XVI: Vòng Tròn Khép Lại.
Thứ đầu tiên Zenobia nhìn thấy khi Dina ra mở cửa là tấm rèm ghép chắn giữa hành lang. “Cái gì đây, đồ cậu vừa giặt à?” Cô cười khúc khích. “Hay cậu mới mở dịch vụ giặt là?”
“Không, đấy là phòng cô dâu,” Dina vừa nói vừa phá ra cười. Cô đã chịu đựng bốn tuần trong cảnh cô đơn cưỡng ép với nỗi oán giận. Cuộc thăm viếng của cô bạn là một niềm an ủi lớn lao.
Zenobia thấy câu đùa của bạn khá vui nhưng không hiểu ý nghĩa ra sao. Họ cùng ra phòng ngoài. Giữa những tràng cười mới, cô mới rõ tại sao gian hành lang lại bị ngăn đôi.
“Họ sắp về đến nơi rồi,” Dina nói. “Tấm rèm này không đủ dày để chặn hết tiếng ồn của đôi vợ chồng mới cưới, nhưng tớ chỉ làm được đến thế thôi.”
Zenobia chẳng thấy buồn cười chút nào nữa. Cô trố mắt nhìn Dina như thể bạn cô đã hóa điên. “Sao cậu thay đổi thế. Cậu có nghe thấy mình đang nói gì không đấy? Chỉ mới cách đây một năm thôi, cậu còn không chịu giữ một vị khách trọ vô hại. Tớ phải mất bao nhiêu ngày mới thuyết phục được cậu là con trai Aban Kohlah chẳng có gì đáng ngại hết, rồi cậu ta sẽ không xơi tái căn hộ của cậu đâu mà lo.”
“Và cậu đã đúng hoàn toàn, Maneck là một cậu bé rất đáng yêu. Hai tuần nữa là cậu ấy cũng sẽ trở lại. Cậu xem tấm chăn tớ may đi này. Đây sẽ là quà cưới cho Om đấy.”
Zenobia lờ tịt và nói tiếp. “Rồi sao tự nhiên cậu lại gan thế, để cả hai người thợ may vào đây sống. Thế đã đủ phiền lắm rồi. Giờ cậu lại còn cho phép họ lôi thêm một cô vợ đến nữa? Cậu sẽ phải hối hận đấy, tin tớ đi. Cả cái bộ tộc bù xù đó sẽ cố thủ ở hành lang nhà cậu. Đến nửa làng họ ấy chứ. Và cậu sẽ không bao giờ đuổi họ đi được. Căn nhà này sẽ biến thành một cái chuồng lợn vì những thói ăn lông ở lỗ mất vệ sinh của bọn họ.”
Lời tiên đoán u ám khiến Dina bật cười, nhưng lần này Zenobia không hưởng ứng. Để xoa dịu cô bạn, cô bèn dùng một giọng nghiêm túc hơn. “Họ sẽ không đời nào lợi dụng tớ đâu. Ishvar là một quý ông thực thụ. Còn Om là một cậu bé ngoan ngoãn, thông minh, hệt như Maneck ấy. Chỉ có điều kém may mắn hơn thôi.”
Zenobia nán lại nửa tiếng nữa, hết van vỉ, dọa dẫm, đến dỗ dành, vận dụng mọi phương cách có thể để thay đổi quyết định của bạn. “Đừng ngốc thế, cứ để họ đi. Lúc nào bọn mình cũng có thể tìm được thợ may mới cho cậu. Bà Gupta sẽ giúp bọn mình, tớ chắc chắn đấy.”
“Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Tớ vẫn sẽ cho họ ở đây ngay cả khi họ không làm việc cho tớ.”
Đến khi Zenobia nhận ra mình đang đâm đầu vào đá, cô đã lỡ dồn quá nhiều tâm huyết vào cuộc tranh luận. Để cứu vớt lòng kiêu hãnh của mình, cô quày quả bỏ đi.
Lá thư của Maneck khiến tay Dina run lẩy bẩy khi cô mở nó ra. “Dì thân mến,” cô đọc, “cháu hi vọng dì vẫn khỏe mạnh và hài lòng, cũng như tất cả mấy người chúng ta ở nơi của mình. Bố mẹ cháu gửi dì những lời chúc tốt đẹp nhất. Bố mẹ nói họ rất mừng được gặp lại cháu, còn nói là rất nhớ cháu.
“Cuối cùng cháu cũng nhận được tin bên trường. Cháu rất tiếc phải báo rằng điểm của cháu không tốt lắm. Họ đã từ chối đơn cháu xin vào học chương trình lấy bằng, nên cháu đành phải bằng lòng với chứng chỉ một năm vậy.”
Cô biết điều gì sắp tới, nhưng vẫn đọc tiếp, cố gắng chống cự cảm giác nôn nao đang cồn lên trong bụng. “Phải chi dì được thấy tấn tuồng diễn ra khi tin này bay đến. Nếu dì còn nhớ, khi cháu mới ngỏ ý muốn học thêm ba năm nữa, bố mẹ cháu đã phản đối ra trò. Nhưng giờ nhà lại nổi điên với cháu vì lý do ngược lại. Con định làm gì với đời mình đây, bố cháu cứ nhai nhải thế, hết rồi, hết thật rồi, thằng bé này chẳng hiểu đây là một chuyện bất hạnh đến nhường nào đâu, cả đời tôi đã là bất hạnh nối bất hạnh, tôi cứ nghĩ con trai tôi sẽ thay số đổi vận, nhưng lẽ ra tôi phải biết chứ, đường chỉ trên tay tôi là vĩnh cửu, chẳng đời nào được phép đổi khác, đấy là số mệnh của tôi rồi, tôi chống lại làm sao nổi.
“Dì có nhớ mấy trò cường điệu của chú Ishvar khi động đến việc tìm vợ cho Om không? Toàn đồ bỏ, dì ạ, nếu so với màn trình diễn của bố cháu. Lẽ ra cháu không bao giờ nên nói cho họ biết cháu dự định theo học cái chương trình lấy bằng ngớ ngẩn đấy.
“Cũng may, sau khi tấn tuồng chấm dứt, một người bạn của bố mẹ cháu đã đem về vài tin tốt lành. Thiếu tướng Grewal có vài mối quen bên mấy nước Ả Rập giàu có ở vùng Vịnh, chỗ mà tiền mọc trên cây ấy. Ông ấy hứa lo cho cháu một công việc rất tốt trong một công ty điện lạnh và điều hòa nhiệt độ ở Dubai. Cái ông thiếu tướng đấy luôn nghĩ mình là một hài kịch gia đại tài. Ông ta nói dân ở đó người nào cũng có một cái máy để làm mát lều của mình ngoài sa mạc, và vì bão cát cùng gió khô liên tục gây tắc nghẽn mô tơ và quạt, nên lúc nào cũng có nhu cầu trang bị điều hòa mới và bảo trì bảo dưỡng.
“Chính vì óc hài hước thảm hại của thiếu tướng Grewal mà cháu đã quyết định nhận công việc này. Nếu cháu sang Dubai, cháu sẽ không phải nghe mấy câu pha trò của ông ta nữa. Và lương bổng, phúc lợi, trợ cấp sinh hoạt thì cao ngất trời. Họ nói bên đó người ta có thể dành dụm được một gia tài nho nhỏ chỉ sau bốn, năm năm. Có lẽ cháu sẽ đủ khả năng quay về và mở doanh nghiệp kinh doanh máy điều hòa riêng của mình trên thành phố. Hoặc hay hơn nữa, chúng ta có thể mở công ty may. Với tất cả kinh nghiệm thu được từ một năm vừa qua, cháu sẽ là giám đốc, dĩ nhiên. (Ha ha, cháu chỉ đùa thôi).”
Việc đọc trở nên càng lúc càng khó khăn hơn vì nước mắt cô đã dâng lên cay xè. Cô chớp mắt thật nhanh vài lần và hít một hơi dài. “Cháu phải có mặt ở Dubai sau ba tuần nữa, nên mẹ cháu đang làm cả nhà phát rồ lên vì cố chuẩn bị hành lý của nả cho cháu. Kịch bản y như hồi năm ngoái, khi cháu sắp đi học đại học. Còn bố cháu thì vẫn y hệt như trước. Bố cháu chưa nói được với cháu một câu tử tế nào kể từ ngày cháu trở về, mặc dù cháu đã làm chính xác những thứ ông muốn. Bây giờ ông lại làm như thể cháu đang bỏ rơi ông và Cửa hàng bách hóa tổng hợp. Cái kiểu của ông là con rô cũng tiếc, con diếc cũng muốn. Ông còn mong hòng gì nếu cứ điều hành cửa hàng theo cung cách cổ lỗ ngày xưa? Cứ hễ cháu cố đề xuất cái gì đó thì ông chỉ ném cho cháu một cái nhìn u uất. Hẳn ông sẽ thấy vui hơn một khi cháu đi khuất mắt, ông có thích thú gì cảnh có cháu lởn vởn xung quanh đâu. Cháu đã biết điều đó từ cái ngày ông bắt cháu đi học trường nội trú hồi lớp năm.
”Dì chuyển lời tới Om giúp cháu là cháu xin lỗi vì không ở lại để gặp vợ cậu ấy được. Cháu chắc chắn cô ấy sẽ rất hạnh phúc khi có một bà mẹ chồng tuyệt vời như dì. (Ha ha, cháu lại đùa đấy.) Nhưng năm tới, khi cháu từ vùng Vịnh trở về nhà để nghỉ, cháu tính sẽ ghé qua và gặp cả nhà.
“Cuối cùng, cháu muốn cảm ơn dì vì đã cho cháu ở trong nhà dì, và vì đã chăm sóc cháu rất chu đáo.” Câu cuối cùng đã bị gạch đi, nhưng cô vẫn luận ra hai chữ bên dưới những đường gạch chi chít: “hạnh phúc nhất” và “cuộc đời”.
Sau dòng đó, nội dung thư cũng chẳng còn bao lăm. “Chúc mọi người may mắn với công việc may vá. Cháu gửi vô vàn tình yêu thương đến chú Ishvar và Om, và dì.”
Dưới tên mình, cậu đế thêm một phần tái bút. “Cháu đã nhờ mẹ cháu viết séc thanh toán tiền nhà ba tháng, vì cháu thôi trọ nhà dì mà không thông báo trước đúng hạn. Cháu hi vọng như vậy là ổn. Một lần nữa, cảm ơn dì.”
Những dòng chữ giờ đã trở thành nhòe nhoẹt. Cô gỡ cặp kính ra và lau mắt. Thằng bé thật ngoan. Liệu cô có bao giờ quen được với cảnh thiếu vắng cậu bầu bạn không? Những lời châm chọc, tiếng cậu chuyện trò hàng ngày, bản tính hay giúp đỡ của cậu, nụ cười chào buổi sáng, trò đùa nghịch của cậu với lũ mèo, dù rằng suy nghĩ của cậu về chuyện sống và chết có phần hơi đen tối. Còn cả tờ séc nữa, hào phóng làm sao; cô dám chắc cậu đã ép mẹ mình viết nó.
Nhưng cảm thấy buồn thì thật ích kỷ, cô tự nghĩ, trong khi cô nên cảm thấy mừng cho cơ hội của Maneck. Cậu nói đúng, rất nhiều người đã phất lên nhờ làm việc ở mấy đất nước lắm dầu nọ.
Hai ngày sau khi nhận được lá thư, Dina tìm đến thẩm mĩ viện Venus. Cô tiếp tân từ phía trong đi ra và thông báo rằng Zenobia đang bận phục vụ một khách hàng. “Xin chị đợi ngoài phòng chờ giúp.”
Dina ngồi xuống bên cạnh một cái cây héo quắt héo queo và nhặt một tờ Tuần báo phụ nữ cũ sờn lên, rồi tự mỉm cười một mình. Rõ ràng, Zenobia vẫn còn bực bõ về vụ cô vợ của Om, và đây là cách cô thể hiện cho bạn thấy, nếu không cô đã tất tả chạy ra, tay kéo tay lược, thở hổn hển, chào một tiếng, rồi lại chạy vào.
Bốn mươi lăm phút trôi qua, Zenobia bước ra để tiễn khách tới cửa. Người phụ nữ với bộ tóc được tỉa tót choáng lộn không phải ai khác ngoài bà Gupta. “Thật bất ngờ quá, lại được gặp cô ở đây, cô Dalal,” bà ta nói. “Zenobia sắp làm tóc cho cô hả?” Bất chấp nụ cười, có vẻ gì đó ở khóe môi nhếch lên cho thấy bà không hài lòng với ý tưởng này chút nào.
“À không, làm sao tôi đủ tiền trả cho cô ấy! Tôi chỉ ghé qua để chuyện gẫu thôi mà.”
“Tôi hi vọng cô ấy tính tiền công chuyện gẫu phải chăng hơn làm tóc,” bà Gupta cười khúc khích. “Nhưng tôi cũng chẳng kêu ca gì đâu, cô ấy đúng là thiên tài. Xem này – hôm nay cô ấy đã tạo nên một điều kì diệu chưa này.” Bà chậm rãi xoay đầu từ trái sang phải và ngược lại, rồi để nó dừng khựng lại như tượng trong tư thế mắt dán lên quạt trần.
“Đẹp tuyệt,” không bỏ phí thời giờ, Dina nói ngay. Bà Gupta có khả năng giữ nguyên tư thế đến vô cùng nếu một lời khen không bật ra.
“Cảm ơn cô,” bà ta e lệ nói, và tự cho phép hộp sọ được di động trở lại nguyên vị. “Nhưng tới bao giờ chúng ta lại được gặp nhau ở Au Revoir thế? Các thợ may của cô đã về chưa?”
“Tôi nghĩ chúng tôi sẽ bắt đầu từ tuần sau.”
“Hi vọng họ không đòi nghỉ tuần trăng mật sau khi kì nghỉ đám cưới kết thúc. Kẻo dân số sẽ lại tăng thêm mất.” Bà Gupta lại cười hinh hích, mắt liếc tấm gương treo phía sau quầy tiếp tân. Bà vỗ nhẹ lên mái tóc của mình và miễn cưỡng rời đi; hình ảnh phản chiếu trong gương khiến bà ta hài lòng khôn kể.
Còn lại một mình với bạn, Dina kín đáo mỉm cười, bày tỏ một quan điểm không lời về bà Gupta. Song phản ứng của Zenobia hết sức lạnh lùng. “Cậu muốn hỏi tớ việc gì à?”
“Ừ, tớ nhận được một lá thư của Maneck Kohlah. Thằng bé không cần thuê phòng của tớ nữa.”
“Tớ cũng chẳng ngạc nhiên,” cô khịt mũi. “Hẳn nó đã phát chán vì phải chung sống với bọn thợ may rồi.”
“Thực ra, mấy người bọn họ rất hợp nhau.” Khi phát ra những lời đó, cô hiểu rằng tuyên bố ấy vẫn chưa thể hiện hết mọi điều về hộ gia đình của mình. Nhưng biết nói thế nào nữa đây? Làm sao cô có thể tả hết cho Zenobia biết Maneck và Om đã trở thành không thể chia rẽ đến mức nào, và Ishvar xem cả hai chàng trai như chính con ruột của mình ra sao? Rằng bốn người bọn họ đã cùng nấu nướng và cùng ăn uống, cùng san sẻ việc lau dọn và giặt giũ và chợ búa, nụ cười và nỗi lo? Rằng họ quan tâm đến cô, và dành cho cô nhiều sự tôn trọng hơn cô đã từng được nhận từ một số họ hàng thân thích của mình? Rằng chỉ trong vài tháng vừa qua, cô đã thấm thía thế nào là gia đình?
Không cách gì mà giải thích cho được. Zenobia sẽ bảo cô ngu ngốc và tưởng tượng ra những điều viển vông, biến một nhu cầu tài chính thành chuyện tình cảm. Hoặc cô ấy sẽ buộc tội hai người thợ may dắt mũi cô bằng những lời đường mật và xu nịnh.
Vì vậy Dina chỉ thêm một câu: “Maneck không quay về vì nó vừa kiếm được một công việc rất tốt ở vùng Vịnh.”
“Ừm,” Zenobia nói. “Dù lý do là gì, cậu cũng cần một khách trọ khác.”
“Phải, chính vì thế tớ mới đến đây. Cậu có ai không?”
“Ngay bây giờ thì chưa. Tớ sẽ để ý tìm.” Cô đứng dậy để trở lại làm việc. “Sẽ khó đấy. Bất cứ ai nhìn thấy tấm rèm đủ màu cùng tiểu đội thợ may đóng quân ngoài hành lang đều sẽ bỏ phòng chạy lấy người ngay.”
“Đừng lo, tớ sẽ bỏ tấm rèm đấy đi.” Dina hi vọng cô bạn sẽ giữ lời; khi Zenobia buồn bực, cô ấy thường cần vài ngày để nguôi ngoai, chỉ vậy không hơn.
Cô về nhà và đảm bảo căn phòng của Maneck không còn chút tì vết nào. Nhưng từ nay mình phải thôi nghĩ đó là phòng của Maneck đi mới được, cô quả quyết. Trong lúc quét quáy và lau chùi, cô tìm thấy hộp cờ vua của cậu trong tủ. Cô có nên gửi nó cho Maneck không nhỉ? Đến khi nó tới được ga tàu miền đồi núi, có lẽ cậu đã sang vùng Vịnh mất rồi. Tốt hơn hết là cất lại cho đến khi cậu về chơi vào năm sau, như cậu đã viết.
Dina thích ý tưởng này, và nhồi chiếc hộp vào giữa đống quần áo của mình trong phòng may. Dường như nó giúp ấn định cuộc viếng thăm của Maneck thêm rõ ràng. Đó là một suy nghĩ dễ chịu, nhấn chìm một suy nghĩ khác đầy đau đớn rằng cậu sẽ chẳng bao giờ sống ở đây nữa.
Đêm đến, cô ra cửa sổ nhà bếp và cho bọn mèo ăn, gọi chúng bằng những cái tên cậu từng đặt.
Sáu tuần tròn đã trôi qua, nhưng cô vẫn tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi, tin chắc rằng Ishvar và Om đã quay về khi mỗi tiếng chuông cửa vang lên. Rồi người cho thuê – bán máy may tới để đòi khoản tiền trả góp đã quá hạn cho hai chiếc Singer.
“Tuần sau hai người thợ sẽ về,” cô tìm cách hoãn binh. “Anh biết làm đám cưới thì lắm công nhiều việc thế nào rồi đấy.”
“Họ hay trả muộn quá đấy,” người kia càu nhàu. “Công ty toàn quở trách tôi vì không thu tiền đúng hạn thôi.” Anh ta đồng ý chờ thêm bảy ngày nữa.
Cũng trong sáng hôm ấy, chuông cửa lại reo. Cô chạy ra hành lang.
Đó là Ông trùm ăn mày. Ông mang theo một món quà cưới nhỏ. “Một cái ấm đun trà bằng nhôm,” ông nói, thất vọng vì hai người thợ vẫn chưa trở lại.
“Tôi hi vọng là muộn nhất là tuần sau,” Dina nói. “Bên công ty xuất khẩu cũng đang sốt ruột lắm rồi.”
“Thứ Năm tuần sau tôi lại mang quà đến vậy.”
Cô biết ông đang tìm kiếm thứ gì: món tiền trả góp, giống như món của người cho thuê – bán máy nọ, đã quá hạn. “Sẽ không có vấn đề gì với chủ nhà chứ ạ? Vì hai người thợ may chưa trả tiền ấy? Tôi có thể đưa ngài một ít ngay bây giờ, nếu ngài cần.”
“Không sao. Tôi sẽ chăm sóc cho căn hộ này, đừng lo. Với những người tử tế thế này, tôi đâu có để ý đến mấy khoản thiếu nợ tạm thời. Cô đã đến dự đám tang của Shankar, tôi sẽ không quên đâu.”
Ông ghi mấy dòng chú thích tình hình thu nợ vào nhật kí và đóng cặp táp lại. “Hôm qua cuối cùng tôi đã cúng công đức cho đền để tưởng nhớ Shankar. Người ta tổ chức một buổi lễ tạ nhỏ và thầy tế rung chuông, tôi cảm thấy thanh thản vô cùng. Có lẽ đã đến lúc tôi bỏ nghề này, dồn hết tâm sức cho việc cầu nguyện và thiền định.”
“Ngài nói thật đấy ư? Thế thì tất cả ăn mày của ngài phải làm sao? Còn hai người thợ may và tôi nữa?”
Ông trùm gật đầu chán chường. “Vấn đề là ở chỗ đó. Vì các bổn phận trần tục của mình, tôi đành kìm nén những thôi thúc tâm linh. Đừng lo, tôi sẽ không bỏ rơi bất kì ai còn nương nhờ vào mình.” Sợi xích cặp táp quấn trên cổ tay ông kêu lạch xạch khe khẽ khi ông rời đi. Cô nhận ra nó đã chớm han gỉ.
Niềm an ủi từ lời tuyên thệ trịnh trọng của ông ban ra bay biến chỉ trong phút chốc. Nỗi lo lắng cô đã cố ghìm giữ bắt đầu mon men tiến tới, chờn vờn rình rập xung quanh như một thú săn mồi. Giờ cô đã biết chắc chắn sự vắng mặt của hai người thợ không chỉ đồng nghĩa với một khoảng chậm trễ ngắn ngủi. Và thậm chí còn không có nổi một tấm bưu thiếp cho phải phép. Có chuyện gì đã xảy ra, để đến nỗi họ không thể báo cho cô hay chỉ bằng vài chữ: Cô Dina, xin hãy thứ lỗi cho chúng tôi, chúng tôi đã quyết định ở lại làng luôn, Om và vợ nó thích thế hơn. Chỉ mấy dòng thôi. Kì vọng như thế là quá đáng lắm hay sao? Zenobia nói đúng, chỉ có ngu ngốc mới đi tin hạng người đó. Họ đã lợi dụng cô, và ruồng bỏ cô.
Để hoàn thiện ngày hôm đó, chuông cửa chế nhạo cô lần thứ ba vào lúc chiều muộn. Cô xoay nắm đấm mà không thèm gài khóa xích vào trước. Ánh nắng chói chang khiến hành động đề phòng đó dường như trở thành không cần thiết. Và rồi cánh cửa mở rộng phô bày một bóng ma ghê rợn.
“Ốiii!” Cô thét lên trong cơn khiếp đảm. Người đàn ông nọ, người ngợm gầy mòn hốc hác, trên trán có mấy vết sẹo mới liền miệng, đôi mắt lóe lên ánh nhìn hoang dại, trông như một cái xác chết vừa đội mồ sống dậy.
Cô cố đóng cửa lại. Nhưng rồi anh ta cất tiếng, và nỗi sợ hãi của cô dần tiêu tan. “Xin cô đừng sợ,” anh ta thở hào hển. “Tôi không làm hại cô đâu.” Đó là tiếng rên thê thiết của một con vật bị thương, tiếng khò khè của một buồng phổi đã hỏng. “Hai thợ may làm việc ở đây phải không ạ?
Ishvar và Omprakash?”
“Phải.”
Người đàn ông suýt nữa quỵ ngã vì mừng rỡ. “Thưa cô, tôi có thể gặp họ được không?”
“Họ đi vắng mấy ngày,” Dina nói, đoạn bước lùi lại; mùi của anh ta nặng quá.
“Họ sẽ quay lại sớm chứ?” Từng chữ anh ta nói ra chấp chới trong tuyệt vọng.
“Có lẽ. Anh là ai?”
“Một người bạn. Chúng tôi sống trong cùng một khu ổ chuột, cho đến khi chính phủ san bằng tất cả.”
Trong giây lát Dina tự hỏi không hiểu đó có phải Rajaram, người những muốn từ bỏ cõi trần và trở thành một thiền sư, hay không. Cô mới gặp anh ta một, hai lần – lẽ nào cuộc đời khắc khổ của những thiền sư đã tàn hại anh ta đến mức này? “Anh không phải là người thu mua tóc đấy chứ?” Cô hỏi dò.
Anh ta lắc đầu. “Tôi là Người dạy khỉ. Nhưng lũ khỉ của tôi chết rồi.” Anh ta đưa ngón tay lên trán, khẽ gãi gãi những vết sẹo ngứa ngáy. “Nhưng hai người thợ may đã kể cho tôi biết họ làm việc ở khu này. Từ hôm qua tôi đã đến từng khu nhà trên đường này, gõ cửa từng căn hộ. Và giờ họ lại không có ở đây.” Trông anh ta gần như sắp bật khóc đến nơi. “Ishvar và Om vẫn qua lại với Ông trùm ăn mày, phải không ạ?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Cô có biết ông ta sống ở đâu không?”
“Không. Lúc nào Ông trùm cũng đến tận đây để thu tiền. Thực ra, hôm nay ông ấy đã đến đây.”
Đôi mắt Người dạy khỉ sáng lên. “Cách đây bao lâu? Ông ta đi đâu rồi?”
“Tôi không biết – cách đây nhiều giờ rồi, hồi sáng cơ.” Tia hi vọng vụt tắt trên gương mặt anh ta. Như ánh sáng của một cái bóng đèn, cô bỗng nghĩ, lúc sáng lúc tối.
“Tôi có một việc rất quan trọng phải làm với ông ấy. Mà tôi không biết phải làm sao để tìm ông ấy.”
Nỗi bất lực của anh ta, hình ảnh tấm thân tàn tạ của anh ta, sự tuyệt vọng trong giọng nói của anh ta khiến Dina phải chau mày. “Thứ Năm tuần sau Ông trùm sẽ quay lại đây,” cô chủ động báo.
Người dạy khỉ chạm tay lên trán và cúi chào. “Cầu mong Thượng Đế phù hộ cho cô và thỏa mãn mọi ước nguyện của cô vì đã giúp đỡ một kẻ khốn cùng như tôi.”
Người cho thuê – bán máy may trở lại vào tuần sau đó và nói anh ta không thể chờ tiền thêm một ngày nào nữa. Đoán rằng Dina sẽ tiếp tục viện cớ nọ cớ kia, anh ta quyết tâm lần này sẽ phải làm thật rắn.
“Tôi cũng đâu muốn anh phải chờ đợi thêm,” cô quát lại. “Mang hai cái máy đi ngay đi, tôi sẽ không giữ chúng thêm một phút nào nữa.”
“Cảm ơn cô,” anh ta nói, vẻ ngỡ ngàng. “Sáng mai xe tải của chúng tôi sẽ đến để mang máy đi.”
“Anh không nghe tôi nói à? Tôi nói ngay bây giờ. Nếu trong một tiếng nữa mà hai cái máy vẫn chưa đi, tôi sẽ tống chúng ra khỏi nhà. Tôi sẽ để ở giữa đường luôn đấy.” Người kia vội vã chạy đi gọi điện cho công ty đến chở máy về gấp.
Loại bỏ hai chiếc máy may giúp cô cảm thấy dễ chịu hơn. Hai tên khốn cứ việc quay lại đây và sẽ thấy hai cái Singer đã bốc hơi, cô nghĩ. Bọn họ sẽ nhận được một bài học nhớ đời.
Tiếp đến, cô chờ đợi Ông trùm cùng món quà cưới của ông. Với ông ta, cô cũng sẽ thay đổi sách lược và cho ông biết hai người thợ may đã biến mất. Món tiền thiếu sẽ buộc ông ta hành động thật nhanh, lần cho ra tung tích của họ dù họ đang ở đâu.
Nhưng Ông trùm không tới như đã hẹn. Thật không giống với cung cách đúng giờ của ông ta, cô nghĩ thầm khi ngày dần trôi đi. Lẽ nào ông ta và hai người thợ may đã câu kết thành một liên minh xấu xa chống lại cô, tìm cách loại trừ cô và chiếm lấy căn hộ? Nỗi hoang mang càng kích thích trí tưởng tượng của cô, khiến những mưu đồ đen tối càng được thể sinh sôi nảy nở, giày vò cô bằng mùi vị của chúng cho tới kì sáng hôm sau, khi một tiếng gõ cửa rốt cuộc cũng hé lộ sự thật.
Thất vọng, bội phản, niềm vui, nỗi đau, hi vọng – tất thảy đều bước vào cuộc đời cô qua cùng một cánh cửa, cô nghĩ thầm. Cô lắng tai chờ nghe tiếng lách cách từ sợi xích cặp táp của Ông trùm. Chẳng có gì hết. Rồi đến một tiếng gõ cửa nhè nhẹ khác. Dù là ai, rõ là người đó đang cố tránh xa chiếc chuông ầm ĩ. Cô mở cửa, nhưng vẫn để nguyên khóa xích.
Một lọn râu bạc thò qua khe hở, và đến tiếng người nói: “Chị ơi, làm ơn cho tôi vào với! Nếu có ai ở công ty trông thấy, tôi sẽ bị phạt mất, tôi không được phép lai vãng ở đây!”
Một cách miễn cưỡng, cô mở khóa xích và cho Ibrahim vào nhà. “Không được phép lai vãng ở đây ư, ý ông là gì? Ông là người thu tiền nhà kia mà.”
“Hết rồi, chị ạ. Ông chủ đuổi việc tôi từ tuần trước. Ông ta kêu tôi phá hoại tài sản của công ty, rằng tôi làm hỏng nhiều cặp giấy quá. Ông ta cho tôi xem bản thống kê văn phòng phẩm kể từ ngày tôi bắt đầu làm việc ở đấy bốn mươi tám năm trước. Tôi đã dùng qua bảy cái cặp giấy – một cái bìa da, ba cái bìa vải thô hồ cứng, và ba cái bằng nhựa. Bảy là tối đa, ông chủ bảo tôi, dùng đến bảy cái là tôi phải cút.”
“Vô lý,” Dina nói. “Lúc nào ông cũng rất cẩn thận, giữ nó sạch sẽ, đóng mở nhẹ nhàng. Đấy đâu phải lỗi ở ông nếu bọn họ cấp cho ông cặp giấy chất lượng kém chỉ vài năm đã hỏng.”
“Đằng ấy chỉ cần một cái cớ để tống cổ tôi thôi, chị ạ. Tôi biết nguyên do thực là gì rồi.”
“Nguyên do thực là gì?”
Ông ta im lặng, như thể đang cân nhắc xem có nên nói cho cô biết hay không, và thở dài. “Nguyên do thực là vì: Tôi không còn tha thiết với công việc của mình nữa. Tôi không còn đủ tai quái với người thuê nhà nữa, tôi không đe dọa họ theo cách có thể khiến họ sợ hãi, tôi đã mất hết nhiệt huyết rồi. Và vì thế, tôi trở thành vô dụng đối với chủ tôi.”
“Chẳng lẽ ông không cố thêm được sao? Dùng những lời lẽ ghê gớm hơn hay gì đó?”
Lão lắc đầu. “Một khi lửa đã lụi thì vô phương nhen lại. Nó bắt đầu tắt ngay tại đây, trong căn nhà này, chị ạ. Chị không nhớ sao? Cái đêm tôi dẫn bọn đầu gấu đến, cách đây mấy tháng ấy? Sau những chuyện xảy ra ở đây, tôi còn không dọa nổi một đứa bé con. Và tôi rất cảm ơn Thượng Đế vì điều đó.”
Cô nhắc mình nhớ lại nỗi kinh hoàng lão đã gây cho cô đêm hôm đó, nhưng thay vì giận dữ, cô lại cảm thấy mình có ít nhiều trách nhiệm trong vụ mất việc của lão. “Ông đã tìm được việc khác chưa?”
“Ở tuổi tôi ư? Ai sẽ thuê tôi?”
“Thế thì ông biết sống ra sao?”
Lão ngượng nghịu nhìn xuống sàn nhà. “Một số người thuê nhà có giúp tôi chút đỉnh. Gần đây, tôi có kết thân với vài người. Tôi đứng ngoài tòa nhà và họ, thì đấy, ra… giúp tôi. Nhưng chị đừng bận tâm mấy chuyện đó, chị ạ, để tôi nói cho chị nghe lý do cuộc viếng thăm của tôi. Tôi đến để báo trước với chị, chị đang gặp nguy hiểm rất lớn từ chủ nhà đấy.”
“Tôi không sợ lão khốn ấy. Đã có Ông trùm bảo vệ tôi rồi.”
“Nhưng chị ơi, Ông trùm chết rồi.”
“Ông nói gì thế? Ông điên rồi sao?”
“Không, ông ấy bị giết hôm qua. Tôi nhìn thấy hết, tôi đứng bên ngoài, khủng khiếp lắm! Khủng khiếp!” Ibrahim bắt đầu run rẩy, toàn thân lão chao đảo. Cô dẫn lão đến bên một chiếc ghế và bắt lão ngồi xuống.
“Giờ hãy hít một hơi thật sâu rồi kể cho tôi nghe rõ ngọn ngành đi,” cô nói.
Lão hít một hơi dài. “Sáng hôm qua, tôi đứng gần cổng, tay cầm ống bơ, chờ nhận của bố thí từ những người thuê nhà – ý tôi là các bạn bè của tôi. Tôi đã nhìn thấy tất cả. Cảnh sát bảo tôi là nhân chứng chính, và dẫn tôi theo để lấy lời khai. Họ giữ tôi đến khuya, hỏi han đủ thứ.”
“Ai giết Ông trùm?”
Lão lại hít một hơi dài nữa. “Một người đàn ông nom rất ốm yếu tiều tụy. Hắn nấp sau cây cột đá ở cổng. Khi Ông trùm bước vào, hắn nhảy lên lưng ông ta và cố đâm ông ta. Nhưng hắn yếu quá, đâm nhẹ hều, mũi dao không xuyên vào da thịt được. Ai cũng có thể chạy thoát nếu gặp phải một kẻ tấn công ẻo lả như thế.”
“Vậy tại sao Ông trùm lại không chạy?”
“Vì hôm ấy vận may không đi cùng ông ta.”
Thứ đi cùng ông ta, Ibrahim kể, là một chiếc túi to lèn chặt tiền xu được xích vào cổ tay ông, chính là thứ ông vừa thu được từ các ăn mày. Bị cái khối nặng trịch neo xuống đất, một tay không di chuyển được, ông đã kẹt cứng. Ông hết đấm đến gạt bằng cánh tay còn tự do, chân đá lung tung, trong khi gã sát nhân gầy còm vật lộn xoay xỏa, cưỡi ngật ngưỡng trên lưng nạn nhân của hắn, ráng sức ép lưỡi dao chọc xuyên quần áo, rạch toác lớp da, ngập vào tận da thịt và đâm thấu quả tim.
“Lúc đầu trông cảnh ấy cũng hoạt kê lắm. Nom cứ như hắn đang nghịch con dao gấp bằng nhựa của một người bán bóng bay ấy. Nhưng mãi rồi hắn cũng đạt mục đích, và cuối cùng Ông trùm không còn nhúc nhích nữa. Chính ông ta, kẻ sống bằng những đồng tiền ăn xin của đám người tàn tật bất lực đã chết bởi những đồng tiền ăn xin ấy, vì sức nặng của chúng. Chị thấy đấy, lâu lâu trong vũ trụ cũng xuất hiện một chút gì đó gọi là công lý.”
Nhưng Dina đang nhớ lại cả đám người ăn mày ở đám tang của Shankar. Thì đúng, nay họ đã tự do. Nhưng tự do phỏng có nghĩa lý gì đối với họ cơ chứ? Vất vưởng khắp các vỉa hè khốn khổ của thành phố, mồ côi mồ cút, không ai chăm nom cho – chẳng phải họ sẽ sung sướng hơn nếu ở dưới vòng tay che chở của Ông trùm hay sao?
“Ông ấy không hoàn toàn là người xấu đâu,” cô nói.
“Bọn chúng ta là ai mà quyết định được đâu là tốt hay xấu? Chỉ là trong một lần này, cán cân nom đã có vẻ cân bằng. Chị ạ, tôi phải nói thật là, sáng hôm qua, lúc nhìn thấy Ông trùm ăn mày đi tới, chính tôi cũng nghĩ đến chuyện nhờ ông ta giúp – giúp tôi kiếm một chỗ tốt để hành nghề.
Nhưng gã sát nhân vồ được ông ta trước.”
“Hắn có tìm cách cướp túi tiền đi không?”
“Không, hắn chả màng gì đến túi tiền. Mà nếu có, hắn sẽ phải chặt đứt cổ tay ông ta. Không, hắn chỉ vứt con dao xuống và gào thét là hắn là Người dạy khỉ, hắn đã giết Ông trùm để trả thù.”
Dina tái mặt và ngã phịch xuống ghế. Ibrahim khó nhọc đứng dậy khỏi ghế của mình và chạm lên cánh tay cô. “Chị ơi, chị có sao không?”
“Kẻ đã nói hắn là Người dạy khỉ ấy – có phải hắn có một cái sẹo rất to trên trán không?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Tuần trước hắn đến đây, bảo muốn gặp Ông trùm vì việc gì đó. Tôi bảo hắn là ông ấy sẽ ghé qua đây vào thứ Năm – là ngày hôm qua ấy.” Cô nắm những ngón tay lại và đưa lên che miệng. “Tôi đã giúp tên sát nhân đó.”
“Chị đừng nói thế. Chị có biết hắn định giết người đâu.” Lão vỗ lên bàn tay cô, và cô trông thấy móng tay lão cáu bẩn. Nếu là vài tháng trước, hẳn cô đã rùng mình trước sự động chạm ấy. Giờ cô lại cảm thấy biết ơn. Làn da lão nhăn nheo và bong tróc, như lớp da của một con bò sát vô hại, khiến trong lòng cô tràn ngập cảm xúc sửng sốt pha lẫn buồn đau. Tại sao mình lại ghét lão đến thế? Cô tự hỏi mình. Trước mọi chuyện có dính dáng đến con người, thứ cảm xúc duy nhất hợp lý là sửng sốt, trước khả năng chịu đựng của họ; và buồn đau, vì sự vô vọng của tất thảy mọi thứ. Và có lẽ Maneck nói đúng, tất cả đều dẫn đến kết thúc tồi tệ.
“Chị à, chị đừng tự trách mình nữa,” lão nói, đoạn lại vỗ nhẹ lên bàn tay cô.
“Sao ông cứ gọi tôi là chị thế? Ông còn hơn tuổi bố tôi kia mà.”
“Thôi được, vậy tôi sẽ gọi là con gái vậy.” Lão cười, và đó không phải nụ cười tự động của lão. “Con thấy đấy, cái Người dạy khỉ kia sớm muộn gì cũng tìm ra Ông trùm, dù con có giúp hắn hay không. Cảnh sát nói hắn bị tâm thần, hắn còn không thèm bỏ chạy, cứ đứng đấy hò hét đủ thứ rồ dại, rằng Ông trùm đã đánh cắp hai đứa trẻ từ hắn trong khi hắn đang bất tỉnh nhân sự, và chặt tay, chọc mù mắt, vặn lưng, và biến chúng thành ăn mày, nhưng nay hắn đã hoàn thành lời tiên tri, công cuộc báo thù của hắn đã kết thúc. Ai mà biết được những loài quỷ dữ nào đang giày vò trí óc gã khốn khổ ấy.”
Lão lại chạm nhẹ lên tay cô. “Nay Ông trùm đã chết rồi, chủ nhà sẽ sớm sai người đến đuổi con ra đường. Thế nên ta mới đến báo trước cho con.”
“Làm sao tôi chống lại được lũ đầu trâu mặt ngựa của ông ta.”
“Con phải hành động trước ông ta. Có lẽ con vẫn còn một chút thời gian. Người khách trọ và cả hai thợ may đều đi rồi, nên ông ta sẽ cần một cớ mới. Hãy tìm lấy một luật sư và…”
“Tôi lấy đâu ra tiền trả cho mấy ông luật sư đắt đỏ ấy.”
“Chỉ cần một ông luật sư giá rẻ cũng được rồi. Ông ta phải…”
“Tôi có biết tìm ở đâu đâu.”
“Cứ đến tòa án. Bọn họ sẽ tự tìm đến con. Chỉ cần con bước qua cửa, họ sẽ chạy bổ đến chỗ con thôi.”
“Rồi sao?”
“Thì hỏi han, chọn lấy một người vừa giá. Bảo với ông ta con đang cần kiếm một lệnh cấm đối với chủ nhà, để chấm dứt và ngăn ngừa các hành động đe dọa và những hình thức quấy rối khác, rằng hiện trạng này phải được duy trì cho đến lúc…”
“Để tôi ghi lại đã, tôi không nhớ được hết đâu.” Cô lấy giấy và bút chì ra. “Ông nghĩ cách này có hiệu quả không?”
“Nếu con nhanh chân. Đừng lãng phí thời giờ nữa, con gái ta. Đi, đi ngay đi.”
Cô thọc tay vào túi và tìm thấy một tờ năm rupi. “Trong lúc ông còn chưa tìm được việc mới,” cô nói, đoạn giúi vào bàn tay tróc vảy của lão.
“Không, ta không thể lấy của con được, con đã gặp đủ khó khăn rồi còn gì.”
“Chẳng lẽ con gái không giúp ông bố già được hay sao?” Mắt lão ướt đẫm khi lão nhận lấy tờ tiền.
Cổng tòa án đông đặc những người mua kẻ bán của một khu chợ tự phát được dựng lên ngay bên ngoài dãy tường bao, nơi những con người đã dành hàng tiếng đồng hồ cho công cuộc đeo đuổi công lý, và còn nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng nữa đang chờ đợi phía trước, đang chen mua đồ ăn thức uống từ các hàng quán rong. Rất dễ nhận ra những người đi kiện giàu kinh nghiệm – họ mang sẵn các hộp thức ăn theo mình, đứng một góc và bình tĩnh nhai nuốt. Anh chàng rán bánh rau chiên đã lôi kéo được hẳn một đám đông khổng lồ, đói khát. Cũng chẳng lạ gì, Dina nghĩ bụng, mùi thơm hấp dẫn thế cơ mà. Bên cạnh anh ta bày dứa được ướp lạnh trên một phiến nước đá lớn. Cô thầm ngưỡng mộ những lát cắt hình tròn khía răng cưa, mắt ngắm nhìn người phụ nữ tỉa quả bằng con dao dài, sắc lẻm, khéo léo tỉa bỏ những mắt dứa.
Trung tâm của hoạt động bên ngoài tòa án là những người thợ đánh máy. Họ ngồi khoanh chân trong quán của mình trước chiếc máy Underwood oai nghiêm như thể đang ngồi giữa một ngôi đền, lạch xạch gõ đơn từ cho những người đi thưa kiện và người đến làm kiến nghị. Hàng bày bán ở đây là giấy khổ tiêu chuẩn, kẹp giấy, cặp đựng giấy tờ, ruy băng vải màu đỏ thẫm để buộc các bản tường trình được đánh máy, bút chì xanh đỏ, bút mực, và mực.
Những tay chuyên nghiệp trong ngành pháp lý khoác áo vét đen lượn lờ giữa những đám đông, săn tìm thân chủ cần kiện cáo. Dina cẩn thận né tránh họ, quyết định sẽ xem xét khắp lượt khu tòa án trước đã. “Không, xin cảm ơn,” cô nhắc đi nhắc lại với những người ngỏ lời giúp đỡ.
Đến gần tòa nhà chính hơn, đám đông càng dày đặc thêm và một cảm giác hỗn loạn tràn ngập khắp nơi. Người người đổ ra kéo vào qua lối cửa, những người đang ở bên trong ra dấu điên loạn cho các bên có liên quan đang cùng có mặt trong khu tổ hợp, những người ở bên ngoài thì lại gào thét gọi người ở trong ra ngoài. Thỉnh thoảng lại có người đánh rơi những giấy tờ quý giá, và cố nhặt nhạnh lại, làm bùng lên những cuộc ẩu đả xô xát, kéo theo sự mất mát của những vật dụng khác như khăn mù soa, xăng đan, mũ lưỡi trai hay khăn choàng.
Khi một dòng người đông đúc chảy vào trong, Dina để mặc bản thân mình bị cuốn theo. Cô nhận ra mình đang ở dải hành lang nhìn ra toàn khu tổ hợp. Ở đây, ai nấy cũng ở trong trạng thái di động liên tục, vào vào ra ra những phòng xử án đầy tràn người, lên và xuống các cầu thang, như thể một cơn đại dịch gây rối loạn định hướng đã lây lan ra tất cả mọi người. Các phòng ốc và hành lang ngập ứ tiếng người nói đinh tai nhức óc không dứt. Đôi khi tiếng đó hạ thành thứ âm thanh lao xao đều đều, lâu lâu lại được điểm thêm một khoảnh khắc om sòm náo loạn. Dina tự hỏi không khí thế này thì liệu có ai nghe được những lời tranh biện pháp lý hay không.
Cô đứng một lúc trước cửa một phòng xử án xem ra đang diễn ra vụ tranh tụng. Thẩm phán trầm ngâm ngậm đầu gọng kính. Luật sư bào chữa đang phát biểu. Người ta chẳng nghe ra được chữ nào. Cử động chính xác của bàn tay ông ta và những đường dây chằng cổ họng đang nổi gồ lên là những dấu hiệu duy nhất cho thấy ông ta đang say sưa trình bày vấn đề.
Thi thoảng, lắm người dừng khựng lại khi đang sải bước trên hành lang và vội vã thét lên một cái tên hay một con số nào đó. Đôi khi đội quân tìm kiếm chia năm xẻ bảy và tỏa đi tứ phía với cái tên hoặc con số thường trực trên môi. Dina bỗng tự hỏi, có lẽ nào hệ thống tư pháp đã gặp trục trặc gì đó, một vụ đình công chẳng hạn? Có lẽ các nhân viên liên lạc và thư kí và giúp việc đều đã cáo bệnh nghỉ ốm mới đẩy tòa án vào cảnh rối ren điên loạn này.
Cô quyết định bám sát một gia đình trông có vẻ rất biết mình đang làm gì. Cô chạy khi họ chạy, cô dỏng tai lắng nghe những gì họ nói, cô dõi theo ánh nhìn của họ. Và sau khi quan sát cẩn thận, cô bắt đầu nhìn ra một khuôn mẫu định hình từ hỗn độn và rối loạn. Cũng như làm việc với một mẫu váy mới thôi, cô nghĩ thầm. Các mẫu vẽ bằng giấy trông cũng rối rắm, cho đến khi được ghép nối với nhau một cách quy củ.
Giờ cô đã đủ khả năng nhận ra rằng tất cả những rung động điên cuồng nọ đều là một phần của một ngày bình thường nơi tòa án. Chẳng hạn, đám đông tán loạn ngoài hành lang chỉ đơn giản đang cố tìm kiếm bảng thông báo có ghi số vụ kiện của họ cùng vị trí phòng xử. Những nhóm người thì thọt với nhau trong các góc tối một cách rất khả nghi là các tay trung gian đang đàm phán tiền hối lộ. Những người mồm hò hét tên ai đó là các luật sư đang tìm khách hàng của mình, hoặc ngược lại, vì vụ kiện của họ sắp được đem ra xét xử. Sau khi đã chờ đợi hàng tháng trời, và lắm lúc là cả hàng năm trời, thái độ điên cuồng của những kẻ đi thưa kiện là điều dễ hiểu. Không có gì khủng khiếp hơn là bị bồi thẩm đoàn sửa đổi lịch phiên tòa vì vị cố vấn pháp luật đã chọn đúng giây phút hệ trọng này để đi toa lét, hoặc kiếm một tách trà, mà không thèm báo trước với thư ký.
Khi Dina đã lần ra đầu dây mối nhợ của trật tự bên trong sự hỗn độn, cô cảm thấy tự tin hơn. Cô quay ra phía ngoài khu tổ hợp và tìm luật sư để thuê. Một số người đang trưng bày những biển hiệu viết tay liệt kê dịch vụ và chuyên môn của mình: Ở ĐÂY CHUYÊN GIẢI QUYẾT CÁC VỤ LI DỊ; DI CHÚC VÀ CHÚC THƯ; LIÊN HỆ BÁN THẬN; NHẬN THẢO BẢN CUNG KHAI BẰNG TIẾNG ANH CHUẨN NHANH GỌN, RÕ RÀNG.
Những người khác lại chọn cách rao lớn như các hàng quán ngoài chợ: “Bản sao công chứng, chỉ năm rupi! Bản khai có tuyên thệ, mười lăm rupi! Nhận mọi vụ kiện, mọi loại tội, giá rẻ!”
Cô dừng chân trước mặt một người trưng tấm biển quảng cáo có dòng đầu tiên đề: TRANH CHẤP VỀ NHÀ CHO THUÊ – CHỈ 500 RUPI. Khi cô dợm miệng định nói với anh ta, cả một bầy người, nhác thấy cơ hội xuất hiện, tức thì ùa đến vây lấy cô, vạt áo vét đen bay phấp phới. Nhiều chiếc áo trong số đó còn không đáng được gọi là đen, nước áo đã phai thành màu xám do giặt tẩy.
Đám luật sư chen lấn xô đẩy nhau hòng thu hút sự chú ý của cô nhưng vẫn duy trì lòng tự trọng khi giữ cuộc ganh đua khỏi nhuốm màu cá nhân. Thái độ kình địch trong nghề không hề bộc lộ trên gương mặt họ; tịnh không có lấy một cái cau mày hay một tiếng gắt gỏng giữa bọn họ. Ai nấy dường như đều mù điếc trước sự hiện diện của những người khác trong khi vẫn nài xin được lưu tâm.
Một người tách lên phía trước cả đám và gí mấy tấm chứng chỉ luật vào tận mặt cô. “Thưa cô! Xin cô nhìn cho – bằng thật của trường tốt! Có rất nhiều đứa lừa đảo giả danh luật sư! Dù cô chọn ai, xin hãy cẩn thận, luôn nhớ phải kiểm tra bằng cấp trước!”
“Giảm giá đặc biệt!” Một người đàn ông đứng ngoài rìa bầy người hét lớn. “Không tính phụ phí đánh máy văn bản – dịch vụ trọn gói giá rẻ!”
Họ đã vây kín cô. Bực bội vì sự chú ý không mong muốn, cô cố giải thoát chính mình khỏi cuộc hỗn chiến. “Xin thứ lỗi, tôi đang…”
“Án gì thế, thưa cô?” Một người đang cố kiễng cao chân để được nhìn thấy gào lên. “Tôi có thể xử lý được cả án dân sự lẫn hình sự!”
Nhiều giọt nước bọt của anh ta bắn thẳng lên mắt kính và má cô. Cô rúm người lại, và cố gắng tìm đường ra. Rồi, trong lúc chen lấn, một bàn tay bóp mông cô, trong khi một bàn tay khác lia sát sạt lên ngực cô.
“Đồ đểu! Lũ khốn mất dạy!” Cô thúc khuỷu tay để len ra, và đã kịp đá trúng một, hai cái ống quyển trước khi cả đám tan tác. Cô ước sao mình đem theo cây ô in hình ngôi chùa – cô sẽ dạy cho bọn này một mẻ nhớ đời.
Bàn tay cô run rẩy, và cô phải căng óc ra để đặt chân này phía trước chân kia sao cho không vấp ngã. Cô tránh ra một góc bớt đông đúc hơn của khu tổ hợp, ở bên sườn tòa nhà. Vắng bóng đám luật sư, nơi này im ắng hẳn. Những băng ghế gỗ dàn hàng dọc dãy rào khu tổ hợp. Nhiều người đang nằm nghỉ trên bãi cỏ, tranh thủ đánh một giấc với đôi dép lót dưới đầu, vừa để giữ đồ, vừa làm gối. Những người khác đang ăn cơm đựng trong những chiếc cặp lồng đựng đồ ăn trưa bằng thép không gỉ sáng bóng. Một bà mẹ đang gọt hồng xiêm bằng con dao nhíp và đút những miếng quả màu nâu ngọt lịm cho con. Tiếng nhạc từ một chiếc đài bán dẫn nhỏ vo ve như cánh chuồn chuồn trong buổi chiều nóng nực.
Giữa khung cảnh êm đềm này, trên một băng ghế gãy, một người đàn ông ngồi trân mắt nhìn lên cây xoài. Ba thằng bé đang ném đá vào mấy quả xoài xanh cứng đơ trong lúc bố mẹ chúng ngủ gà gật trên bãi cỏ. Nỗ lực của chúng rốt cuộc cũng khiến một quả đứt cuống. Mỗi đứa cắn một miếng rồi chuyền tay nhau, thịt quả xanh chua lè làm mồm đứa nào đứa nấy chun lại. Rùng mình vì khoái chí, mắt nhắm tịt, chúng nghiến chặt răng để tận hưởng thứ lạc thú ghê người. Người đàn ông ngồi trên băng ghế gãy mỉm cười và gật gù, nhấm nháp những kỉ niệm được lũ trẻ khơi lên. Túi áo sơ mi của ông phồng căng vì những cây bút mực đựng trong một chiếc hộp nhựa đặc biệt. Dưới chân ông là một bảng chữ nhật bằng bìa các tông có kích cỡ chừng bốn mươi nhân hai mươi lăm phân, được đặt tựa vào một viên gạch.
Tò mò, Dina lại gần và đọc những dòng chữ viết trên bảng: Vasantrao Valmik – Cử nhân văn chương, cử nhân luật[49]. Lạ thật, cô nghĩ thầm, tại sao ông ta lại bằng lòng ngồi đây một cách thờ ơ như thế nếu ông ta là một luật sư. Và thậm chí ông còn chẳng có lấy chiếc áo vét đen hay bỏ công đi kiếm việc.
“Thưa cô, thay mặt ngành nghề của mình, tôi muốn xin cô thứ lỗi vì quang cảnh đáng hổ thẹn gần cửa vào,” Valmik lên tiếng.
“Cảm ơn ông,” Dina nói.
“Không, thưa cô, tôi phải cảm ơn cô vì đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi mới phải. Thật nhục nhã quá, cứ trông cái cách họ bu lấy cô. Ngồi ở đây, tôi đã trông thấy hết.” Ông ta buông cái chân đang bắt chữ ngũ xuống, ngón chân cái ông hích phải tấm bảng bằng giấy bìa khiến nó đổ ập. Ông dựng thẳng nó dậy và chỉnh lại viên gạch kê.
“Từ chỗ ngồi trên băng ghế này, tôi đã quan sát thấy rất nhiều chuyện mỗi ngày. Và phần lớn khiến tôi vô cùng tuyệt vọng. Nhưng biết mong hòng gì đây, khi phán quyết đã rơi vào tay lũ ác thú tàn bạo, và các vị lãnh đạo của đất nước đã đổi trí tuệ và một nền cai trị tốt đẹp để lấy sự hèn nhát và mở mang quyền lực cá nhân? Xã hội của chúng ta đang mục nát từ nóc xuống.”
Ông ngồi dịch sang mép của băng ghế xiêu đổ, nhường cho cô phần ghế ít vẹo vọ hơn. “Mời cô ngồi.”
Dina nhận lời, bị ấn tượng mạnh bởi lời lẽ và phong thái của ông ta. Cô có cảm giác ông lạc điệu hẳn so với tất cả những gì bao quanh ông. Một gian văn phòng được bố trí trang nhã với một chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ, ghế bọc da, và những giá sách đầy kín sẽ hợp với ông hơn. “Ở bên này tòa án, cảnh vật thật êm ả,” cô nói.
“Phải, tuyệt quá phải không? Các gia đình nghỉ ngơi trong bình yên, chờ thời gian trôi qua cho đến khi Những Bánh Xe Công Lý nghiền ra vụ kiện của mình. Ai mà tin nổi khung cảnh tươi đẹp này thực chất lại là cái rạp hát nhếch nhác cho hiềm khích và thù hằn, cái sân khấu vụn nát nơi những bi kịch và cả trò hề được biểu diễn? Ở ngoài đây, trông nó giống một khu dã ngoại hơn là một chiến trường. Cách đây vài tháng tôi thậm chí còn được chứng kiến một người phụ nữ trở dạ và sinh con ngay giữa nơi này, trong hạnh phúc tột bậc. Chị ta không muốn đến bệnh viện, vì không muốn vụ án của mình bị đình trệ thêm nữa. Chị ta là khách hàng của tôi. Chúng tôi đã thắng kiện.”
“Vậy ra ông là luật sư đang hành nghề?”
“Vâng, quả vậy,” ông chỉ vào tấm bảng. “Có bằng cấp hẳn hoi. Nhưng từ ngày xửa ngày xưa, cách đây rất nhiều năm, từ hồi tôi còn học đại học, ở Khoa Văn năm nhất, các bạn bè thường bảo tôi chẳng cần học nữa vì khi đó đã là LL.B rồi.”
“Nghĩa là sao?”
“Lord of the Last Bench – Vua Của Băng Ghế Cuối,” ngài Valmik nói, đoạn mỉm cười. “Họ trao cho tôi bằng danh dự này vì tôi luôn chọn chỗ cuối ở vị trí xa xôi hẻo lánh nhất trong lớp, nhờ thế tôi có một góc nhìn bao quát toàn thể. Và tôi phải thú nhận là, vị trí ấy dạy tôi nhiều điều về bản chất con người và công lý hơn cả những gì có thể học được từ bài giảng của các giáo sư.”
Ông vuốt lên bó bút cất trong túi áo sơ mi như thể để đoan chắc chúng vẫn có mặt đầy đủ và được quan tâm cẩn thận. Chúng kêu lạo xạo dữ dội trong lớp bảo vệ bằng nhựa, như một ống mũi tên. “Giờ tôi ngồi đây, với một bằng cấp mới: L.BB – Lord of the Broken Bench, Vua Của Băng Ghế Hỏng. Và sự nghiệp học tập của tôi vẫn tiếp tục.” Ông bật cười, và Dina lịch sự góp tiếng cùng ông. Chỗ ngồi ọp ẹp của họ rung chuyển.
“Nhưng tại sao vậy, ngài Valmik, sao ngài không ra trước cửa mà đứng như các luật sư khác, rồi chèo kéo mời mọc khách hàng?”
Ông ta hướng ánh nhìn lên cây xoài và nói: “Tôi cảm thấy những hành vi kiểu ấy quá ư lông lỗ, hoàn toàn infra dig.” Ông ta vội vã đế thêm, “Tức là quá thấp kém so với phẩm giá của tôi ấy mà,” lo rằng cô sẽ coi việc ví von bằng tiếng La tinh là hành vi khoe khoang hợm mình.
“Nhưng nếu ông chỉ ngồi đây, thì ông kiếm sống ra sao?”
“Thì cũng xoay xở được cả thôi. Mỗi lúc một ít. Cuối cùng cũng có người sẽ phát hiện ra tôi. Những người kiểu như cô, khi đã quá ghê tởm với bọn dân luật thô lậu và lũ con phe thùng rỗng kêu to kia. Dĩ nhiên, không phải ai trong số đó cũng xấu nết cả – họ chỉ đói việc quá đấy thôi.” Ông ta vẫy tay chào thân ái với một viên thư ký tòa án bước ngang qua và lại vuốt ve mấy chiếc bút của mình. “Ngay cả nếu tôi có đủ gan để làm những việc thô tục ấy, thì khuyết tật thanh quản cũng không cho phép tôi cạnh tranh trong cuộc chiến ầm ĩ kia. Cô thấy đấy, tôi bị bệnh đường họng rất nặng. Chỉ cần lên giọng là tôi sẽ mất tiếng hẳn luôn.”
“Ôi, thật không may.”
“Không, cũng không hẳn,” ngài Valmik trấn an cô. Ông ta coi sự đồng cảm chân thành là một món hàng quý giá, và ghét phải thấy nó bị phung phí. “Không, nó chẳng ảnh hưởng đến tôi một mảy nào. Ngày nay, người ta đã không còn chuộng những vị luật sư có thể khiến tiếng nói của mình rổn rảng khắp chốn pháp đình, thôi miên thẩm phán và bồi thẩm đoàn giữa những mê cung hùng biện.” Ông bật cười. “Không ai có nhu cầu vời đến Clarence Darrow nữa – hết sạch các vụ án khỉ Scopes[50] rồi mà. Mặc dù khỉ thì vẫn còn nhiều lắm, ở phòng xử án nào cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng diễn trò để đổi lấy lạc và chuối.”
Ông thở dài não nề, và giọng mai mỉa của ông bỗng bị nỗi đau choán chỗ. “Nhưng bọn ta là cái quái gì mà đòi mở miệng, hả cô, bọn ta là cái quái gì mà đòi nghĩ về hiện trạng của đất nước này? Khi tòa án cao nhất của cái xứ sở này đã biến tội lỗi của thủ tướng thành vô tội, thì toàn bộ chốn này” – ông ta khoát tay về phía tòa nhà đá uy nghi – “nó đã trở thành một viện bảo tàng của những mánh lừa lọc rẻ tiền, thay vì thứ pháp luật biết sống, biết thở giúp thổi thêm sức mạnh cho xã hội.”
Xúc động trước sức nặng của nỗi đau trong lòng ông, Dina hỏi: “Tại sao Tòa án tối cao lại làm thế?”
“Ai mà biết tại sao hả cô. Tại sao lại có bệnh tật, có nạn đói, có khổ đau? Chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế nào, ở đâu, khi nào thôi. Thủ tướng gian lận trong cuộc bầu cử, và thế là mọi quy định có liên quan lập tức được sửa đổi. Vậy là bà ta thành vô tội. Bọn người trần mắt thịt khốn khổ chúng ta đành phải chấp nhận rằng những chuyện trong quá khứ là nằm ngoài tầm với của ta, trong khi thủ tướng lại chơi trò tung hứng với thời gian đã qua.”
Ngài Valmik đột nhiên im bặt, ông nhận ra mình đang huyên thuyên vớ vẩn trong khi một khách hàng tiềm năng đang ngồi ngay bên cạnh. “Nhưng vụ án của cô thì sao, thưa cô? Trông cô có vẻ là người khá thông thạo chốn này.”
“Tôi chưa bao giờ đặt chân đến tòa án.”
“A, vậy thì cô đã sống một cuộc đời may mắn lắm đấy,” ông ta thì thầm. “Tôi không muốn tọc mạch đâu, nhưng liệu có cần phải viện đến luật sư không?”
“Có, việc liên quan đến căn hộ của tôi. Rắc rối phát sinh cách đây mười chín năm, sau ngày chồng tôi qua đời.” Cô kể cho ông ta mọi chuyện, khởi đầu từ lá thư thông báo đầu tiên của chủ nhà chỉ vài tháng sau khi Rustom mất vào đúng lễ kỉ niệm ba năm ngày cưới của hai vợ chồng, và chuyện mấy người thợ may, người khách trọ, những cuộc quấy rối không ngưng nghỉ của lão thu tiền nhà, vụ dọa dẫm của bọn đầu gấu, vòng bảo kê của Ông trùm ăn mày, và cái chết của ông ta.
Ngài Valmik áp đầu các ngón tay lại với nhau thành hình ngọn tháp và lắng nghe. Ông ta không nhúc nhích lấy một lần, kể cả để vuốt ve mấy chiếc bút thân yêu cũng không. Cô lấy làm kinh ngạc bởi ông cẩn trọng để tâm đến vậy – gần như cũng cẩn trọng như lúc ông nói.
Cô kể xong, ông buông tay xuống. Rồi ông nói bằng giọng nho nhỏ đã bắt đầu chuyển thành khàn khàn, “Đây là một tình huống rất gian nan. Cô biết đấy, thưa cô, đôi khi hành động ex curia thoạt trông có vẻ là chuyện cần kíp.” Trông thấy cô lộ vẻ bối rối, ông ta đế thêm, “Nghĩa là ngoài vòng tòa án. Nhưng cuối cùng nó lại làm nảy sinh càng nhiều rắc rối hơn. Đúng, đang có một cơn đại dịch đầu gấu trong bối cảnh loạn lạc của thời đại chúng ta. Nói cho cùng, đây là một Đế Chế Đầu Gấu. Thế nên ai có thể trách cô được vì đã chọn con đường đó? Có kẻ nào lại muốn bước vào Ngôi Đền Công Lý nhơ nhớp, nơi Công Lý nằm phơi thây, bị chém giết bởi chính tay các hộ vệ của nó? Và nay những tên sát nhân ấy lại dám phỉ báng công cuộc thiêng liêng ấy, đem bán những thứ của nhái theo phẩm chất chí công vô tư của Công Lý cho kẻ trả giá cao nhất.”
Dina bắt đầu ước sao ngài Valmik ngừng nói năng theo cái lối khoa trương này. Lúc đầu nghe thế cũng thú vị, nhưng chẳng mấy chốc nó đã trở thành vô cùng mệt mỏi. Mọi người thích diễn thuyết thật, cô nghĩ. Bệnh phóng đại và ngoa ngôn đã lây lan ra khắp đất nước, từ các bộ trưởng cho tới luật sư, người thu tiền nhà đến người thu mua tóc.
“Vậy ông bảo là không còn hi vọng nữa ư?” Cô ngắt lời ông.
“Luôn luôn có hi vọng – hi vọng đủ để đối trọng lại nỗi tuyệt vọng của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ lạc lối mất.”
Ông ta lấy từ trong cặp ra một cuốn sổ, đoạn âu yếm chọn một chiếc bút từ cái túi được sắp xếp quy củ, và bắt đầu ghi chép. “Có lẽ bóng ma của Công Lý vẫn còn lảng vảng đâu đây, sẵn lòng giúp chúng ta. Nếu một vị quan tòa tử tế nghe kiến nghị của chúng ta và phê chuẩn lệnh cấm, cô sẽ được an toàn cho đến khi vụ án được xét xử. Tên của cô?”
“Dalal. Dina Dalal. Nhưng ông tính thù lao bao nhiêu?”
“Bất cứ mức nào cô có thể trả được. Chúng ta sẽ lo chuyện đó sau.” Ông ta ghi tháu tên của chủ nhà và địa chỉ công ty, và những chi tiết liên quan đến lịch sử vụ án. “Lời khuyên tôi dành cho cô là, đừng bỏ căn hộ trong cảnh không người ở. Sở hữu chiếm đến chín phần mười luật pháp. Còn bọn đầu gấu về cơ bản chỉ rặt một lũ thỏ đế. Liệu có thể kiếm được ai đó, họ hàng hoặc bạn bè, đến ở với cô không?”
“Chẳng có ai cả.”
“Phải, không bao giờ có, phải không? Xin hãy thứ lỗi cho câu hỏi của tôi.” Ông ta ngừng lời, rồi thổ ra một tràng ho sặc sụa ghê người. “Xin cô thứ lỗi,” ông ta rền rĩ, “tôi nghĩ tôi đã vượt quá định mức hội thoại của cổ họng tôi rồi.”
“Trời đất,” Dina nói, “thế thì tệ quá.”
“Mà đây đã là sau điều trị rồi đấy nhé,” ông ta nói, bằng giọng tưởng như đang khuếch khoác. “Cô phải nghe tôi nói cách đây một năm kia. Lúc ấy tôi chỉ có thể chí chít như chuột thôi.”
“Nhưng cái gì đã tàn h