tìm kiếm vẫn chưa thực hiện thích đáng và rốt ráo được, về việc này, nhà khảo cổ học lão thành Đỗ Đình Truật thay mặt mọi người cùng chung sức trong việc tìm kiếm mộ Hồ Quý Ly tại Trung Quốc đã nói với phóng viên Báo Thanh Niên trong cuộc tiếp xúc gần đây nhất, vào ngày 9-8-2010, như sau:
Tôi đặt chân đến Thành phố Nam Kinh vào một buổi sớm mùa thu. Thành phố này có lịch sử tạo lập ngót 2.400 năm qua, nghĩa là bắt đầu từ năm 333 trước Công nguyên khi vua nước Sở bấy giờ là Sở Uy Vương ra lệnh xây thành Kim Lăng trên đất Nam Kinh ngày nay. Rồi trải qua các đời Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, Nam Đường, cho đến đời Minh có hết thảy 8 vương triều lấy Nam Kinh làm kinh đô. Kinh đô này có nhiều truyền thuyết đầy chất thơ về một loại đá hiếm có tên là đá Vũ Hoa. Đây là loại đá đặc sản của vùng Nam Kinh cổ kính. Người ta kể rằng, xưa kia lâu lắm rồi, có một dạo hoa từ đâu trên trời không biết đã rơi xuống như mưa trên vùng đất Nam Kinh. Những nơi có mưa hoa thì đất ở đó cứng lại thành đá, rất đẹp, trên đá in hẳn hình các bông hoa rơi thân vào đó. Loại đá ấy đã được vua đầu nhà Minh là Chu Nguyên Chương lấy xây thành quách Nam Kinh với quy mô lớn; đến nay tường thành bằn g đá của thời Minh vẫn còn khoảng 20 km và trở thành di tích hiếm quý của Trung Quốc. Chính đá Vũ Hoa ấy cũng có mặt ở lãnh địa Lão Hổ Sơn quanh những ngôi mộ của con cháu họ Hồ bị quân Minh bắt từ nước Việt giải về Nam Kinh thời trước. Nhất là dưới lòng đất đổi Lão Hổ Sơn có thể còn ôm ấp tro tàn của vị vua Hồ Quý Ly từng chống quân Minh xâm lược vào ngót 600 năm trước. Trên chuyến tàu đến Thành phố Nam Kinh vào ban đêm, tôi có thời giờ hỏi thăm cô gái đã đón tôi ở nhà ga Bắc Kinh và được biết tên cô là Thị Thu Vân, sinh viên năm thứ 3 trường Đại học Bắc Kinh. Sở dĩ cô biết tôi đến Bắc Kinh tìm mộ Hồ Quý Ly là do gia đình cô ở Việt Nam thông báo trước, vì thế cô sẵn sàng làm người tình nguyện dẫn đường cho tôi suốt chuyến đi đặc biệt này...
Ông Đỗ Đình Truật cho biết đang viết hồi ức về những năm tháng lần theo dấu vết mộ cổ Hồ Quý Ly và hậu duệ họ Hồ bị lưu đày trên đất Trung Quốc. Chúng tôi hỏi mượn để xem tập tài liệu (chưa xuất bản) ấy của ông. Ông đã vui vẻ đưa ra và đồng ý để chúng tôi trích dẫn các phẩn liên quan như dưới đây:
“Ngoài cô sinh viên Thu Vân, trên chuyến tàu đêm đến Thành phố Nam Kinh, còn có một người khác không quen biết gì chúng tôi nhưng sau khi biết tôi là người Việt Nam sang Trung Quốc tìm mồ mả của cha ông đi làm ăn và chết ở bên này mấy trấm nấm vê trước, anh ta tỏ ra rất cảm động và cũng tình nguyện dẫn đường cho chúng tôi. Hỏi ra, rất tình cờ, anh ta cũng là người họ Hồ sinh sống ở Giang Tô, anh nói vanh vách về dòng họ Hồ của một số người Việt Nam lưu lạc từ rất lâu đời ở tỉnh này. Xuống tàu, chúng tôi đến đồn công an địa phương, sau khi nghe trình bày mục đích đi tìm kiếm người thân đã mất ở đây từ lâu đời, họ đã vặn hỏi kỹ càng rồi mới cho biết ở nguồn ngọn núi Lão Hổ Sơn, thôn Kim Làng xưa, hiện còn lại một bãi tha ma hình như của người Việt chết chôn ở đó mấy trăm năm rồi. Nghe vậy, cô Thu Vân rất hoạt bát, thông minh, đã tiếp chuyện họ bằng tiếng thổ ngữ tỉnh Giang Tô một cách trôi chảy không vấp váp một tí nào, làm cho họ nhanh chóng hiểu ra sự việc, lấy làm cảm động tỏ ý muốn giúp đỡ chúng tôi. Thật vậy, sau đó họ cử một sĩ quan công an cấp bậc đại úy, với chiếc xe cảnh sát dẫn đường phía trước đưa chúng tôi đi, rời trung tâm Thành phố Nam Kinh để chạy ngoằn ngoèo độ hai tiếng đồng hồ sau mới đến một nơi vắng người, bấy giờ một đồng chí cảnh sất nói: “Đây là khu vực núi Lão Hổ Sơn - thôn Kim Lăng ngày xưa đấy”. Chúng tôi bồi hồi leo lên những ngọn đổi heo hút, đầy mồ mả vô chủ nằm ven những con đường mòn cỏ rậm, lấp gần như hết lối đi. Nửa chừng, bất giác tôi bị choáng trong giây lát và vấp ngã vào một ngọn cây nhọn hoắt bên đường, tưởng đã bị thương nặng - ấy thế mà tôi không có việc gì. Mọi người thở phào nhìn tôi qua keo nguy hiểm. Rồi đó, chúng tôi thấy núi Lão Hổ Sơn hiện ra trước mắt - nửa ảo nửa thật như một phần trong hiện tại - và phẩn kia đã chìm sâu vào quá khứ mịt mờ - với hàng trăm hàng ngàn người Việt Nam yêu nước đã gửi nắm xương tàn đó đây trên đất khách chứ có riêng gì Hồ Quý Ly đâu... Nghĩ thế mà tôi choáng”.
Đọc tới đó, chúng tôi hỏi ông cụ thể hơn về những người yêu nước bị quân Minh bắt mà ông đang có tài liệu tổng hợp đầy đủ trong tay. Ông đáp, khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thất bại vào giữa năm 1407, thì theo Đại Việt sử ký toàn thư , tướng nhà Minh là Trương Phụ và Mộc Thạnh đã sai đô đốc Liễu Thăng và các tướng bắt Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng, cùng các con là Triết, Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngũ Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng bác là Nguyên Cửu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Đình Việp, Đình Hoãn, cùng các tướng nhà Hồ là Đỗ, Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ, Đoàn Bổng, đình bá Trần Thang Mông, trung lang Phạm Lục Tài, mang theo ẫn tín giải tất cả về Kim Lăng, tức Nam Kinh. Quân Minh xâm lược đã thu đất của 48 phủ và châu, 168 huyện, 3.129.500 hộ, 112 con voi, 420 con ngựa, 35.750 con trâu bò, 8.865 chiếc thuyền. Những con số đó là do người Minh thống kê, đau xót hơn quân Minh đã mang rất nhiều sách vở ở nước ta đem về Trung Quốc, cuốn nào không đem về được thì đốt bỏ. Không dừng ở đó, theo tài liệu của Quỳnh Chi, sau khi bắt Hồ Quý Ly về giam ở Nam Kinh, nhà Minh còn ra sức vơ vét nhân tài vật lực và đã đưa về Trung Quốc hơn 16.000 người bao gồm các nhân sĩ, trí thức, những người thợ giỏi và gia quyến của họ. Sau này, số người ấy bị phân tán đi xây thành Bắc Kinh, một số chết tuyệt tích - trong đó có Hồ Quý Ly.
Nguyễn Trãi - từng làm quan dưới triều Hồ - đã tiễn cha mình là Nguyễn Phi Khanh cùng đoàn người (vua Hồ Quý Ly cùng các con và nhiều bộ tướng) bị giặc bắt giải về đất Bắc. Đến ải Nam Quan, ông nghe lời khuyên của cha trở về lo việc trả nợ nước, báo thù nhà. về sau có lần đi qua cửa biển Thần Phù, Nguyễn Trãi đã chạnh lòng tưởng nhớ đến Hồ Quý Ly - con người đã một thời oanh liệt, từng bố phòng chống giặc nơi đây - nên làm bài thơ Quan hải có câu:
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
Nghĩa là:
Họa phúc có manh mối không phải từ một ngày.
Người anh hừng thì để hận tới mấy nghìn năm sau.
NGUYỄN ANH ( Danh nhân đất Việt )
TỪ LÃO HỔ SƠN BÙI NGÙI NHÌN LẠI“Lặn lội sang xứ người không chỉ để tìm mộ của Hồ Quý Ly mà còn tìm nơi chôn cất của các danh nhân Việt Nam từng sống tha phương rồi chết bên ấy nữa...”
Đó là câu nói chân tình của nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật. Ông ghi lại qua bản thảo cuốn hồi ức chưa xuất bản về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly ở Trung Quốc, lúc đến vùng Lão Hổ Sơn - như sau: “Tôi bảo cô Thu Vân (sinh viên người Việt họ Hồ, du học tại Bắc Kinh) rằng cháu hãy lấy nắm nhang đem theo đốt lên để dễ liên lạc với người đã khuất nơi đây. Cô Thu Vân nghe lời đốt mấy nén hương, làn khói bốc lên nhưng không bay đi mà cứ lượn quanh tôi và cô Thu Vân. Tôi thấy đây là điềm lạ ở xứ người... Núi Lão Hổ Sơn gần sát bờ sông Trường Giang, cảnh vật âm u huyên ảo với những bãi tha ma vô chủ, cách nơi đô hội chỉ 20 km, song hiện nay nó củng bị dự án quy hoạch của Thành phố Nam Kinh đẽo gọt dần - nên “mất đất” nhiều, sỗ diện tích còn lại ngày càng khiêm tốn, trong đó có ba quả đồi không lớn lắm đã trở thành bãi tha ma đủ loại mộ, phẩn nhiều không bia ký và tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người lui tới rẫy cỏ, chăm sóc, khói hương. Chỉ có thấy mây vờn trên các đỉnh đồi, vôi một vài loài chim bay tới bay lui trên không gian vắng lạnh mà thôi... Trở lại việc chính là tìm mộ Hồ Quý Ly có nằm ở đó hay không. Nếu căn cứ vào Minh sử thì cha con, thân thích của vua Hồ Quý Ly và các bộ tướng bị bắt, một phần tù binh ấy bị đưa ra công trường để tiếp tục xây thành Giang Tô, một số khác bị đưa khỏi Nam Kinh, tách ra đê đi xây thành Bắc Kinh. Vì lúc bấy giờ, thành Bắc Kinh củng đang được xây dựng, sau này trở thành kinh đô nhà Minh. Một bằng chứng hiển nhiên của sỗ người Việt bị bắt đi xây thành Bắc Kinh là sự có mặt của một nhân vật nổi tiếng được sử sách Trung Quốc nhắc đến là kiến trúc sư Nguyễn An”.
Về bằng chứng trên, gần đây trong tài liệu in thành sách với tựa Kiều bào và quê hương , dày hơn 970 trang, của nhiều tác giả (NXB Trẻ, 2006) do Trần Bạch Đằng, Dương Đình Thảo, Nguyễn Ngọc Hà làm cố vấn biên soạn, chủ biên là Viện sĩ - Tiến sĩ Nguyễn Chơn Trung và Tiến sĩ Quách Thu Nguyệt, đã chuyển tải những thông tin liên quan đến Hồ Quý Ly và những người bị bắt đày sang Trung Quốc; trong đó có Nguyễn An (1381 - 1458) - người đã thiết kế và xây dựng Thiên An Môn ở Bắc Kinh thời nhà Minh, tóm lược dưới đây:
Các bộ chính sử nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục đều không để cập đến sự kiện này. Gần đây, một soạn giả Trung Quốc là ông Trần Ngọc Long trong cuốn biên khảo nhan đề Hán văn hóa luận cương - Kiêm thuật Trung - Triều, Trung - Nhật, Trung - Việt văn hóa giao lưu (Luận cương về văn hóa Hán - Giao lưu văn hóa Trung Hoa - Triều Tiên, Trung Hoa - Nhật Bản, Trung Hoa - Việt Nam) do Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh ấn hành năm 1993, cho biết Nguyễn An chẳng những thiết kế kinh thành Bắc Kinh mà còn xây Tử Cấm Thành nữa, cụ thể: “Thành Bắc Kinh chín cửa, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ đến việc lấp, chắn các đoạn sông ở Hàn Dương thôn, mọi việc đều do một mình Nguyễn An trù tính cả”. Trần Ngọc Long còn dẫn bài viết của Việt Nhân nhan để: “Nhà kiến trúc thiên tài Nguyễn An từng tham gia xây dựng Đại Bắc Kinh thời Minh” để cho biết công trình trọng điểm thời bấy giờ là xây Tử Cấm Thành và Hoàng Thành. Tử Cấm Thành do Nguyễn An thiết kế, nam bắc dài 960 m, đông tây rộng 760 m, trong đó có ba điện phía trưổc là Hoàng Cực điện, Trung Cực điện, Kiến Cực điện và ba điện phía sau là Càn Thanh, Giao Thái, Khôn Ninh. Chỉ trong vòng 4 năm ngắn ngủi, Nguyễn An tiên sinh đã sơ bộ hoàn thành hạng mục công trình phức tạp này”. Năm 1440, vua Minh Anh Tông hạ lệnh xây dựng lại ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái, Cẩn Thân (tức Kiến Cực điện), Nguyễn An vẫn là người thiết kế.
Cuối cùng, tác giả (Trần Ngọc Long) viết: “Nguyễn An thực là kỳ tài hiếm có trong lịch sử kiến trúc phương Đông”. Sử sách còn ngợi khen: “Giơ tay chỉ vạch là hình hiện lộ, thế dựng lập... Mắt tinh tường, ý doanh tạo đểu khớp với quy chế. Khéo suy xét, tính toán như thẩn, người đời thán phục”. Nguyễn An là nhân tài nước Việt ta sinh vào cuối đời Trần, không rõ quê quán. Theo sử sách Trung Quốc, Nguyễn An là người bẩm sinh thanh cao, cứng cỏi, giỏi mưu tính, nhất là về việc xây dựng. Lúc Nguyễn An làm kiến trúc sư, tổng thiết kế kinh thành Bắc Kinh, ông chỉ mới xấp xỉ ba mươi tuổi. Để kết luận, tác giả Hán văn hóa luận cương viết: “Ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng cố cung trang nghiêm hùng vĩ, tự nhiên tưởng nhớ tới nhà kiến trúc thiên tài của Việt Nam”.
Ngoài Nguyễn An, còn có 130 người thợ cả giỏi kiến trúc mỹ thuật, bị bắt đưa sang Nam Kinh. Họ cùng với gia quyến nhiều đời bị đày sang Trung Quốc, sống tha phương ở đó, chết ở đó và chôn ở đó. Để tìm hiểu sâu hơn, ông Đỗ Đình Truật đến tiếp xúc với các cụ già họ Hồ sống tại thôn Kim Lăng dưới vùng đổi Lão Hổ Sơn và ghi lại qua bản thảo cuốn hồi ức của ông, rằng: “Các cụ bô lão ở đây nói xưa kia theo ông bà nhiều đời truyền miệng quả là có tù binh Việt bị đấy sang và chính cái gò hoang tha ma ấy là nơi mộ táng của họ. Các cụ còn chỉ chỗ này xưa kia có ngôi mộ lớn hơn hết, không biết của ai, chỉ biết dân làng họ Hồ trong vùng thường đến đó cúng tế linh đình - nguyện ước gì được nấy - linh ứng lắm. Nhưng từ ngày quân Nhật tràn qua Trung Quốc đã biến nơi này thành pháo đài, nên cái lăng đó bị san bằng... không còn dấu tích. Song nếu được khai quật, đào sâu dưới lòng đất kia biết đâu có thể tìm thấy những chứng cứ bất ngờ về mộ Hồ Quý Ly và các bộ tướng vùi chôn dưới bãi tha ma nhiều đời nhiều kiếp nọ?”.
LÁ SỐ TỬ VI CỦA HỒ QUÝ LYViệc lên đường tìm kiếm mộ Hồ Quý Ly (cùng những người trong gia tộc họ Hồ bị quân Minh bắt về Trung Quốc) không chỉ là công việc của riêng các nhà hoạt động vàn hóa, khảo cổ, mà còn là ước nguyện của bà con các tông phái họ Hồ sinh sống khắp Việt Nam...
Cái chết của Hồ Quý Ly sau khi bị giam tại Nam Kinh ra sao đến nay chưa ai dám khẳng định rõ ràng. Sử nhà Minh một số tài liệu tìm được tại các thư viện ở Bắc Kinh, Nam Kinh, Quảng Tây thì vẫn ghi chép chung chung chứ không thông tin minh bạch về ngày giờ, năm tháng cũng như những chí tiết về phút lâm chung, nhất là mộ táng Hồ Quý Ly nằm ở nơi nào. Chúng tôi đem điều đó ra hỏi một số nhà nghiên cứu chuyên ngành sử học, văn học, và tình cờ trong một buổi chiều đầu thu năm Canh Dẩn 2010 - chúng tôi được tiếp chuyện với một nhà chiêm tinh học, đồng thời là nhà nghiên cứu gia phả học (xin viết tắt tên vị ấy là H.T), để nghe ông nói về lá số tử vi của Hồ Quý Ly với đôi điều là lạ ghi dưới đây:
– Này nhà báo, theo sử liệu để lại, thì Hồ Quý Ly sinh năm Bính Tý, tức năm 1336. Có tài liệu chép sinh trước đó một năm, vào 1335. Ở đây tôi chọn năm Bính Tý 1336 để đi ngược thời gian thử chấm lá số tử vi cho vua Hồ Quý Ly xem sao. Làm việc này thoạt đầu xem ra có vẻ hơi kỳ, vì mọi chuyện trong đời của ông vua đầu triều này ai cũng biết rồi, còn chấm” làm chi nữa. Song thật ra, đứng vê mặt nghiên cứu chiêm tinh học và trường sinh học - vốn đang được các nhà khoa học hiện đại quan tâm - thì tất cả những người đã chết, đang sống, đều có thể tìm hiểu lá số của họ để biết điều đúng, điều sai từ các kết luận so với thực tế xảy ra. Vì thế, chúng tôi đã tìm hiểu Hồ Quý Ly ở khía cạnh văn hóa tâm linh để “chấm” số và so sánh với những diễn biến trong đời ông.
Chúng tôi xin phép được ghi lại đôi dòng “bên lề lịch sử” qua cuộc tiếp xúc ấy. Bấy giờ nhà chiêm tinh vui vẻ đồng ý, song không giải thích rõ, mà đọc mấy câu cho chúng tôi chép liên quan đến lá sổ của vua Hồ Quý Ly: Sống nhung lụa, chết tha hương. Mộ phần hai đóa Âm - Dương hai màu. Bên tả, hình mèo tháng Mão. Bên hữu, hình ngựa chiêm bao Ngọ về... Rồi không nói chi thêm, nhà chiêm tinh hớp cạn ly trà, đứng dậy cáo từ đi mất.
Về nhà, chúng tôi ngẫm nghĩ mấy chữ mở đầu của các câu trên là: “Sống nhung lụa” , thì ai cũng biết Hồ Quý Ly xuất thân từ cửa quý tộc, ông có hai người cô ruột được vua Trần Minh Tông tuyển vào cung, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, người kia sinh vua Trần Duệ Tông. Riêng Hồ Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông gả em gái là công chúa Huy Ninh cho. Với những mối quan hệ đậm đà ấy, ông được vua Nghệ Tông tin dùng từ năm 1371, lúc 35 tuổi, phong cho làm Khu mật đại sứ, lại gia tước Trung tuyên hầu. Đến năm 1372, khi Nghệ Tông truyền ngôi lại cho em là vua Duệ Tông, Duệ Tông đã lập em họ của Hồ Quý Ly là Lê Thị làm hoàng hậu. Theo đà ấy, Hồ Quý Ly bước vào chính trường với tư thế là một trong những người có trọng trách của cơ quan tối cao nhà Trần, trở thành một trong những quý tộc ngoại thích có ảnh hưởng mạnh nhất đổi với vua Trần, đã dẩn dần tập trung quyền hành để lên ngôi vào năm Canh Thìn 1400. Trước đó, nhà Minh đã lộ rõ nhiều dấu hiệu muốn gấp gáp thôn tính nước ta nên Hồ Quý Ly đã lệnh cho xây thành Tây Đô ở Thanh Hóa, mà sau này, khi nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật đi tìm mộ Hồ Quý Ly và đặt chân đến Lão Hổ Sơn đã sực nhớ đến thành Tây Đô ấy. Chúng tôi hỏi: “Vì sao trên đường sang Trung Quốc tìm mộ Hồ Quý Ly ông lại nhớ đến thành nhà, tức thành Tây Đô (còn gọi là Tây Giai) ở Thanh Hóa, Việt Nam?”. Ông đáp: “Sao lại không nhớ được. Tôi đã liên tưởng ngay thành nhà khi vừa đến các bãi tha ma đẩy mộ vô chủ trên ngọn Lão Hổ Sơn. Là vì cái chết tha phương trên đất Trung Quốc của Hồ Quý Ly có liên hệ nhân quả rất chặt chẽ với những chuỗi hoạt động của đời ông, mà một trong những việc làm quan trọng của ông là quyết định xây thành Tây Đô để ứng phó kịp thời với việc nhà Minh xua quân xâm láng. Hẳn nhiên nhà Minh không thể để một bộ óc chiến lược như Hồ Quý Ly được sống sót dài ngày để tiếp tục suy tính chống lại họ. Rõ ràng cái chết chưa biết rõ ngày tháng lẫn nơi chôn của Hồ Quý Ly có duyên do rẫt sâu từ những hoạt động quân sự như xây thành đắp lũy để chổng giặc của ông.
Nói tới đó, ông Đỗ Đình Truật giở bản thảo cuốn Hồi ức về hành trình tìm mộ Hồ Quý Ly để chỉ chúng tôi xem đoạn ông viết về việc thám sát thành nhà Hồ do Hồ Quý Ly ra lệnh xây như sau: “Ngay trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt vào giai đoạn 1965 - 1967, đoàn điều tra khảo cổ học của chúng tôi vẫn đến Thanh Hóa, gần cầu Hàm Rồng, để bước đầu nghiên cứu Thành nhà Hồ, bởi lẽ theo nhận định của Nhà nước lúc bấy giờ, Thành nhà Hồ là một di tích quân sự, di tích lịch sử, nói lên ý chí bảo vệ đất nước và chống ngoại xâm. Đầu tiên khi đến đó, chúng tôi đặt vấn đê tại sao Hồ Quý Ly lại chọn vùng núi non của động An Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa để xây căn cứ chống quân Minh, và rồi chúng tôi có ngay câu trả lời khi tận mắt nhìn lại địa thế hiểm yếu của vùng này, với bốn bề núi non bao bọc, không chỉ mở ra mặt nam và đông nam rộng thoáng mà còn có dòng sông Mã, sông Chu hợp lưu nữa, thuận cho việc hoạt động của thủy binh. Cung đất mà Hồ Quý Ly chọn xây thành Tây Giai là cung Chấn - nghĩa là cung mạnh và phát địa nhất, cách thủ đô Thăng Long 150 km đường chim bay và cách quốc lộ xuyên Đông Dương ngày nay khoảng 30 km, cách biển độ 40 km. Cuối đời, khỉ thế trận thất lợi, Hồ Quý Ly đã chạy vê hướng đó, lên núi Thiêm Cầm thuộc Kỳ La ở Hà Tĩnh cách thành Tây Đô không xa, rồi cũng tại đó, Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt, dẫn khỏi miền Trung để vĩnh viễn đày xa đất Việt...”.
NGƯỜI CỦA NHỮNG “SỐ MỘT” ĐỊNH MỆNHHồ Quý Ly mất năm nào? Đến nay nhiều tác giả khỉ viết tiểu sử của ông tuy đề năm mất là 1407nhưng lại đánh dấu hỏi đằng sau con số ấy (1407?). Có nghĩa: Đó chỉ là năm phỏng định chứ chưa hẳn đúng như thế.
Nếu căn cứ năm mất như phỏng định trên thì Hồ Quý Ly chết ngay trong năm bị nhà Minh bắt giải về Trung Quốc - tức vào năm Đinh Hợi, ở tuổi 71, với các thuyết khác nhau. Như vậy ngày, tháng và năm mất của ông vẫn còn là dấu hỏi lơ lửng, khiếm khuyết. Chúng tôi đem dấu hỏi trên cùng vơi mấy câu thơ về lá số tử vi của Hồ Quý Ly, đặt ra với một nhà báo đổng nghiệp lớn tuổi có mặt trong buổi gặp gỡ tại tư gia của nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật và được nghe nhà báo này trao đổi, gợi mở thân mật:
– Về lá số tử vi thì tôi chưa dám giải mã, tôi chỉ muốn nhắc đến câu người ta hay nói: “Ai cũng có số”. Số đây không chỉ là số phận, số trời định, hoặc duyên số, mà còn hàm “nghĩa đen” là... con số! Người nào cũng dính với một con số, mà Hồ Quý Ly thì ứng với con số khá nguy hiểm là... “số một”! Vì phàm hễ ai đứng ở vị trí “số một” thường bị kẻ khác dòm ngó, chen lấn, lật đổ để vượt lên, để giành lấy. Vậy hỏi các anh biết Hồ Quý Ly “số một” ở chỗ nào không?
Hỏi thế nhưng không đợi trả lời, anh bạn vui vẻ kể một loạt “số một” của Hồ Quý Ly, đại ý “số một” về các cải cách táo bạo như hạn điền, hạn nô. “Số một” về chủ trương cứng rắn, chẳng hạn ông đã chống lại việc cắt đất biên giới cho nhà Minh, mà Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Năm 1405, thổ quan phủ Tư Minh, tỉnh Quảng Tây, là Hoàng Quảng Thành tâu với nhà Minh rằng Lộc Châu là đất cũ của phủ ấy. Nhà Minh mới sai sứ sang đòi cắt đất Lộc Châu ở Lạng Sơn (để nhập vào đất Trung Quốc). Lúc bấy giờ Hoàng Hối Khanh làm cát địa sứ, đã đem các thôn như Cổ Lâu (gồm cả thảy 59 thôn) đưa cho nhà Minh. Quý Ly trách mắng, lăng nhục Hối Khanh vì đã trả lại đất quá nhiều. (Về sau) những thổ quan do bên kia đặt, (Quý Ly) đều bí mật sai thổ nhân ở đó đánh thuốc độc giết di”. Nhà Minh hẳn nhiên rất khó chịu vì những việc như thế.
Hồ Quý Ly lại đứng “số một” trong hàng quý tộc ngoại thích đời Trần về tính kiên quyết, như khi sai Lại bộ Thượng thư kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là Mẫn) vào phía nam để xem đất và đo đạc động An Tôn, phủ Thanh Hóa để “đắp thành đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3 (năm Đinh Sửu 1397) thì công việc hoàn tất. Trước đó, triều đình bàn bạc chưa xong, Hành khiển Phạm Cự Luận khuyên nên thôi. Quý Ly nói: Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi còn nói gì nữa? Đến đây thì thực hiện”. Cũng có người (Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết) dâng thư can Hồ Quý Ly bảo là thời xưa nhà Chu, nhà Ngụy bên Trung Quốc đểu gặp những điều chẳng lành khi dời kinh đô và phân tích: đất Thăng Long có núi Tản sông Lô, đất bằng rộng rãi, là nơi các bậc đế vương mở nển dựng nước từ lâu, còn đất An Tôn ở Thanh Hóa chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị, cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: “Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm” (tại đức bất tại hiểm). Nhưng Hồ Quý Ly gạt đi không nghe, vẫn lệnh xây thành Tây Đô.
Về quyết định trên, ông Đỗ Đình Truật nhận xét trong bản thảo cuốn hồi ức về chuyến đi tìm mộ Hồ Quý Ly rằng, Hồ Quý Ly muốn tập trung sức để nhanh chóng xây thành Tây Đô là nhằm làm hậu cứ chống quân Minh đang hăm xe xâm lược. Khi từ núi Lão Hổ Sơn ở Trung Quốc trở về, ông Truật đã một lần nữa viết lại những mô tả dưới nhãn quan của một nhà khảo cổ học về di tích thành Tây Đô, nguyên văn:
“Trên đường tìm mộ Hồ Quý Ly trong đầu tôi nảy sinh rất nhiều suy nghĩ về công sức, tim óc của người xưa đầu tư cho cuộc kháng chiến chống quân Minh vào đầu thập niên thứ nhất của thế kỷ XV đã không được như ý, song thành Tây Đô vẫn còn sót lại dấu tích với tên gọi “thành nhà ” - bằng chứng về một giai đoạn bi hùng trong lịch sử nước ta. Thành này vê phía nam nhắm thẳng vào núi Đọ, nơi các nhà khảo cổ nước ta đã phát hiện văn hóa đồ đá cũ, phía tây nam thành theo hướng ôm dòng sông Mã, phía bắc giáp dãy núi Mổ Côi và phía đông là rừng núi rậm rạp với một ít đồng ruộng và nay đang có làng Tây Giai tọa lạc. Như đã nói, chúng tôi đến khảo sát tại chỗ kiên trúc các vòng thành thấy số đo: chiều cao của thành từ 8 - 10 m. Tài liệu cữ cho thành vốn cao 16 m, như thê ngày nay phía trên các đoạn thành đã bị phá, hoặc bị đổ nát vì nhiều lý do khác nhau. Chúng tôi biết trên thành xưa kia có đắp những gò “hỏa hồi” để đốt lửa báo tin giặc tối và có nhiều ụ pháo thẩn công hoặc nhiều tường ngắn để đỡ đạn và chắn tên. Thành rộng ở chân độ 12 m, mặt thành rộng độ 8 m. Bên trong ruột của thành bằng đất, bên ngoài là một lớp đá tảng, có viên dài gần 2 m hoặc 3 m, rộng tới 1,20 m và dài 0,5 m hoặc hơn nữa. Cũng có những viên còn to gấp đôi như các tảng đá dùng xây cống Đại Môn thành và các đoạn thành gần như bằng nhau với một hình vuông rộng gần 4 km2. Nổi bật qua kiến trúc ở đây là 4 cửa thành, nhất là Đại Môn thành rộng hơn 6 m, cao 8 m, hình cuốn tò vò, với những tảng đá khổng lồ nặng đến 20 tấn hoặc hơn nữa đã được Hồ Quý Ly sai chuyển đến từ các núi đá ở rất xa tòa thành”.
Đỗ Đình Truật kết luận về Hồ Quý Ly đoạn viết về thành nhà Hồ trong hồi ức : “Hơn ai hết Hồ Quý Ly rút ra những bài học lịch sử của Đinh Tiên Hoàng xây cố đô Hoa Lư dựa vào vùng núi hiểm của Ninh Bình để chống lại sự dòm ngó của kẻ thù phương Bắc. Đến nhà Trần thì cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông củng ba lấn rút khỏi Thăng Long để về vùng sinh lầy ở Thiên Trường (Nam Định), ở Hải Dương, Hưng Yên, Chí Linh, Đông Triều... Vùng sình lầy mà vó ngựa bách chiến của quân Mông Cổ cũng phải chồn chân, không thắng nổi. Vậy Hồ Quý Ly muốn đương đấu chống giặc Minh mạnh gấp trăm ngàn lần với mình thì phải dùng sách lược thủ hiểm lâu dài mới mong thắng được. Nhưng không may, buồn thay, cuôi cùng vua tôi nhà Hồ thất trận và ngôi thành vĩ này lọt vào tay quân Minh, rồi nghiêng đổ theo năm tháng”...
Nhà Hồ không làm vua được bao lâu, nhưng mà công việc sửa sang cũng nhiều. Trước hết Hồ Quý Lỵ chỉnh đốn việc võ bị, bề ngoài tuy lấy lễ mà đối đãi với nhà Minh, nhưng vẫn biết nhà Minh có ý muốn dòm đất An Nam, cho nên thường hỏi các quan rằng: "Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc?" Từ ý định đó Hồ Quý Ly bèn lập ra hộ tịch bắt người trong nước cứ 2 tuổi trở lên thì phải biên vào sổ, ai mà ẩn lậu (không ghi tên trong sổ) thì phải phạt. Đến lúc hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 tuổi thấy hơn gấp mấy phẩn lúc trước. Từ đó số quân (nhà Hồ) lại thêm ra được nhiều. Còn như thủy binh để giữ mặt sông, mặt bể thì Quý Ly bắt làm những thuyền lớn ở trên có sàn đi, ở dưới thì để cho người chèo chống, thật tiện cho sự chiến đấu. Quý Ly lại đặt ra 4 kho để chứa đổ quân khí và bắt những người xảo nghệ vào làm khí giới, ở các cửa bể và những chỗ hiểm yếu trong sông lớn đều bắt lấy gỗ đóng cọc để ngự bị quân giặc...
TRẦN TRỌNG KIM ( Việt Nam sử lược )
NGƯỜI ĐƯỢC QUÂN ĐỘI TRUNG HOA PHONG THẦNKhi còn sống, Hồ Quý Ly không được lòng nhà Minh bởi những hoạt động quân sự quá rô nét và là người có những cải cách táo bạo, không ngại đụng chạm đến nền nếp tinh thần của Trung Quốc...
Thật vậy, trong câu chuyện đi tìm mộ Hồ Quý Ly quanh bàn trà ở nhà ông Đỗ Đình Truật, anh bạn nhà báo đã nhắc ở bài trước nêu lên nhiều con “số một” khác mà Hồ Quý Ly “sở hữu” lúc sinh thời. Trong đó có điều chắc hẳn đã làm nhà Minh phải chột dạ như: ông quyết định đưa chữ Nôm vào sinh hoạt văn hóa nước Việt, hạn chế chữ Hán trong các văn bản hành chánh. Ông lại là ông vua duy nhất trong lịch sử vương triều Việt Nam dám lên tiếng “chỉnh sửa” vị trí và chỉ trích các vị tôn túc trong truyền thống Nho giáo Trung Quốc.
Điều đó đã được Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (NXB Thế Giới, bộ mới, 2004) nêu rõ: “Về văn hóa và tư tưởng, họ Hồ cũng là người có đâu óc mạnh dạn. Ông viết sách Minh đạo (làm sáng tỏ đạo, 1392) duyệt lại Nho giáo một cách hệ thống: xếp Chu Công lên trên Khổng Tử, nêu 4 điểm đáng ngờ trong sách Luận Ngữ. Ông coi Mạnh Tử, Hàn Dữ, Trình, Chu là những nhà Nho “trộm cắp”, các nhà Tống Nho khấc học rộng nhưng tài ít, chỉ chuyên nghề “sao chép” văn chương tư tưởng người khác. Ông còn dịch thiên “Vô dật” trong Kinh Thư ra tiếng Việt (1395) để dạy vua. Tất nhiên, xét cho cùng, những sự phê phán sắc sảo nói trên củng không thực tế bao nhiêu, vì tư tưởng Hồ Quý Ly trước sau vẫn không thoát ly Nho giáo. Nhưng chủ trương của ông về việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán trong các công văn, chiếu sắc thì thật mối mẻ, giàu tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một học phong mang bản sắc riêng của người Việt, và muốn tự cường đất nước. Ông còn chú ý đến giáo dục, cho mở khoa thi Hội ngay sau khi lên ngôi vua (1400) để chọn người hiền tài”.
Ông cũng là người đầu tiên - người “số một” cho in tiền giấy trong lịch sử phát hành tiền tệ Việt Nam. Với những “số một” như thế, ông không khỏi đối diện với nhiều bất trắc trong nội bộ vương triều, lẫn bên ngoài xã hội, vốn đã quen với những nền nếp lâu đời. Và cuối cùng, là người lãnh đạo cao nhất trong cuộc kháng chiến, khi thất bại ông trở thành người tù “số một” của quân Minh xâm lược, với cái chết trải qua 6 thế kỷ vẫn chưa được biết rõ ràng.
Trong lúc đó, người đứng “số hai” lại an toàn. Đó là con trai trưởng của ông: Nguyên Trừng. Hồ Nguyên Trừng ngay từ đầu đã thoát ra khỏi lực hấp dẫn của vương quyền, vui vẻ đứng vào vị trí “số hai” để em mình là Hồ Hán Thương lên ngôi (1401), kế vị Hồ Quý Ly. Khi bị quân Minh bắt về Nam Kinh, Nguyên Trừng được vua Minh tha bổng, trọng dụng nhờ tài chế súng thần cơ, cất nhắc lên những chức vị khá cao như Tả Thị lang bộ Công. Khi mất Hồ Nguyên Trừng được truy phong Thượng thư. Quỳnh Chi - qua bài về các nhân tài kiệt xuất của Việt Nam in trong cuốn Kiều bào và quê hương (Sđd) viết đại ý:
“Hồ Nguyên Trừng giữ chức Tư đồ và Tả Tướng quốc, là người đã sáng chế ra vủ khí súng thẩn và pháo thẩn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (và Trung Quốc). Quân Minh đã thâu được vũ khí súng thần (thẩn sang) và pháo thẩn của ta mà Trung Quốc chưa hê có. Sách Việt Kiện thư của Lý Văn Phương, đời Minh ghi: “Súng thẫn cơ có được gần đây, dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài trăm bước, nhanh chóng kỳ diệu như thẩn, nghe thấy tiếng là lửa đã đến”. Hoặc: “Thành Tổ bình Giao Chỉ (Việt Nam), lấy được cách chế tạo súng thần, pháo thẩn, liền đặt thần cơ doanh để thao luyện”. Sách Quảng Dương tạp ký đánh giá: “Súng Giao Chỉ nhất thiên hạ, Hồ Nguyên Trừng làm đến chức Thượng thư bộ Công được quân đội Trung Hoa tôn là “Thần của hỏa khí”. Tác giả Trương Tú Dân trong bài viết (năm 1947): “Cống hiến của người Giao Chỉ đời Minh ở Trung Quốc” kết luận: “Minh Thành Tổ biết súng thẩn của Giao Chỉ là thứ vũ khí lợi hại mà Trung Quốc chưa từng có, cho nên sai người (Hồ Nguyên Trừng) chế tạo. Quân đội Trung Hoa mỗi khi tế binh khí đều tế Hồ Nguyên Trừng, tôn vinh là Thần hỏa khí”.
Về nội dung tương tự, trên tạp chí Xưa và Nay , một số tác giả như: Phạm Hân, Hoài Anh, Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Hữu Tâm đã đê' cập tới, xin phép trích dẫn và tóm lược các ý chính nêu sau.
Về cách chế tạo hỏa khí của người Việt Nam, Minh sử chép: “dùng đồng đỏ ở mức độ giữa sống và chín, nếu dùng sắt thì sắt xây dựng mểm hơn, sắt Tây kém hơn. To nhỏ khác nhau, thứ lớn dùng xe, thứ nhỏ dùng giá, dùng bệ, vác vai. Thứ lớn lợi cho phòng thủ, thứ nhỏ lợi cho chiến đấu, tùy nghi mà dùng, là thứ vũ khí chủ yếu khỉ hành quân”. Về uy lực mô tả: “khi Thành Tổ thân chinh Mạc Bắc (chỉ Mông Cổ) dùng súng thẩn An Nam vừa bắt được, kẻ địch một người tiến lên, lại hai người nữa tiếp theo, đêu trúng súng (đạn) mà chết” . Cho nên Trung Quốc có súng trường là từ khi “bình Giao Chỉ” thời Vĩnh Lạc, chứ không phải truyền từ Nhật vào ở thời Gia Tĩnh (1522 - 1566) được. Thời đó không những có súng trường (tức súng thần Giao Chỉ) mà còn có đại pháo (tức pháo thần Giao Chỉ). Pháo đồng, pháo sắt, chủng loại lớn nhỏ khác nhau.
Trên Trận đồ kỷ yếu do Tào Phi vẽ đời Thiên Khải (1621- 1627) ghi chú: “Đây là thứ lấy được khi bình An Nam (Việt Nam), dưới tiễn có nẩy gỗ và đặt các thứ đạn chỉ, chỗ kỳ diệu là dùng gỗ thiết mộc, nặng mà mạnh” . Hình dạng giống tiễn, không giống súng, nên là một loại hỏa tiễn của Giao Chỉ. Về người chế tạo thứ vũ khí này, sử sách đời Minh cho biết: “Trừng dâng cách chế tạo súng thần”, “Trừng chuyên đôn đốc chế tạo súng, tiễn, thuốc súng”, “Trừng chuyển quản hỏa khí, quân khí”. “Triều ta dùng hỏa khí chống địch là loại chiến cụ hàng đầu xưa nay mà sự nhẹ nhàng thẩn diệu của nó thực là mới lấy được khi dùng Lê Trừng, con vua nước Việt, tướng quốc ngụy làm quan bộ Công, chuyên trách đôn đốc chế tạo, truyền hết tài năng. Và: “Từ khỉ có thứ bỉnh khí đó, Trung Quôc đắc chí với Tử Di - đánh thắng địch là dựa vào súng thần - thứ mà kẻ địch sợ nhất”.
Qua đó, biết Hồ Nguyên Trừng, Tả Tướng quốc nhà Hồ, là người đã sáng chế thứ vũ khí tỗi tân mà người Trung Quốc gọi là “súng thần”, “pháo thần” hay “hỏa tiễn”, được coi là “nhất thiên hạ” thời đó khiến các nước láng giềng “khiếp sợ”, được quân đội Trung Hoa tôn là “thần của hỏa khí” và được cúng khi họ tế binh khí. Trên đường tìm mộ Hồ Quý Ly, nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật cùng các cộng sự đã đến thăm nơi trưng bày súng thần cơ do Nguyên Trừng - con trai trưởng của Hồ Quý Ly - chế tạo vang dội một thời...
QUÁN KHÁCH KHÔN CẦM TÓC TRẮNG XANH...Trên đường sang Trung Quốc, nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật và đại diện bà con họ Hồ đà mang theo một số trầu cau với ý định sẽ bày cúng trên vùng Lão Hổ Sơn (Nam Kinh) để tường nhớ Hồ Quý Ly và những người họ chết tha phương. Nhưng khi đáp xuống sân bay Bắc Kỉnh, hải quan tại đó đà tịch thu số trầu cau nói trên...
Như đã đề cập ở bài trước, vùng Lão Hổ Sơn có rất nhiều ngôi mộ vô chủ, không có bia ký, không có người chăm nom. Theo nhiều bô lão ở một làng họ ồ cách đó không xa, thì những mộ vô chủ ấy là của người Việt chết chôn, còn con cháu họ đã phiêu dạt làm ăn nhiều nơi mấy trăm năm rồi, không thấy ai về hương khói nữa. Lục tìm trên các ngọn đổi hắt hiu kia, ông Đỗ Đình Truật phát hiện một ngôi mộ với tấm bia ghi rõ người mất họ Hồ, tên Hồ Văn Hai.
Ông hồi tưởng: “Lúc ấy tôi biết đây là một trong những bằng chứng cho thấy bãi tha ma Lão Hổ Sơn có chôn cất người mất họ Hồ. Tôi cùng cô sinh viên Việt Nam đang du học tại Bắc Kinh là Thu Vân đã soạn hành lý lấy ra hương đèn, trà rượu, thành tâm cúng vái giữa vùng vắng vẻ kia. Tôi cũng như những người họ Hồ đang sống dưới chân vùng Lão Hổ Sơn có mặt hôm ấy đã tần ngần và ngậm ngùi nhìn khói hương tỏa ra giữa buổi chiều thu. Cúng xong, đã 4 giờ chiều rồi, mây từ trên đỉnh Lão Hổ Sơn bắt đầu phủ xuống lưng đồi, chung quanh chúng tôi hơi lạnh tràn lên. Tôi nói thôi về, sáng mai đến lại, trước khi đi, tôi đã lấy một nắm đất tại chỗ gọi là vật linh đem về Việt Nam. Nắm đất này tôi đã tặng cho con cháu tộc Hồ trong ngày gặp gỡ tại hội thảo về họ Hồ tổ chức tại dinh Độc Lập - tức dinh Thống Nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh vào giữa năm 2009”.
Nghe ngang đó, chúng tôi nói với nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật là việc tìm mộ Hồ Quý Ly như thế cũng chưa có kết quả như mong muốn. Ông gật đầu đáp đúng rồi, đó chỉ là bước đầu trong cuộc hành trình sắp tới, nhưng là bước đầu không thể thiếu, như người xưa nói: “Đường xa vạn dặm không rời khỏi bước ban đầu”. Không chỉ riêng mộ Hồ Quý Ly ở nước ngoài mà ngay mộ của Thơm (tức vua Quang Trung - Nguyễn Huệ) ở trong nước, đến nay vẫn chưa tìm được.
Một điều cần lưu ý, theo ông Đỗ Đình Truật, sau ngày vua Hồ Quý Ly chết biệt tích bên Trung Quốc, con cháu họ sống sót ở Việt Nam như Hân, Nhân, Đốn, Thị đã tham gia cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo để cuối cùng góp phần đánh bại quân Minh, trả thù cho Hồ Quý Ly, buộc các tướng nhà Minh phải dự hội thề trả lại thành Đông Quan - Thăng Long - cho người Việt Nam và rút hết quân về nước. Sang triều Lê, họ có rất nhiều người đỗ thái học sinh, tiến sĩ, hoàng giáp ra giúp nước như: Hô Ước Lễ, Hồ Doãn Văn, Hồ Đình Quế, Hồ Đình Trung, Hồ Bĩnh Quốc, Hồ Sĩ Dương, Hồ Phi Tích, Hồ Sĩ Tôn, Hồ Sĩ Tân, Hồ Sĩ Đống. Về sau, khi nhà Thanh mang hơn 20 vạn quân sang xâm lược nước ta, họ Hồ lại xuất hiện một nhân vật anh hùng phất cờ đào đứng lên đánh đuổi và đại thắng quân xâm lược, đó là Hồ Thơm - tức vua Quang Trung đã nhắc ở trên.
Qua triều Nguyễn, họ Hồ có nhiều danh nhân đỗ đạt, danh tiếng như Sĩ Tuấn, Trung Lượng, Văn Trị, Hồ Sĩ Tạo. Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, họ Hồ lại sớm có mặt bên cạnh lãnh tụ Hồ Chí Minh như Hồ Tùng Mậu chẳng hạn. Hồ Tùng Mậu từng vận động luật sư người nước ngoài bênh vực cụ Hồ khi cụ bị bắt cuối năm 1930. Tùng Mậu là ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch ủy ban Hành chính Liên khu 4, Tổng Thanh tra Chính phủ, hy sinh năm 1951; lãnh tụ Hồ Chí Minh có viết điếu văn, thống thiết: “mất chú, đồng bào mất người lãnh đạo tận tụy, chính phủ mất người cán bộ lão luyện, đoàn thể mất người đổng chí trung thành, và tôi (Hồ Chí Minh) mất người anh em chí thiết...”. Hiện ở Thành phố Chí Minh có đường mang tên Hồ Tùng Mậu, quận 1.
Ngoài ra, còn có đường mang tên một người họ Hồ khác đã từng làm rung chuyển các nhà tù của đô thành Sài Gòn, đó là Hồ Xuân Lưu (tức Trần Quốc Thảo) - đường này chạy từ cầu Lê Văn Sỹ đến đường Võ Văn Tần, quận 3. Trần Quốc Thảo là Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, khi bị bắt giam ông đã táo bạo cướp súng giặc nhưng không thành, bị vây đánh, liền bất khuất đập đầu vào tường để tự vẫn. Cái chết của ông đã tạo ra làn sóng xúc động và củng cố ý chí đấu tranh trong hàng ngũ những tù chính trị đương thời.
Cùng có đường mang tên nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở quận 3 - ngôi mộ của nữ sĩ này vẫn chưa tìm được. Khi vua Thiệu Trị ra Bắc năm 1842, đến thăm hồ Tây, chuyến ấy Tùng Thiện Vương (Miên Thẩm) đi theo đã làm bài thơ chữ Hán, sau này học giả Hoàng Xuân Hãn dịch, trong đó có bốn câu : Chớ trèo qua mộ Xuân Hương/Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng/Sen tàn phấn rữa mồ hoang/Xuân Hương đã mất bên làn cỏ xanh... Dựa vào đó người ta cho là mộ Xuân Hương nằm sát hồ Tây, có người cho là nằm ở làng Nghi Tàm, vì “làng Nghi Tàm có một nghĩa địa ở hồ Tây, nay đã chìm xuống nước. Có thuyết cho là ở phường Thụy Khuê, phía nam hồ Tây. Cuộc khảo sát xác minh còn tiếp diễn” ( Sĩ Giàng). Xem thế, hành trình tìm một số danh nhân họ Hồ vẫn chưa kết thúc, trong đó có mộ hai vị vua: Hồ Quý Ly và Hồ Thơm (Nguyễn Huệ).
Bài viết này được chấp bút tháng 7 âm lịch năm nay (Canh Dần 2010), tháng cúng những vong hồn lưu lạc theo truyền thống tâm linh của người Việt. Dịp này nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật nhắc đến lễ cúng trên Lão Hổ Sơn và nói tuy lễ ấy thiếu trẩu cau, song “chúng tôi đã thay vào đó bằng cách đọc lại bài Cảm hoài là bài thơ chữ Hán do Hồ Quý Ly viết khi bị nhà Minh cẩm tù và tự dịch ra tiếng Việt”, trong đó có mấy câu: Quê hương dễ thấy đầu dần bạc/Quán khách khôn cầm tóc trắng xanh...