CHƯƠNG 26 SAU CUỘC NÓI CHUYỆN TRONG BỮA CƠM
Qua bữa sau Poirot từ giã Paris. Nàng Jane ở lại lo hàng đống công việc bày ra trước mắt. Với nàng thì chuyện đó bình thường, dù đã làm hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ. Nàng gặp Jean Dupont tới hai lần. Gã nhắc nàng chuyến đi khảo cổ sắp tới. Jane chưa vội nói ra cho gã mừng nếu chưa có lệnh của ông Poirot, nàng nói trớ qua chuyện khác.
Năm bữa sau nàng nhận được bức điện triệu hồi về Ănglê.
Norman gặp nàng tại khách sạn Victoria bàn qua mấy việc.
Vụ tự tử báo chí ít nhắc tới. Có một bài đăng tin một công dân Canada, bà Richards, tự tử chết trên chuyến tàu tốc hành Paris - Boulogne, chỉ vắn tắt có vậy. Không thấy nhắc liệu có dính dáng gì tới vụ án trên máy bay.
Cả ông Norman và nàng Jane đều tỏ ra vui mừng vậy là khỏi còn phải lo sợ gì nữa. Ông Norman thì không tỏ ra lạc quan như nàng.
- Dư luận cho bà đã giết chết mẹ mình, đến lúc này thì ai còn theo dõi chuyện vụ án kia nữa nếu không được công khai thì chẳng dại gì ta phải khổ sở đến vậy. Theo dư luận quần chúng vẫn nghi cho ta là những nghi can như ngay từ lúc đầu!
Mấy bữa sau gặp lại Poirot, ông mới kể ra hết Poirot cười.
- Tôi thấy ông như mấy người kia thôi. Ông cho tôi lão già chẳng làm nên tích sự! Nghe này, tối nay tôi mời ông ăn cơm và cả ngài Japp và ông bạn Clancy, tôi sẽ kể cho ông nghe mấy chuyện lý thú.
Bữa cơm trôi qua trong không khí vui vẻ. Ngài Japp ra vẻ ta đây lại có óc khôi hài, ông Norman thì lắng nghe còn Clancy thì tỏ ra thích thú được nghe kể lại mấy mũi tên tẩm độc.
Ông Poirot không có chủ tâm gây sự tò mò nơi ông bạn nhà văn kia.
Sau bữa cơm mọi người ngồi lại uống cà phê, ông Poirot đằng hắng lấy giọng ra vẻ ta đây.
- Thưa quý vị, - ông nói. - Ông Clancy đây muốn bày tỏ mối quan tâm đến cách làm việc của tôi gọi là "phương pháp Watson" (thế đấy, có phải không? ). Nếu quý vị không cảm thấy phiền - chợt ông ngắt ngang, ông Norman với Japp nhanh miệng nói xen vô. - Không, không đâu, chuyện đó. Thật là hấp dẫn nữa là đằng khác-để nghe tôi kể tóm tắt lại phương pháp làm việc của tôi trong vụ này.
Ông mở sổ tay ra coi lại. Ngài Japp nói nhỏ vô tai cho ông Norman vừa đủ nghe.
- Gã đang bịa ra đó. Phải không? Tên gã có thêm chữ lót là "nổ".
Poirot nhìn theo ông kia như muốn trách "Khà!".
Ba ông khách nhìn theo về phía ông, ông mở lời:
- Tôi sẽ kể lại từ đầu cho quý vị nghe. Trở lại với chuyến bay trên phi cơ Prometheus ngay thời điểm xảy ra vụ án. Tôi kể lại đây mấy lời nhận xét chính xác của tôi ngay lúc đó - nói đúng ra làm thế nào để mà xác định được trong những diễn biến sắp tới đây.
- Lúc đó là vừa tới phi trường Croydon. Bác sĩ Bryant được anh chàng tiếp viên cho hay rồi cả hai cùng bước tới chỗ ngồi nạn nhân, tôi đi theo sau. Tôi chợt nghĩ biết đâu là - có ai mà biết được? - trường hợp với lối suy diễn từ trước. Tôi có thói quen suy diễn theo kinh nghiệm nghề nghiệp về những cái chết. Tôi phân ra hai loại - những cái chết liên quan đến nghiệp vụ và ngoài khả năng nghiệp vụ - cái sau này thì nhiều vô số kể - vậy mà mỗi khi phải đương đầu với một cái chết thì y như rằng lúc đó tôi ngẩng cao đầu đánh hơi như lũ chó.
- Bác sĩ Bryant xác định gã tiếp viên sợ hãi khi hay được bà khách đã chết. Ông không thể xác định ngay mà còn phải chờ khám nghiệm thật kỹ. Ngay lúc đó chợt đâu Jean Dupont nghĩ ra - cái chết của nạn nhân là do ong vò vẽ chích. Để củng cố thêm, cần lưu ý có một con ong vò vẽ do chính tay gã đập chết trước đó không lâu.
- Đến đây một khía cạnh có thể chấp nhận được - một giả thiết đáng tin cậy. Một cái vết tròn bên cổ nạn nhân - và là trên máy bay lúc đó có ong.
- Cũng may lúc đó tôi nhìn xuống thấy xác một con ong khác nữa. Nhìn kỹ ra đó là một mũi tên do thổ dân làm ra buộc kèm theo một mảnh vải tơ hai màu vàng đen.
- Căn cứ vô đó ông Clancy mới cho là cái tên nhọn dùng ống xì đồng thổi bay đi là thứ vũ khí thổ dân sống trong bộ lạc, vậy thì quý vị đã rõ cái ống xì đồng đã được tìm thấy như thế nào.
- Lúc đến phi trường Croydon nhiều ý tưởng mới dồn dập diễn ra trong đầu. Khi đã xác định rõ quan điểm tôi cảm thấy đầu óc mình sáng thêm ra.
- Ông kể ra đi, ông Poirot, - ngài Japp cười khẩy nói, - ông đừng có khiêm nhường không đúng lúc.
Poirot đưa mắt nhìn rồi nói tiếp:
- Có một điểm nổi bật nhất (như mọi người có thể nghĩ ra). Thủ phạm trong vụ án này giở trò táo bạo thật - còn một điểm đáng rùng mình hơn nữa là trên máy bay không ai nhìn thấy.
- Còn hai điểm mà tôi thấy cần lưu ý. Con ong vò vẽ xuất hiện đúng lúc. Một chi tiết khác nữa là việc nhặt được cái ống xì đồng. Sau phiên thẩm vấn tôi nhắc với ngài Japp, ông bạn đồng nghiệp, làm sao lại có chuyện thủ phạm không quăng bỏ nó đi qua lỗ thông gió trên kính cửa sổ máy bay? Cái mũi tên nhọn khó mà nhận ra dấu vết, có cái ống xì đồng giấy dán nhãn giá chưa bóc ra hết lại là một chi tiết khác nữa.
- Vậy ta tính sao đây? Rõ ràng thủ phạm cố ý để mọi người nhìn thấy cái ống xì đồng.
- Nhưng mà sao vậy? Chỉ một câu trả lời chính xác. Nếu tên độc và cái ống xì đồng được tìm thấy ta có thể cho là nạn nhân bị giết chết vì tên độc thổi ra từ ống xì đồng. Thế mà đối chiếu thực tế nạn nhân không bị giết chết bằng cách đó.
- Ngoài ra theo kết quả khám nghiệm y khoa xác nhận nạn nhân chết vì tên tẩm độc, lúc đó nhắm mắt tôi tự hỏi - làm cách nào để mà bắn cái tên tẩm độc vô ngay chỗ tĩnh mạch cảnh được. Câu trả lời có ngay tức thì: đưa vô bằng tay.
- Vậy thì ta cần phải tìm cho ra được cái ống xì đồng. Muốn sử dụng ống thổi xì đồng phải tính toán đúng cự ly. Nếu giả thiết tôi đưa ra là đúng thì thủ phạm chính là kẻ đi thẳng tới ngay chỗ bàn Madame Giselle đang ngồi nghiêng người xuống ra tay giết ngay.
- Trên máy bay có một kẻ đó sao? Có chứ, có tới hai lận. Hai anh chàng tiếp viên. Một trong hai anh chàng đó bước tới chỗ Madame Giselle ngồi nghiêng người xuống như công việc bình thường không ai để ý.
- Ngoài ra còn nghi cho ai nữa không?
- Có chứ, còn có ông Clancy, chỉ mỗi mình ông đi ngang qua ngay chỗ Madame Giselle - vả lại tôi còn nhớ chính ông là người đầu tiên nêu ra giả thiết nghi vấn thủ phạm sử dụng ống xì đồng thổi tên độc.
Ông Clancy đứng ngay dậy.
- Tôi không đồng ý. - Ông kêu lên. - Tôi phản đối. Mấy ông sỉ nhục tôi.
- Ông ngồi xuống, - Poirot nói. - Tôi đã nói xong đâu. Tôi trình bày tất cả những bước trước khi đưa ra kết luận.
- Tôi đưa ra ba nghi can có nhiều khả năng nhất - anh chàng Mitchell, Davis và ông Clancy. Thoạt nhìn không ai có dấu hiệu khả nghi là thủ phạm, cần phải tiến hành điều tra làm rõ.
- Kế đến tôi nghĩ là có thể trên máy bay có ong vò vẽ, giả sử là có đi. Lúc ban đầu không ai để ý cho đến giờ uống cà phê. Ngay cái chuyện này thấy cũng lạ. Tôi đưa ra một số giả thiết. Thủ phạm muốn bày ra hai cách giải quyết vụ án. Ví dụ đơn giản nhất là Madame Giselle bị ong chích, chết do tim ngừng đập. Giải pháp này phải dựa vô chỗ thuận lợi cho thủ phạm có thể hoặc không lấy lại được cái tên độc. Ngày Japp và tôi nhất trí chuyện này dễ thôi - nếu không đặt ra nghi vấn thủ phạm giở trò bạo lực. Lạ hơn nữa là hung thủ để lại một mảnh vải lụa chọn đúng màu tôi cho là hắn khéo léo thay vô cho hợp màu anh đào giả vờ như là quanh đây có con ong vò vẽ.
- Thủ phạm liền sau đó bước tới bên chiếc bàn, rút tên độc ra gói vô người rồi thả con ong bay ra! Thuốc độc cực mạnh ngấm thẳng vô bên trong nội tạng, nạn nhân chết ngay tức thì. Nếu bà Giselle kêu lên một tiếng - có thể không ai ghe thấy vì tiếng ồn. Còn nếu có người nghe thấy đó là con ong bay nghe kêu vù vù, chích vô người nạn nhân.
- Đấy, như tôi đã trình bày, là phương án số 1. Nhưng giả sử rằng chuyện còn sờ sờ ra đó, mũi tên độc được tìm thấy trước khi thủ phạm nhặt về lại. Đấy mới là chuyện khó ăn nói. Giả thiết một cái chết bình thường là không thể chấp nhận được. Thay vì quăng cái ống thổi qua cửa sổ thì thủ phạm lại quăng vô một nơi dễ tìm thấy nếu có cuộc kiểm tra trên máy bay, lúc đó ta kết luận ngay chính cái ống xì đồng là đầu mối của hành vi phạm tôi. Ta phải tính tới yếu tố khoảng cách lúc cái ống thổi được phát hiện, tức là từ hướng nào nhắm tới.
- Tôi đặt ra một giả thiết là trong vụ này tôi nghi cho ba người và chỉ có thể thêm một người thứ tư - chàng Jean Dupont, chính là người đưa ra giả thiết "cái chết do ong chích" vì ai là người ngồi ở chỗ lối đi gần chỗ ngồi bà Giselle chỉ cần xê dịch một chút là có thể ra tay không ai nhìn thấy. Ngoài ra, theo tôi nghĩ thì hắn không dám làm vậy đâu.
- Tôi đang xét tới vụ con ong. Nếu thủ phạm đem theo con ong trên máy bay sau đó nhắm đúng thời điểm thuận lợi thử cho nó bay đi - vậy thì hắn phải có đồ đựng như một cái hộp nho nhỏ chẳng hạn.
- Cho nên tôi mới lưu ý những món trong túi quần áo và hành lý mang theo trên máy bay từng người.
- Đến đây tôi chạm phải một bước tiến triển mới hoàn toàn bất ngờ. Tôi tìm được cái mình đang cần - nhưng mà lại không đúng đối tượng. Tôi tìm thấy một bao diêm quẹt hiệu Bryant & May trong túi quần của Norman Gale. Nhưng theo lời khai của nhân chứng trên tàu thì không ai nhìn thấy ông Gale đi ra phía sau khoang tàu. Ông chỉ có một lần đi toilet rồi trở lại chỗ ngồi.
- Cho dù sự việc có vẻ phi lý là có thể biết ngay là ông Gale có cách riêng của ông ta trong vụ này - những món đựng bên trong chiếc cặp.
- Chiếc cặp của tôi à? - Norman Gale vừa nói. Nhìn nét mặt ông có vẻ bối rối. - Sao vậy, tôi còn không nhớ ra trong đó có những thứ gì?
Poirot nhếch mép cười thân mật.
- Hãy gượm đã nào. Tôi chưa nói hết, đấy mới chỉ là dạo đầu.
- Tôi nói tiếp đây - trong đầu tôi nghĩ ra có tới bốn nghi can trong vụ này - dọc theo tiêu chuẩn có thể phạm tội: hai anh chàng tiếp viên, Clancy và Gale.
- Bây giờ tôi xét đến khía cạnh chỗ ngồi chéo góc-đó chính là động cơ - nếu như động cơ trùng hợp với khả năng gây án - thì, tôi nghĩ ra ngay đó là thủ phạm! Nhưng mà hỡi ôi, tôi chưa tìm ra nghi can đúng tiêu chuẩn. Ông bạn đồng nghiệp, ngài Japp cứ đổ cho tôi chỉ làm cho vụ việc thêm rắc rối. Nhưng ngược lại, tôi nghĩ ra chuyện động cơ theo lối cảm nhận một cách thông thường. Nếu Madame Giselle bị giết chết ai là người được hưởng lợi? Rõ ràng là đứa con gái vô danh kia được hưởng-chỉ có đứa con này được chia gia tài. Ngoài ra còn mấy người có thể là dưới quyền của Madame Giselle mà ta biết được. Đến đây ta loại dần ra. Trong số hành khách trên chuyến bay tôi cam đoan biết rõ một người liên quan tới bà Giselle. Đó là Phu nhân Horbury.
- Trong túi xách của Phu nhân Horbury thì động cơ quá rõ. Tối hôm trước đó bà có đến nhà Giselle ở Paris. Bà đang gặp lúc sa cơ có một ông bạn là diễn viên còn trẻ tuổi có thể đóng giả vai một người Mỹ đến gian hàng mua ống xì đồng - và biết đâu còn lo lót cho anh chàng nhân viên ở hàng không Universal Airlines ghi cho bà Giselle đi chuyến bay 12 giờ trưa.
- Vấn đề này tôi chia ra làm hai vế. Tôi không hiểu làm thế nào Phu nhân Horbury có thể là thủ phạm và tôi cũng không hiểu do động cơ nào hai anh chàng tiếp viên, ông Clancy hoặc ông Gale lại nhúng tay vô vụ này.
- Vậy mà từ lâu trong tiềm thức còn ám ảnh mãi chuyện đứa con vô danh của bà Giselle sắp được hưởng gia tài. Hay là trong số bốn nghi can này đã có vợ - nói thật vậy biết đâu một trong số người vợ này là Anne Morisot? Còn nếu cha bà là một người Ănglê, đứa con này phải được nuôi dưỡng bên đó. Anh chàng Mitchell có vợ - là dân gốc ở Dorset, tôi loại khỏi danh sách. Anh chàng Davis đang tán tỉnh con bé mà cha mẹ còn sống. Còn ông Clancy chưa vợ. Ông Gale thì say mê nàng Jane Grey như điếu đổ.
- Có thể nói tôi điều tra lai lịch nàng Grey rất kỹ, tình cờ tôi được nghe nhiều mẩu chuyện mới biết nàng là đứa trẻ từng được nuôi dưỡng trong viện mồ côi gần Dublin. Tôi mới hiểu ngay nàng Grey không phải là đứa con của Madame Giselle.
- Tôi đưa ra ngay bảng kết quả điều tra - hai anh chàng tiếp viên chẳng được lợi lộc gì sau cái chết của Madame Giselle - có chăng anh chàng Mitchell được một phen hú vía. Còn ông Clancy đang viết một cuốn sách nội dung hái ra tiền, ông Gale thì khó tiếp tục hành nghề. Chẳng làm nên tích sự.
- Vậy... cho tới lúc này, tôi mới nhận ra ông Gale chính là thủ phạm-từ manh mối bao diêm quẹt trống không - những món tìm thấy trong chiếc cặp. Rõ ràng ông ta thua cuộc chứ không được gì hết do cái chết của bà Giselle. Coi vậy chứ không phải vậy đâu.
- Tôi muốn khai thác làm quen. Theo kinh nghiệm tôi được biết trong lúc đang nói không ai để ý chuyện lơ là mất cảnh giác... lúc đó ai cũng ham kể chuyện riêng của mình.
- Tôi tranh thủ chiếm được lòng tin nơi ông Gale, giả vờ dựa hơi ông rồi còn muốn nhờ giúp đỡ nữa là đằng khác. Tôi nài nỉ ông giúp một tay đi tống tiền phu nhân Horbury. Chính trong vụ này lần đầu ông đã phạm một lỗi lầm.
- Tôi đề nghị ông hóa trang sơ sài thôi. Ông ăn mặc sao mà trông thật kỳ cục! Y như rằng là một trò hề. Tôi chưa thấy ai đóng kịch dở như ông. Lý do tại sao ư? Bởi ông có tịch nên mới rục rịch, thành ra đóng kịch dở ẹc. Thấy vậy tôi mới chỉnh lại cách hóa trang cho khéo mới ra trò được. Lần này ông đóng khéo khiến Phu nhân Horbury không nhìn ra ông là ai. Từ đó tôi mới hiểu ra ông đã từng đóng giả một người Mỹ ở Paris, góp phần trong vụ án trên chuyến máy bay Prometheus.
- Ngay thời điểm này tôi đang lo lắng cho số phận Mademoiselle Jane. Hoặc nàng đang tiếp tay với ông, hoặc là nàng hoàn toàn vô tư-nếu vô tư hóa ra nàng là nạn nhân. Đến một hôm nào đó lúc bừng tỉnh dậy nàng mới hay đang làm vợ một tay sát thủ.
- Vì muốn ngăn trở một cuộc hôn nhân vội vã nên tôi nảy ra sáng kiến thuê mướn nàng làm thư ký.
- Ngay lúc chúng tôi có mặt tại chỗ chợt đâu đứa con gái lưu lạc nay trở về đòi hưởng gia tài. Tôi đang gặp phải một chi tiết trùng hợp không biết nên đặt vô đâu. Tôi xếp xuống hàng cuối cùng - nhưng muộn mất rồi...
- Trước tiên lúc biết được nàng có mặt trên chuyến bay mà lại khai dối nên mọi giả thiết tôi đưa ra trước đều bị xáo trộn hoàn toàn không thể chối cãi chính nàng là thủ phạm.
- Nếu vậy thì ắt phải có người đồng phạm - chính là anh chàng đến mua ống xì đồng còn lo lót tiền cho người bán hàng Jules Perrot.
- Anh chàng kia là ai? Biết đâu là chồng nàng?
- Thế rồi - chợt tôi tìm ra lời giải đáp đúng nhất. Quả vậy, nếu cho kiểm tra lại điểm này.
- Nếu tôi tính toán đúng Anne Morisot không có mặt trên chuyến bay đó.
- Tôi gọi cho Phu nhân Horbury và nhận được câu trả lời. Madeleine, người hầu của Phu nhân có đi trên chuyến bay đó theo lệnh bà vào giờ chót.
Ông không kể nữa.
Clancy mới nói xen vô.
- Khà - nhưng mà - không chắc có phải vậy không?
- Chừng nào ông mới hết gán cho tôi là thủ phạm? - Norman hỏi lại.
Poirot đi vòng qua chỗ ông.
- Tôi không chịu bỏ. Ông là thủ phạm... khoan đã - tôi sẽ kể ra hết cho ông nghe. Tuần vửa rồi tôi với ngài Japp bận việc - quả thật ông theo nghề nha sĩ là để chiều theo ý nguyện của ông chú - John Gale. Ông lấy tên chú để theo nghề - ông là con của người chị - không phải con người anh. Tên thật của ông là Richards-lúc lấy tên Richards ông mới gặp Anne Morisot mùa đông năm trước tại Nice lúc nàng đi theo hầu bà chủ. Theo như câu chuyện nàng kể lại lúc còn con gái thì đúng hoàn toàn nhưng về sau lại do ông nhào nặn ra. Nàng đã biết tên mẹ hồi thời con gái. Lúc đó bà Giselle ở Monte Carlo - cho nên người ta mới biết rõ tên thật của bà. Ông mới biết là sắp được hưởng một món tiền lớn, nó gợi lại thói mê cờ bạc đỏ đen nơi ông. Nhờ Anne Morisot nên ông mới biết Phu nhân Horbury có làm ăn với bà Giselle. Chính ông tính toán chuyện gây án. Bà Giselle bị giết chết mọi nghi ngờ đổ cho Phu nhân Horbury. Âm mưu của ông đã đến lúc chín muồi. Ông lo lót cho nhân viên hãng máy bay Universal Airlines đăng ký vé để Giselle đi cùng chuyến với Phu nhân Horbury. Chính Anne Morisot nói lại với ông nàng đáp tàu hỏa đi Ănglê-ông không ngờ phút chót nàng đi máy bay-kế hoạch của ông hoàn toàn bị phá sản. Nếu trước đó đứa con thừa tự của bà Giselle đi trên chuyến bay này ắt hẳn mọi nghi vấn đổ dồn cho nàng. Ban đầu ông đinh ninh nàng đòi hưởng gia tài dù không có mặt tại chỗ viện lý do lúc xảy ra vụ án nàng đáp tàu hỏa hoặc đi tàu biển, nên mới lấy nàng làm vợ.
- Thời gian này cô nàng khoái ông. Nhưng ông khoái nàng chỉ vì tiền - ông đâu có thương yêu gì.
- Kế hoạch của ông lại gặp rắc rối nữa. Tại Le Pinet nhìn thấy Mademoiselle Jane Grey là ông mê tít thò lò. Chính vì say mê nàng nên ông lại lao vô một thế trận còn khủng khiếp hơn nữa.
- Ông đang tính chơi trò vừa được gái vừa được tiền. Ông giết người chỉ vì tiền, còn muốn xóa sạch dấu vết vụ án. Ông khủng bố tinh thần Anne Morisot nếu nàng tự khai ra lý lịch lúc này sẽ bị nghi cho là thủ phạm. Ông rủ rê nàng xin phép nghỉ vài bữa qua Rotterdam, tại đây ông cưới nàng.
- Kế đến ông còn giở trò xúi giục đòi hưởng gia tài buộc nàng không được kể lại đã từng làm con hầu cho Phu nhân, để chứng minh là lúc xảy ra vụ án hai vợ chồng đang ở nước ngoài.
- Trời hại, ngay cái ngày xếp đặt cho Anne Morisot qua Paris đòi gia tài trùng hợp với ngày tôi qua Paris với nàng Grey. Vậy là ông trật chìa. Chỉ còn có tôi và nàng Jane may ra nhận dạng được Anne Morisot đúng là người hầu của Phu nhân Horbury.
- Ông phải tìm mọi cách gặp ngay nàng cho đúng lúc, nhưng trời hại. Rốt cuộc một mình ông đi Paris trong khi đó nàng đã đi nhờ luật sư. Lúc trở lại nàng cho ông hay mới vừa gặp tôi. Lúc này tình hình vô cùng căng thẳng ông quyết tâm ra tay cho nhanh.
- Ý đồ của ông là người vợ mới cưới không thể thừa hưởng gia tài được bao lâu. Ngay sau lễ cưới cả hai lập di chúc chia đôi tài sản! Một việc làm thật cảm động.
- Tôi biết ngay ông muốn sống nhàn nhã. Ông qua Canada - giả vờ như mọi tính toán của ông hỏng cả. Qua đến đây ông lấy lại tên cũ và gặp lại người vợ trước. Dẫu sao tôi không thể tưởng tượng ra trước đó về chuyện bà Richards chết một cách thương tâm, để lại gia tài cho người góa vợ đau khổ biết mấy. Rồi ông trở lại Ănglêlấy tên Norman Gale may mắn vớ được một cú làm ăn lớn ở Canada! Đến lúc này ông không muốn bỏ phí thời gian.
Poirot không nói nữa, Norman Gale ngả người ra sau hất hàm cười.
- Ông tài tình thật, thấy rõ hết ruột gan người khác. Ông theo nghề ông Clancy thì phải! - Chợt ông buông một câu giọng cay đắng. - Tôi chưa hề nghe thấy những điều vô nghĩa như một mớ hổ lốn. Những cái ông tưởng tượng trong đầu không thể cho đó là chứng cứ được!
Poirot tỉnh như sáo. Ông nói ngay:
- Có thể là không. Nhưng nghe đây, tôi có được một mớ chứng cứ.
- Vậy sao? - Norman cười khẩy. - Biết đâu ông nắm được chứng cứ tôi đã biết bà Giselle như thế nào trong khi mọi người trên máy bay không ai trông thấy tôi bước tới gần chỗ bà ngồi?
- Tôi kể cho ông nghe cách ông ra tay giết chết bà ấy. - Poirot nói. - Trong chiếc cặp ông đựng những thứ gì? Có phải ông đang đi chơi xa? Ông mang theo chiếc áo bờ lu nha sĩ làm gì? Tôi đang còn thắc mắc. Tôi nghĩ ngay ra câu trả lời - bởi nhìn thấy nó giống hệt chiếc áo của anh chàng tiếp viên.
- Đấy là việc ông sắp đặt. Lúc cà phê được dọn ra, người tiếp viên đi qua chỗ khác, ông bước vô phòng toilet khoác lên người chiếc áo bờ lu, đắp bông gòn vô hai bên má rồi trở ra thò tay lấy một chiếc muỗng cà phê trên giá kệ để đồ ăn, bước nhanh đi dọc theo lối đi giữa cho kịp theo chân anh chàng tiếp viên kia đang bước tới chỗ bàn bà Giselle. Ông rút tên độc ra gí vô cổ nạn nhân, tay kia mở hộp diêm quẹt cho con ong bay ra xong rồi nhanh chân trở về phòng toilet thay áo, thong thả bước ra trở lại chỗ ngồi. Mọi việc chỉ mất có mấy phút là xong.
- Chẳng có ai trên tàu để ý chuyện anh chàng tiếp viên nào là anh nào. Chỉ có mỗi một người để ý nhận ra ông, chính là Mademoiselle Jane. Nhưng mà ông đã biết mấy bà! Mỗi khi ngồi một mình (nhất là được đi cùng với anh chàng điển trai), nàng tranh thủ lấy gương ra soi ngắm lại dung nhan, điểm thêm chút phấn son.
- Đúng thế, - Gale nhếch mép cười. - Ông vừa nghĩ ra một ý tưởng thật lạ thường; nhưng mà làm gì có chuyện đó. Ông còn nói gì nữa không.
- Còn nhiều lắm, - Poirot nói. - Như tôi đã nói ban nãy, trong lúc mải lo kể chuyện người ta sơ ý lỡ miệng... trong một lúc sơ ý ông kể lại đã từng sống ở trang trại bên Nam Phi. Có một chi tiết ông không kể ra, nhưng mà tôi nghĩ ra được nơi đó là trại nuôi rắn.
Cho đến lúc này nét mặt Norman Gale chợt biến sắc. Ông muốn nói mà không nói thành tiếng.
Poirot nói theo.
- Thời gian đó ông mang tên thật là Richards; tấm ảnh chụp truyền qua đường dây nói điện thoại đã được nhận dạng. Ở Rotterdam cũng xác nhận hình chụp tên là Richards với vợ là Anne Morisot.
Norman Gale muốn thốt một tiếng đành chịu lặng im. Hắn đã mất hết nhân cách không còn cái vẻ điển trai khỏe mạnh ngày nào, hắn nhìn lấm lét như loài chuột sống ở hang chực rình bỏ chạy đi mà đi đâu cho thoát.
- Dục tốc bất đạt, mọi việc hỏng bét, - Poirot nói. - Mẹ bề trên ở viện mồ côi Institut de Marie vội vã báo tin ngay cho Anne Morisot. Không thể làm ngơ trước cái tin đó, ông ép buộc nàng nếu không chịu ém nhẹm hết mọi chuyện thì một trong hai người sẽ bị nghi là thủ phạm, rủi thay cả hai vợ chồng đều có mặt trên chuyến bay bà Giselle bị giết chết. Lúc gặp lại nàng, ông mới hay tôi tham dự phiên thẩm vấn, ông mới lo sốt vó chạy đầu này đầu kia lo sợ tôi sẽ biết hết mọi chuyện của Anne - có lẽ lúc này nàng mới nghi cho ông. Ông hối thúc nàng rời khỏi khách sạn đón tàu hỏa đi ngay, ép nàng một liều acid hydrocyanic rồi đặt vô tay nàng cái lọ không.
- Toàn là chuyện bịa đặt ghê gớm.
- Ồ, không đâu, cổ nàng còn thấy dấu bầm tím.
- Quân nói láo, tôi cho ông biết.
- Dấu tay ông còn để lại trên chiếc lọ kia.
- Ông bịa đặt. Tôi mang theo...
- À, ông mang găng tay hở? Này ông ơi, lời thú tội vừa rồi đủ kết liễu đời nhà ông.
- Ông là một tên lừa bịp! - Giận sôi gan mặt mũi hắn nhìn không ra, Gale nhảy bổ vô người Poirot, ngài Japp thanh tra gạt ra, khóa chặt hắn lại, ngài nói:
- James Richards, tục danh là Norman Gale. Tôi có trát bắt ông vì tội cố sát. Tôi cho ông hay trước mọi lời lẽ của ông từ đây sẽ được ghi vô biên bản.
Hắn rùng mình run lẩy bẩy muốn khuỵu xuống đất. Hai nhân viên công lực đang đứng chờ bên ngoài. Norman Gale được dẫn giải đi.
Còn lại một mình với Poirot, ông Clancy mới hít vô một hơi định thần lại.
- Ông Poirot, - gã nói. - Từ trước tới giờ tôi mới thấy một chuyện lạ đời. Ông thật tài tình.
Poirot rất khiêm nhường nhếch mép cười.
- Không, không. Ngài Japp xứng đáng hơn tôi nhiều. Ông có biệt tài nhận ra Gale chính là Richards. Cơ quan mật vụ Canada ra lệnh truy nã Richards. Hắn quan hệ với một cô nàng mới đây đã tự tử chết nhưng có bằng chứng đây là một vụ giết người.
- Khiếp thật, - ông Clancy nói khẽ.
- Một tên tội phạm, - Poirot nói. - Bọn tội phạm đều như nhau cả, dụ dỗ đàn bà con gái.
Ông Clancy ho sặc sụa.
- Con bé Jane Grey tội nghiệp thật.
Poirot lắc đầu mặt buồn xo.
- Ồ, tôi nói cho nàng nghe, cuộc sống này thật bấp bênh. Nhưng nàng tỏ ra dũng cảm, vượt qua được thử thách.
Tâm trí để đâu ông mới bày ra một mớ hình chụp trên áo Norman Gale làm rớt ra.
Chợt ông nhìn ra - một tấm ảnh chụp nhanh nàng Venetia Kerr tại buổi đua ngựa. "đang nói chuyện với Bá tước Horbury cùng một người bạn".
Ông đưa qua cho ông Clancy.
- Ông thấy cái này chưa? Trong năm đây sẽ là lời thông báo Một đám cưới đã được xếp đặt cho hai bên là Bá tước Horbury và Công nương Venetia Kerr. Ông có biết ai đứng ra lo sắp xếp đám cưới đó không? Chính là Hercule Poirot! Còn một đám cưới nữa cũng do tôi sắp xếp.
- Giữa Phu nhân Horbury với ông Barraclough.
- Ồ, không, chuyện đó tôi không để ý. - Ông nghiêng người ra trước. - Không - tôi muốn nói là đám cưới giữa chàng Jean Dupont và nàng Jane Grey. Hãy đợi đấy.
Qua tháng sau, Jane tới gặp ông Poirot.
- Tôi thấy ghét ông quá à, ông Poirot.
Trông nàng xanh xao, mắt thâm quầng.
Poirot nhỏ nhẹ nói.
- Em có ghét chút thôi cũng được. Tôi nghĩ cô em nên sống thực hơn là sống vì bề ngoài mà chắc không lâu bền đâu. Không có đàn bà thì thói hư tật xấu cũng nhiều hơn.
- Anh chàng thật quyến rũ, - Jane nói.
Nàng còn nói thêm:
- Em sẽ không bao giờ yêu ai nữa đâu.
- Dĩ nhiên, - Poirot nhất trí. - Với em bấy nhiêu đó đủ rồi.
Jane gật.
- Em phải lo kiếm việc làm - một việc làm ưng ý để em lao hết tâm trí vô đó.
Poirot ngồi dựa ngửa ra sau mắt ngước lên trần.
- Tôi khuyên em nên đi theo nhà Dupont một chuyến qua Ba Tư. Một công việc thật hấp dẫn, nếu em thấy thích.
- Nhưng, nhưng mà - việc đó nhằm che đậy phần ông.
Poirot lắc đầu.
- Phải nói ngược lại - tôi thích ngành khảo cổ và đồ gốm sứ cổ đến nỗi tôi viết séc ủng hộ vô quỹ. Mới sáng nay tôi nghe nói bên đó đang chờ cô em đến tham gia vô chuyến đi. Cô em có biết vẽ không?
- Dạ có, em học vẽ trong trường khá lắm.
- Tuyệt. Tôi nghĩ cô em nên đi một chuyến cho biết.
- Họ có trông em đến không?
- Trông chứ.
- Vậy thì hay lắm, - Jane nói - đi được ngay thôi.
Nét mặt nàng chợt đỏ bừng.
- Ông Poirot - nàng soi mói nhìn theo ông. - Ông có tử tế gì không?
- Tử tế à? - ông Poirot hỏi lại vẻ mặt ngỡ ngàng. - Tôi xin cam đoan, Mademoiselle - nói về chuyện tiền nong tôi đây là người biết làm ăn.
Thấy ông muốn giận, nàng Jane mới nhanh miệng xin lỗi.
- Em nghĩ - nàng nói - là mình nên tới thăm viện bảo tàng để tận mắt nhìn thấy mấy món gốm sứ cổ.
- Thật là một sáng kiến hay.
Ra tới cửa chợt Jane quay lại.
- Ông đừng có tử tể vì mấy việc này ông nên tử tế - với em thì hơn.
Nàng cúi xuống hôn lên mái tóc ông rồi bỏ đi ra.
- Tôi vậy mà dễ thương ghê! - Hercule Poirot khẽ thốt lên.
HẾT