CHƯƠNG 3 PHI TRƯỜNG CROYDON
Cả tiếp viên và người bác sĩ không nhắc chuyện đó nữa. Chỗ ngồi đã có một người ăn mặc lập dị quấn khăn quàng quanh cổ. Gã ăn nói như ra lệnh, người khác chỉ biết nghe mà không có ý kiến.
Gã nói nhỏ cho Mitchell vừa đủ nghe, anh chàng gật đầu, cất bước đi ngang qua chỗ hành khách rồi đứng lại trước cửa lên xuống đằng trước.
Máy bay đang lăn bánh trên đường vắng. Lúc máy bay dừng lại, Mitchell cất tiếng:
- Yêu cầu quý vị ngồi yên tại chỗ chờ quan chức có thẩm quyền đến. Kính mong quý vị yên tâm không phải chờ lâu.
Tất cả hành khách đều hưởng ứng lời yêu cầu, duy nhất một vị la ó phản đối.
- Phi lý thật, - Bá tước phu nhân bực tức la lên - Anh biết tôi là ai không? Cho tôi xuống ngay.
- Thưa bà, rất tiếc là không được. Không dành ưu tiên cho ai.
- Tôi thấy thật là phi lý! - Cicely giậm chân xuống sàn giận dữ. - Tôi sẽ báo cáo lên công ty. Thật là lố bịch, bắt hành khách phải ngồi lại với một xác chết?
- Phải chịu thôi, bạn ạ, - Venetia Kerr lên giọng lè nhè - Tệ hại thật, nhưng mà rồi phải chịu thôi. - Nàng ngồi xuống lấy bao thuốc lá ra. - Này anh tiếp viên, hút được chứ?
Anh chàng Mitchell đáp:
- Dạ, được thôi.
Gã đứng liếc nhìn qua vai. Ở phía cửa lên xuống đằng trước Davis để cho hành khách bước xuống cửa thoát hiểm chờ lệnh.
Thời gian chờ đợi không lâu, hành khách tưởng chừng vừa qua được nửa giờ cho đến lúc một quan chức trong bộ quân phục xuất hiện được nhân viên cảnh sát theo hộ tống vội vã băng ngang qua sân bay lên thẳng cầu thang máy bay tới chỗ Mitchell vừa mở cửa ra.
- À ra thế, có việc gì vậy? - người đàn ông lên tiếng dõng dạc.
Ông đứng nghe Mitchell rồi qua tới bác sĩ Bryant chợ ông đưa mắt liếc nhanh về phía bà khách ngồi chết co rúm một chỗ.
Ông ra lệnh cho viên cảnh sát rồi nhìn về phía hành khách, nói:
- Yêu cầu tất cả quý vị bước theo tôi!
Tất cả hành khách theo ông bước xuống, băng ngang qua đường băng không đi theo lối cửa hải quan như mọi khi mà đi qua cổng dành riêng.
- Kính mong quý vị vui lòng chờ tại đây, chắc không lâu đâu.
- Này, thưa ngài thanh tra, - Ông James Ryder nói. - Tôi đang có việc cần lên London.
- Rất tiếc, thưa ngài.
- Tôi là Phu nhân Horbury. Thật khó chịu khi bị giữ lại đây như thế này!
- Thành thật xin lỗi bà, phu nhân Horbury, thưa bà đây là một việc rất hệ trọng. Có thể cho đây là một vụ án.
- Một loại tên độc của dân da đỏ Nam Mỹ. - ông Clancy hăng hái nói, vẻ mặt rạng rỡ.
Ngài thanh tra mật thám nửa tin nửa ngờ nhìn về phía ông.
Nhà khảo cổ người Pháp nói thao thao bất tuyệt, ngài thanh tra cũng thủng thỉnh đáp lại bằng tiếng Pháp.
Nàng Venetia Kerr nói xen vô:
- Thưa ngài, chuyện này coi bộ rắc rối, nhưng nhiệm vụ của ngài là phải tìm ra manh mối. - Ngài thanh tra trịnh trọng đáp, - Cảm ơn, bà. - với một giọng nói chân tình.
Ngài còn nói thêm:
- Nếu quý vị nào còn ở lại đây, cho tôi được mạn phép nói vài lời với bác sĩ - ờ - bác sĩ...?
- Bryant, chính là tôi đây?
- Cảm ơn ngài. Xin vui lòng đến đây với chúng tôi?
- Quý vị cho phép tôi được tham dự chứ?
Ông khách nhỏ thó để bộ ria mép cất lời.
Ngài thanh tra quay về phía đó, ông bặm môi, chợt vẻ mặt ông biến sắc.
- Tiếc là không thể được, ông Poirot? - ngài nói. - Ông ăn mặc kín mít thế này ai mà nhìn cho ra. Thôi được, chúng ta cùng đi.
Cánh cửa vừa mở, bác sĩ Bryant và Poirot bước ra, mọi người nhìn theo với ánh mắt ngỡ ngàng.
- Thế là sao nhỉ? Ông ta bỏ đi theo họ còn bọn mình ngồi lại đây? - bà Cicely Horbury la toáng cả lên.
Venetia đành chịu ngồi xuống.
- Biết đâu ông ta là mật thám Pháp? - nàng nói - hay là mật thám quan thuế.
Nàng lấy thuốc ra hút.
Norman Gale dè dặt nói với nàng Jane.
- Tôi nhớ ra đã nhìn thấy cô tại - ờ - tại bãi biển Le Pinet.
- Đúng thế, tôi có đến Le Pinet.
Norman Gale lại nói:
- Đó là một nơi đẹp vô cùng. Tôi thích nhìn mấy rặng cây thông?
Jane đáp lại.
- Ờ phải, đẹp lắm.
Rồi ông với nàng lặng thinh một lúc, chưa biết nói gì nữa đây.
Chợt Gale lại nói:
- Tôi - ờ - nhận ra cô ngay lúc vừa lên máy bay.
Jane ngạc nhiên lắm thì phải. - Vậy à?
Gale nói:
- Cô có cho là bà khách nọ bị giết không?
- Tôi chỉ đoán chừng thôi, - Jane nói. - Thật khiếp quá, mà cũng thật là rùng rợn. - Chợt nàng cảm thấy ớn lạnh, ông Norman Gale xích tới bên nàng như muốn che chở cho nàng.
Hai cha con nhà Dupont đang trò chuyện bằng tiếng Pháp. Còn ông Ryder lo cặm cụi tính sổ, chốc chốc lại đưa mắt liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Bà Cicely Horbury ngồi giậm chân tại chỗ vẻ nôn nóng. Tay bà run run châm một điếu thuốc.
Bên trong cánh cửa, một nhân viên cảnh sát bận sắc phục ngồi dựa lưng vẻ mặt đăm chiêu.
Trong gian phòng kế bên, ngài Thanh tra Japp đang trao đổi với bác sĩ Bryant và Hercule Poirot.
- Ông có lẽ chỉ xuất hiện ở những nơi không hẹn trước, ông Poirot?
- Phi trường Croydon, ông nhìn thấy lạ lắm phải không, ông bạn? - Poirot hỏi lại.
- Ờ, tôi đang theo dõi một đường dây buôn lậu. May mắn là tôi đã có mặt đúng lúc. Từ lâu tôi mới tham gia một vụ lớn như lần này. Thôi, ta đi thẳng vô vấn đề. Trước tiên, thưa bác sĩ, xin ngài cho biết tên, họ và địa chỉ.
- Roger James Bryant, chuyên gia tai mũi họng, địa chỉ tại 329 phố Harley.
Anh chàng cảnh sát ngồi trong bàn dửng dưng ghi chép.
- Bác sĩ pháp y sẽ tới đây khám nghiệm tử thi, - Japp nói: - Chúng tôi sẽ mời ông có mặt tại buổi thẩm vấn.
- Được thôi, được.
- Bác sĩ có thể cho biết bà khách chết từ lúc nào?
- Có thể cách đây nửa giờ lúc tôi tới nơi nhìn thấy nạn nhân; chỉ ít phút lúc máy bay đáp xuống Croydon. Tôi không thể đoán già hơn bởi người tiếp viên mới nói chuyện với nạn nhân trước đó một giờ đồng hồ?
- Gì, thực tế thì còn ít hơn. Tôi cho là không cần phải hỏi thêm nếu ngài phát hiện có dấu hiện khả nghi?
Ngài bác sĩ lắc đầu.
- Còn tôi lúc đó ngủ khò. - Poirot nói ra vẻ đau khổ. - Mỗi khi đi máy bay, đi tàu tôi hay bị say, thế nên tôi mặc đồ kín cả người rồi nằm ngủ.
- Thưa bác sĩ, ngài cho biết vì sao bà ấy chết?
- Lúc này tôi chưa thể khẳng định được. Bởi đây là một vụ cần phải khám nghiệm tử thi.
Japp gật đầu nhất trí.
- Vâng, thưa bác sĩ, - ông nói - Chúng tôi không muốn để ông ở lại đây lâu. Chúng tôi thấy ông cần - ờ - phải làm đúng theo thủ tục như những hành khách đi tàu, không ai được miễn.
Bác sĩ Bryant nhếch mép cười.
- Tôi thấy cần phải để cho ông biết là tôi không - ờ - mang theo ống tiêu hay là bất cứ loại hung khí nào? - ông nghiêm giọng nói.
- Có anh chàng Rogers đây sẽ lo việc đó? - Japp quay nhìn về phía nhân viên thừa hành. - Vậy thì thưa bác sĩ, ngài có ý kiến gì về vụ việc này?
Ông thanh tra mật thám chỉ tay về phía cái gai đã đổi màu đặt bên trong chiếc hộp trên bàn trước mặt.
Bác sĩ Bryant lắc đầu.
- Khó nói ở chỗ chưa tìm ra manh mối. Theo chỗ tôi biết nhựa cây hoàng năng rất độc, thổ dân Châu Mỹ thường dùng tẩm tên bắn.
- Có phải đó là một cách để đánh lừa?
- Đó là một loại thuốc độc cực mạnh?
- Không phải là dễ tìm ra được đâu, hở?
- Với một tay mơ thì dễ gì tìm ra được.
- Bởi vậy nên chúng tôi phải kiểm tra ngài thật kỹ. - Thanh tra Japp nói. Ông lúc nào cũng thích pha trò, "Rogers!"
Ngài bác sĩ bước ra ngoài cùng với nhân viên cảnh sát.
Japp ngồi ngả người ra phía sau nhìn Poirot.
- Chuyện lạ thật đấy? - ông nói - Thật khó tin. Ý tôi muốn nói đi trên máy bay có đủ ống tiêu và tên tẩm độc - đấy, như thể là một cuộc đấu trí với nhau.
- Này ông bạn, ông vừa nêu một ý thật sâu sắc? - Poirot nói.
- Tôi đã cho nhân viên dưới quyền lục soát các nơi trên máy bay? - Japp nói. - Luôn cả chuyên gia lấy dấu tay và thợ chụp ảnh. Lát nữa đây sẽ tới hai anh chàng tiếp viên.
Ông bước tới trước cửa rồi ra lệnh. Hai chàng tiếp viên được dẫn vô. Anh chàng trẻ tuổi bây giờ mới hoàn hồn mặt mũi hớn hở. Còn anh chàng kia còn run sợ mặt mũi tái mét.
- Được đấy, mấy ông bạn - ngài Japp nói. - Mời ngồi. Có mang theo đủ hộ chiếu đấy không? Tốt.
Ông lựa ra ngay.
- À đây rồi, Marie Morisot - hộ chiếu Pháp. Cậu có biết người này?
- Tôi có gặp mặt một lần. Bà bay qua bay lại nước Anh thường xuyên. - Mitchell nói.
- À, chắc vì chuyện làm ăn. Cậu biết bà làm nghề gì không?
Mitchell lắc đầu. Anh chàng kia mới nói xen vô:
- Tôi còn nhớ mặt bà. Tôi gặp một lần trên chuyến bay sớm - chuyến tám giờ sáng từ Paris qua.
- Ai là người nhìn thấy bà khách lần cuối lúc còn sống.
- Anh bạn này? - người tiếp viên trẻ tuổi chỉ qua bạn đồng nghiệp.
- Đúng thế, - Mitchell nói. - Lúc tôi dọn cà phê ra bàn.
- Lúc đó cậu thấy bà khách như thế nào?
- Tôi không để ý. Tôi dọn ra thêm đường, sữa, bà không uống.
- Cậu còn nhớ lúc đó mấy giờ?
- Ơi, làm sao tôi nhớ cho đúng, lúc đó đang bay qua biển Manche, khoảng hai giờ trưa.
- Khoảng giờ đó, - Albert Davis, người tiếp viên kia nói.
- Lần sau cùng cậu còn nhìn thấy lúc nào?
- Lúc tôi mang phiếu tính tiền ra?
- Lúc đó là mấy giờ?
- Sau đó khoảng mười lăm phút. Tôi tưởng đâu bà đang còn ngủ - khỉ họ, lúc đó bà đã chết rồi!
Người tiếp viên nói nghe lạ tai.
- Cậu không thấy gì khác lạ hết - Japp chỉ tay về phía mũi tên giống như hình con ong vò vẽ.
- Dạ không, tôi không thấy?
- Davis, còn cậu thì sao?
- Lần cuối là lúc tôi dọn món bánh quy và phó mát, lúc đó bà còn tỉnh.
- Cách thức phục vụ món ăn ra sao? - Poirot hỏi lại: - Mỗi người đẩy một xe?
- Dạ không phải thế, cả hai cùng đẩy một lúc. Trước là món xúp, đến món thịt mặn, rau sà lách, rồi tới món đồ ngọt, đủ các loại. Phục vụ từ dãy ghế cuối khoang tàu trở lên rồi mới tới khoang phía trước.
Poirot gật.
- Cậu có nghe Morisot nói chuyện với ai không hay là có quen biết ai đó? - Japp hỏi.
- Dạ thưa, tôi không thấy.
- Còn cậu, Davis?
- Dạ, không thấy.
- Cậu có thấy bà rời khỏi chỗ ngồi trong suốt chuyến bay?
- Dạ, tôi không rõ.
- Vậy là - hai cậu không giúp tìm ra được một dấu hiệu gì khác lạ hơn sao?
Hai anh chàng tiếp viên ra chiều nghĩ ngợi, rồi lắc đầu.
- Thế đấy, chỉ có vậy thôi, hẹn gặp lại sau.
Henry Mitchell thủng thỉnh nói:
- Thật là chuyện kinh dị, thưa ngài. Tôi không muốn nhắc lại nữa nhưng vì bổn phận nên phải làm.
- Ờ, tôi thấy cậu không có gì đáng trách? - Japp nói. - Hơn nữa, tôi cũng cho đây là một chuyện kinh khủng!
Ông ra lệnh giải tán. Poirot nghiêng người ra trước.
- Tôi còn một thắc mắc này nữa?
- Cứ tự nhiên, ông Poirot.
- Hai anh có trông thấy con ong vò vẽ bay vòng vòng trên tàu?
Cả hai lắc đầu.
- Tôi chẳng nhìn thấy con ong nào cả? - Mitchell nói.
- Có con ong vò vẽ đấy. - Poirot nói: - Tôi trông thấy xác con ong nằm trên chiếc đĩa đựng tách cà phê.
- Vậy mà sao tôi lại không thấy? - Mitchell nói.
- Tôi cũng chẳng thấy! - Davis nói.
- Không sao.
Hai chàng tiếp viên bước ra ngoài. Ngài Japp đảo mắt nhìn vào chồng giấy thông hành.
- Cho mời bà bá tước? - ngài nói. - Bà ta coi vậy mà có thế lực. Phải mời bà lên trước đề phòng khi bà tức giận báo cáo trước quốc hội về hành vi xấc xược của cảnh sát.
- Ngài phải cho kiểm tra thật kỹ hành lý - nhất là hành lý xách tay - của hành khách ở dãy ghế cuối khoang tàu!
Japp nheo mắt cười:
- Sao ông lại nghĩ vậy, ông Poirot? Ta phải tìm cho ra cái ống xì đồng đó - nếu quả thật mà nói không ai dám bịa ra chuyện đó! Tôi cảm thấy như là một cơn ác mộng. Tôi cho là anh chàng văn sĩ viết truyện trinh thám không dại gì lại đi viết chuyện vụ án có thật ngoài đời hơn là tưởng tượng! Tôi thấy chuyện cái mũi tên tẩm độc sao giống anh chàng này quá!
Poirot lắc đầu chưa tin.
- Đúng thế, - ngài Japp nói theo: - Phải kiểm tra tất cả cho dù có ai không hài lòng. Phải khám xét thật kỹ - làm thẳng tay.
- Vậy ta phải lập một danh sách đầy đủ? - Poirot đề nghị danh sách các món vật dụng của từng người.
Japp nhìn có vẻ chưa tin.
- Cũng được thôi, ông Poirot. Tôi chưa hiểu hết ông muốn nhắm vô chỗ nào. Còn chúng tôi thì biết rõ phận sự của mình đang làm.
- Ông có thể nghĩ ra, ông bạn mình còn tôi thì chưa chắc. Tôi còn đang đi tìm, tôi còn chưa biết rõ nó là gì.
- Lại chuyện đó nữa, ông Poirot! Ôi, chỉ làm rắc rối thêm mà thôi, phải thế không? Thôi, cứ tính chuyện trước mắt, đừng để cho bà ta móc mắt tôi ra.
Bá tước phu nhân Horbury coi vậy mà lại tỉnh. Bà ngồi xuống ghế xong rồi trả lời trôi chảy mấy câu Japp nêu lên. Bà tự xưng là vợ ngài Bá tước Stephen Horbury, địa chỉ Horbury Chase, Sussex số 315 phố Grosvenor Square, London. Bà từ Le Pinet và Paris trở về London. Bà không hề biết chuyện gì xảy ra cho nạn nhân. Suốt chuyến bay bà không thấy có dấu hiệu gì khả nghi. Bà ngồi nhìn về một hướng cố định - hướng tới phía khoang trước - không hay biết chuyện gì xảy ra phía sau lưng - suốt chuyến bay bà không rời chỗ ngòi. Theo bà còn nhớ thì không thấy ai bước về phía khoang sau chỉ trừ có anh chàng tiếp viên. Bà không nhớ rõ cho lắm nhưng rõ ràng bà còn nhớ có hai ông khách từ dãy ghế phía sau bước ra đi vô buồng vệ sinh. Bà không để ý có ai cầm trên tay một vật gì nhìn ra giống như ống xì đồng. Không - trả lời câu hỏi của ông Poirot - là không nhìn thấy một con ong nào trên máy bay.
Phu nhân Horbury lui ra ngoài. Đến lượt nàng Venetia Kerr.
Nàng Kerr cũng lặp lại những gì đã thấy y như bà khách vừa rồi. Nàng khai tên thật là Venetia Anne Kerr, địa chỉ ở khu phố Little Paddocks, Horbury, Sussex. Nàng mới từ miền Nam nước Pháp trở về. Nàng nhớ là chưa từng gặp nạn nhân bao giờ. Suốt chuyến bay nàng không thấy có dấu hiệu gì khả nghi. Nàng chỉ nhớ có ông khách nào đấy ở phía sau lấy tay đập con ong. Lúc đó là sau bữa cơm trưa.
Nàng Kerr lui ra ngoài.
- Này ông Poirot, ông đang lưu ý đến chuyện con ong vò vẽ.
- Con ong đó có gì đáng quan tâm đâu, hở?
- Nếu ông hỏi tôi, - ngài Japp nói, đổi qua chuyện khác, - là một trong hai vị khách người Pháp đó! Chính họ có đi ngang qua chỗ Morisot ngồi. Trông hai cha con có vẻ hốc hác, tay xách chiếc cặp da cũ kỹ trông kiểu dáng kỳ lạ lắm. Cũng không có gì lạ nếu họ đã từng đến Borneo hoặc là Châu Mỹ La tinh đại khái là vậy. Rõ ràng là ta chưa nắm vững tình hình nhưng tôi dám chắc là tại Paris ta sẽ tìm ra đủ bằng chứng. Ta sẽ nhờ sở mật thám giúp một tay, cơ quan này có đủ thẩm quyền. Nhưng nếu muốn hỏi thì tôi cho biết là hai tay này tôi nắm vững?
Mắt Poirot sáng rỡ.
- Nếu điều ông vừa nói có thể tin được, nhưng phân tích ra từng điểm thì còn có chỗ sai sót. Hai cha con nhà kia không phải là bọn côn đồ đâu - hay những tên cường đạo như ông nghĩ trong đầu. Phải nói là hai cha con đều là những nhà khảo cổ uyên bác.
- Ông cứ tiếp đi - ông đang đùa với tôi đấy!
- Không dám đâu. Tôi biết rõ mặt hai cha con nhà Armand và Jean Dupont. Họ mới vừa hoàn thành một công cuộc khai quật quy mô lớn ở bên xứ Ba Tư gần đô thị cổ Susa.
- Ông kể nữa đi!
Ngài Japp chộp lấy tấm hộ chiếu.
- Ông nói nghe có lý, ông Poirot? - ngài nói. - Ông có đồng ý với tôi là hai cha con không có vẻ kênh kiệu?
- Những nhân vật có tiếng tăm thì không có chuyện đó! Như tôi đây - tôi nói thật với ngài-trước đây đã từng đóng vai thợ làm tóc đấy!
- Nói vậy không đúng. - Japp cười gằn nói. - Thôi, ta thử nhìn lại hai nhà khảo cổ nọ đi.
Ông Dupont cha khẳng định là không biết bà nạn nhân kia là ai. Ngồi trên máy bay ông không thấy có động tĩnh gì lạ, hai cha con trao đổi nhiều việc hệ trọng. Ông không ra khỏi chỗ ngồi. Mà thật, ông có thấy con ong vò vẽ lúc gần xong bữa cơm trưa. Con trai ông đập nó chết.
Ông Jean Dupont còn nhớ rõ. Ngoài ra ông không để ý mấy chuyện khác. Con ong bay vù vù quanh chỗ ngồi, bực mình ông đập nó. Còn lúc đó hai cha con đang bàn chuyện gì? Đó là chuyện mấy món gốm sứ thời tiền sử tìm thấy ở vùng Cận Đông.
Đến lượt ông Clancy, lập tức căng thẳng. Theo chỗ ngài Thanh tra mật thám được biết thì ông là một nhân chứng hiểu biết rộng rãi về mấy món ống tiêu và tên độc.
- Ông đã từng giữ ống xì đồng bao giờ chưa?
- Ờ - tôi - ờ, có. Nói đúng ra thì có.
- Thật à! - ngài Thanh tra Japp chộp ngay cơ hội.
Ông Clancy chới với.
- Ngài chớ nên - ồ - ngộ nhận chuyện của tôi hoàn toàn vô tư. Tôi có thể nói rõ.
- Thưa ngài, đúng thế. Ngài sẽ nói rõ hơn?
- Đấy, ngài sẽ thấy là tôi đang thai nghén một tác phẩm mà vụ án có nội dung trùng hợp.
- Đúng vậy.
Câu chuyện tới hồi sôi nổi. Ông Clancy vội nói ngay:
- Tôi muốn nhắc qua chuyện lấy dấu tay - nếu ngài hiểu ý tôi - tôi muốn nói là - mấy cái dấu tay - phải nhớ lại ở chỗ nào - chỗ ngay trên cái ống xì đồng, ngài phải hiểu cho và lưu ý giùm tôi - là lúc còn ở phố Charing Cross Road - cách nay đã hai năm - và rồi tôi có mua một cái ống xì đồng - nhờ một ông bạn là nghệ nhân chăm chút vẽ lại dấu vân tay tôi vô đó để đánh dấu. Tôi muốn nhắc cho ngài nhớ tên tác phẩm đó là - vụ án cánh hoa màu đỏ thắm-cùng với câu chuyện về ông bạn tôi.
- Ông còn giữ ống xì đồng chứ?
- Sao lại không, ồ - sao lại không hở - tôi phải giữ lại chữ?
- Ông cất ở đâu?
- À, tôi nhớ ra - à, nó còn đâu đây.
- Ở đâu đây là chỗ nào, thưa ông Clancy?
- Là - ối chà - ở đâu đó - tôi không nhớ ra được - tôi - tôi không được minh mẫn như trước kia?
- Nhưng nay thì không còn nữa, phải vậy chứ?
- Chắc là không rồi. Mà sao kia, đã sáu tháng nay tôi không còn nhìn thấy nó.
Ngài thanh tra Japp ném một cái nhìn lạnh lùng khả nghi về phía ông ta rồi đặt thêm câu hỏi.
- Trong suốt chuyến bay, lúc nào ông bước ra khỏi chỗ ghế ngồi?
- Không, không có - tôi nhớ lại là, có một lần?
- Vậy là có. Ông đi tới chỗ nào?
- Tôi đi lấy món đồ trong túi áo mưa chất dưới lớp thảm lót và va li nằm ngay lối ra vô ở cuối khoang tàu.
- Vậy là ông đi ngang qua gần chỗ xác nạn nhân?
- Không - tôi nhớ lại - ờ, tôi có ngang qua đó. Nhưng tôi nhớ lại trước khi xảy ra chuyện đó cũng khá lâu. Lúc đó tôi vừa ăn xong món xúp?
Tiếp theo là một loạt các câu hỏi không moi thêm được một chi tiết nào mới hơn. Ông Clancy không để ý thấy có dấu hiệu gì khả nghi. Ông mải lo nghĩ trong đầu viện lý do vắng mặt buổi thẩm vấn vì một chuyến bay qua Châu Âu.
- Lấy cớ vắng mặt hở? - giọng nói ngài thanh tra mật thám nghe có vẻ bỉ hiểm.
Chợt ông Poirot nói xen vô chuyện con ong.
Đúng là ông Clancy có nhìn thấy con ong vò vẽ bay qua. Ông ta sợ ong. Lúc đó là lúc nào? Ngay sau khi người tiếp viên dọn cà phê ra bàn. Ông giơ tay đập nhưng nó bay đi chỗ khác.
Sau khi ghi lại tên tuổi, địa chỉ, ông Clancy lui ra ngoài, vẻ mặt hớn hở.
- Kể ra cũng khó nghĩ, - ngài Japp nói, - Thật ra thì ông ta có mua một ống xì đồng nhìn ông ta có vẻ bối rối.
- Bởi vì ngài quá khắt khe đó thôi, Japp?
- Có gì đâu mà phải sợ khi ta thành thật khai báo? - ngài thanh tra mật thám nghiêm giọng nói.
Poirot nhìn ông ta cay đắng.
- Nói ngay, tôi nghĩ là ngài phải tin có chuyện đó?
- Tất nhiên rồi. Quả đúng như vậy. Đến lượt cho gọi Norman Gale.
Norman Gale khai địa chỉ số 14 ở phố Shepherd, Muswell Hill. Ông ta là một bác sĩ nha khoa. Ông vừa qua kỳ nghỉ hè ở Le Pinet trở về. Ông ghé lại Paris một ngày để xem mấy món dụng cụ nha khoa.
Ông không biết nạn nhân là ai và cũng không thấy có dấu hiệu khả nghi trên tàu. Nói đúng ra, thì chỗ ông ngồi quay mặt về hướng ngược lại - nhìn về phía khoang trước. Có một lần ông rời chỗ ngồi đi vô phòng vệ sinh, rồi quay trở lại chỗ cũ, không thấy mon men bước ra phía khoang sau. Ông không hay biết chuyện con ong.
Đến lượt James Ryder bước vô, vẻ mặt cau có. Ông vừa trở về từ Paris sau một chuyến du lịch thương mại. Ông không biết nạn nhân. Đúng thế, ông ngồi ở dãy ghế trước mặt nạn nhân, nếu muốn nhìn thấy người ngồi sau thì phải đứng dậy ngoái cổ nhìn ra sau. Ông không nghe thấy gì cả - tiếng la hét hay than van. Chỉ có hai người tiếp viên đi ra phía khoang sau. Ngồi ở dãy ghế ở bên kia lối đi là hai cha con người Pháp, ngồi nói chuyện suốt chuyến bay. Người con trai vung tay đập chết con ong, lúc đó đã xong bữa cơm trưa. Trước đó gã không để ý có con ong, gã không biết hình dạng cái ống tiêu ra làm sao, chưa được nhìn thấy lần nào nên không thể kể lại đã nhìn thấy ống xì đồng trên máy bay hay không.
Mọi người đang tập trung chú ý thì nghe có tiếng gõ cửa, nhân viên cảnh sát vừa bước vô không kìm được vẻ tự hào.
- Ông trung sĩ vừa tìm thấy thứ này, là vật ngài đang chờ được trông thấy?
Gã đạt cái vật đó xuống bàn, cẩn thận gỡ lấy chiếc khăn mùi soa bọc bên ngoài ra.
- Thưa ngài, không thấy có dấu tay, ông trung sĩ đã kiểm rồi, ông dặn tôi phải giư thật khéo.
- Rõ ràng đây là một kiểu ống xì đồng của thổ dân, - Japp hít vô một hơi thật sâu.
- Lạy chúa! Vậy mà có thật đấy. Tôi không thể tin ngay bằng mắt mình!
Ông Ryder nghiêng người ra trước chăm chú nhìn theo.
- Đấy là vũ khí của thổ dân Châu Mỹ hay sao? Tôi có nghe qua mà chưa trông thấy bao giờ. Vậy là tôi có thể nói ra đây là không thấy ai sử dụng cái món như thế này?
- Vậy thì nó ở đâu ra? - Ngài Japp hỏi giọng hơi xẵng.
- Nó nằm khuất dưới chỗ ngồi.
- Chỗ nào vậy?
- Chỗ ghế ngồi số 9.
- Lạ thật? - Poirot cất tiếng.
Ngài Japp quay qua phía ông.
- Lạ là thế nào?
- Ghế ngồi số 9 là chỗ của tôi.
- Thế đây, với ông thì kể ra cũng lạ thật, tôi phải nói là như vậy. - ông Ryder lên tiếng.
- Cảm ơn ông Ryder, vậy là đủ rồi.
Chờ ông Ryder bước ra ngoài rồi ngài cười khà nhìn qua Poirot.
- Đấy có phải là phần việc của ông không, ông bạn già?
- Này ông bạn-Poirot nghiêm giọng nói, - nếu mà tôi là sát thủ thì tôi không dùng món vũ khí của thổ dân da đỏ đâu.
- Tuy đó là một cách hạ sách. - ngài Japp nhất trí. - Nhưng kể ra cũng được việc?
- Bởi vậy nên người ta mới căm giận.
- Đấy mới gọi là tay cao thủ. Đúng thế, phải vậy thôi. Trời, tay này mới thật là điên rồ. Có còn ai nữa không? Còn một cô nàng nữa mà thôi. Cho mời vào.
Đến lượt Jane Grey - tên nghe như trong truyện xưa.
- Cô nàng xinh lắm. - Poirot nói.
- Thiệt không ông bạn? Vậy là ông đâu có ngủ li bì suốt chuyến bay, hở?
- Cô nàng xinh thật - nhưng mà lại dở hơi. - Poirot nói.
- Dở hơi hả? - ngài Japp hỏi lại chới với.
- Ôi, này ông bạn, đàn bà con gái mà dở hởi thì chẳng khác nào bọn đực rựa - không thể là tội phạm.
- Thôi được, cứ cho là ông nói có lý. Cô nàng đến kia rồi.
Nàng Jane trả lời trôi chảy mấy câu chất vấn. Tên thật là Jane Grey, là thợ làm tóc cho chủ hiệu uốn tóc Antoine ở phố Bruton. Nhà nàng ở số 10 đường Harrogate, N. W. 5. Nàng mới từ Le Pinet về lại nước Anh.
- Le Pinet - chà!
Nàng được hỏi thêm về chuyện tấm vé số trúng thưởng.
- Vé số giả, loại vé Irish Sweep đó mà. - ngài Japp nói lầm bầm trong miệng.
- Tôi cho là một dịp may hiếm có, - Japp nói. - các ông đã bao giờ đặt cược một con ngựa giá vé nửa đồng cu-ron chưa?
Ngài Japp đỏ mặt chới với trả lời câu hỏi. Lúc đưa ống xì đồng ra, nàng Jane lắc đầu chưa nhìn thấy lần nào. Nàng không biết mặt nạn nhân, hình như có trông thấy một lần ở phi trường Le Bourget thì phải.
- Cô nhìn thấy có nét gì khác lạ không?
- Có, vì trông bà xấu kinh khủng. - nàng Jane nói thiệt tình.
Japp không khai thác được gì hơn nữa nên nàng được cho ra về.
Ngài Japp ngồi nhớ lại chuyện cái ống tiêu.
- Ta chịu thua, - ngài nói - một cái mẹo vặt mà lại gặp may. Ta phải tìm cho ra nó là cái gì? Ai đi du lịch một vòng thế giới và từng đến nơi có cái món này đây? Ta cần biết rõ xuất xứ cái món đó. Phải nhờ tới chuyên gia mới biết chắc của một người Malaysia, thổ dân Châu Mỹ hay là Châu Phi.
- Đồng ý thôi, - Poirot nói. - Nhưng nếu ngài xem xét tỉ mỉ nhận ra một mảnh giấy nhỏ xíu dán lên trên đó. Tôi có thể nói đấy là một phần mảnh giấy ghi bảng giá xé rách còn sót lại. Tôi chợt nghĩ ra mảnh giấy đó xuất phát từ một nơi hẻo lánh qua tới mấy chỗ buôn bán đồ cổ. Vậy thì càng thuận lợi cho ta tìm ra gốc gác. Tôi còn một thắc mắc nữa?
- Ông cứ hỏi.
- Ngài còn giữ danh sách người đi máy bay - danh sách hành lý không?
- Ôi, chẳng cần bày ra ngay lúc này để đó sẽ tính sau. Ông muốn tìm thấy cho bằng được phải không?
- Phải chứ. Tôi đang bối rối, bối rối ghê lắm. Giá mà tôi có đủ chứng cứ.
Ngài Japp không để tai nghe, ông chăm chú nhìn mảnh giấy ghi bảng giá bị xé rách.
- Ông Clancy kể lại có mua một ống xì đồng. Mấy ông nhà văn viết truyện trinh thám... cứ cho bọn cớm là những tên điên rồ... chả biết làm ăn gì sất. Sao, nếu tôi phải báo cáo lên cấp trên câu chuyện giữa ngài thanh tra với thuộc cấp thì tôi sẽ bị sa thải ra khỏi ngành ngay. Một bọn nhà báo dốt đặc! Đấy là một dạng chuyện vụ án phi lý do tay nhà báo tung tin thất thiệt tưởng đâu là có thể qua mắt người đọc.