Kết Thúc: Năm 1984.
Trời đã sáng bạch khi chuyến bay từ vùng Vịnh đưa Maneck về nhà hạ cánh xuống thủ đô sau cuộc khởi hành bị trì hoãn. Anh đã cố ngủ trên máy bay song những hình ảnh chớp nháy khó chịu của một bộ phim được chiếu trong khoang hạng thường không ngừng lấp loáng trước làn mi mắt của anh như một hàng đèn tuýp bị chập mạch. Mắt hãy còn hoa, anh xếp vào hàng chờ kiểm tra hải quan.
Một dự án mở rộng sân bay đang được triển khai nên hành khách bị dồn vào một khu công trình tạm dựng bằng tôn. Anh còn nhớ, quá trình xây dựng mới chỉ bắt đầu khi anh rời nhà đi Dubai tám năm trước. Từng đợt hơi nóng từ lớp kim loại bị nắng nung dội hầm hập vào đám đông. Mùi mồ hôi, khói thuốc, nước hoa bị biến hơi, và nước tẩy rửa vấn vít trong không khí. Mọi người dùng cả hộ chiếu và tờ khai hải quan để quạt lia lịa. Có người lăn ra ngất xỉu. Hai nhân viên liên lạc cố làm ông ta tỉnh lại bằng cách dìu ông ra phía trước luồng gió từ chiếc quạt bàn của một nhân viên hải quan. Nước được mang tới.
Công cuộc rà soát hành lý được nối lại sau cuộc gián đoạn đó. Một hành khách xếp sau Maneck càu nhàu về sự chậm trễ, còn Maneck nhún vai: “Có lẽ họ nhận được tin mật báo là một tay buôn lậu lớn sẽ từ Dubai đến đây hôm nay.”
“Không, lúc nào mà chả thế này,” người đàn ông nọ nói. “Với tất cả các chuyến bay từ Trung Đông tới. Thứ họ đang tìm là đồ trang sức, vàng thỏi, hàng điện tử.” Ông ta giải thích là hải quan bây giờ làm ăn hăng hái hơn hẳn là nhờ một chỉ thị của chính phủ trong đó treo thưởng đặc biệt bằng chính một phần số hàng hóa mỗi nhân viên bắt được. “Thế nên dạo này họ sách nhiễu bọn ta khiếp lắm.”
“Mấy bộ sari đã được gấp cẩn thận của tôi rồi đến nhàu nhĩ hết mất thôi,” bà vợ ông kia rên rỉ.
Nhân viên hải quan kiểm tra va li của Maneck xọc ngón tay vào bên dưới đống quần áo và sờ soạng tứ phía. Maneck tự hỏi không biết có hình phạt nào cho tội đặt bẫy chuột bên trong hành lý của mình không. Sau một hồi tích cực mò mẫm, nhân viên nọ đành miễn cưỡng cho anh qua.
Maneck sập va li lại, rồi vội vã đi ra bên ngoài, đến trước một chiếc xe tắc xi, bảo chở đến ga tàu hỏa. Người tài xế tỏ ra không mặn mà gì với cuốc khách này. “Điểm đến ở đúng ngay trung tâm bạo loạn. Nguy hiểm lắm.”
“Bạo loạn gì?”
“Anh không biết sao? Nhiều người đang bị đánh, bị chém và bị thiêu sống ở đó đấy.”
Thay vì tranh cãi với anh ta, Maneck thử một mối khác. Nhưng mọi tài xế tắc xi anh hỏi tới đều từ chối món tiền với cùng một lời cảnh báo. Một số người còn khuyên anh nghỉ tạm ở một khách sạn gần sân bay cho đến khi tình hình lắng dịu.
Trong lúc chán nản, anh quyết định sẽ đề nghị trả thêm tiền cho người tiếp theo. “Anh sẽ được gấp đôi số tiền ghi trên đồng hồ tính cước, đồng ý không? Tôi phải về nhà, bố tôi vừa mất. Nếu tôi lỡ chuyến tàu này, tôi sẽ lỡ luôn đám tang của ông.”
“Không phải tôi lăn tăn chuyện tiền nong, anh ạ. Mạng sống của anh và tôi đáng giá hơn nhiều. Nhưng anh cứ vào đi, tôi sẽ cố gắng hết sức.” Anh ta vươn tay với chiếc đồng hồ tính cước, bật keng một tiếng, ô báo TRỐNG KHÁCH liền được lật ngược lại.
Chiếc xe tắc xi tách mình khỏi rừng xe cộ đang bu đông bu đỏ các làn đường sân bay, và không lâu sau, họ đã phóng trên đường cao tốc. Giữa những lúc nhìn đường, người tài xế chốc chốc lại quan sát hành khách của mình qua gương chiếu hậu. Maneck có thể cảm thấy ánh mắt của anh ta dán lên mình.
“Anh nên cân nhắc việc cạo bộ râu đi,” người tài xế nói. “Anh có thể bị nhầm là một người Sikh đấy.”
Maneck rất tự hào về bộ râu của mình; và nếu người khác nghĩ anh là một người Sikh thì có hề gì? Anh đã bắt đầu nuôi râu từ hai năm trước, tỉa tót thật cẩn thận để nó được như ngày hôm nay. “Làm sao người ta nhầm tôi là người Sikh được? Tôi có đội khăn xếp đâu.”
“Rất nhiều người Sikh có đội khăn xếp đâu. Tôi thì nghĩ cứ cạo sạch râu đi sẽ an toàn hơn cho anh.”
“An toàn hơn ư? Thế nghĩa là sao?”
“Nói vậy tức là anh không biết gì sao? Người Sikh chính là những người đang bị giết hại ở những khu bạo loạn. Ba ngày nay, người ta đã đốt nhà cửa, hàng quán của người Sikh, đâm chém bọn trẻ trai và đàn ông người Sikh. Còn cảnh sát chỉ chạy lăng xăng chỗ nọ chỗ kia, vờ như đang bảo vệ dân chúng.”
Anh ta đánh xe sát sạt vào lề đường bên trái khi một đoàn xe tải quân sự có hộ tống tiến lại gần chiếc tắc xi từ phía sau. Qua vai mình, anh ta hét lớn với Maneck, cố át những âm thanh ầm ầm như sấm động của đội xe. “Đấy là Lực lượng bảo vệ biên giới đấy! Báo nói hôm nay họ sẽ được điều xuống.”
Đoàn xe đi qua, và giọng người tài xế trở lại bình thường. “Đội quân tinh nhuệ nhất của chúng ta, BSF[52]. Phòng tuyến đầu tiên giúp cản bước bọn xâm lược ngoại bang. Thế mà nay họ lại phải bảo vệ đường biên giới ngay trong các thành phố của chúng ta. Thật là một nỗi nhục nhã cho toàn đất nước.”
“Nhưng tại sao lại chỉ nhằm vào người Sikh?”
“Sao kia?”
“Anh chả nói chỉ có mỗi người Sikh bị tấn công là gì.”
Người tài xế trợn mắt nhìn vào gương chiếu hậu, vẻ kinh ngạc. Lẽ nào vị khách này đang giả ngu? Anh ta kết luận là câu hỏi vừa rồi thực sự đã phát ra một cách thành thật. “Mọi chuyện bắt đầu khi thủ tướng bị giết ba ngày trước đây. Bà ta bị bắn bởi chính các vệ sĩ người Sikh của mình. Vì vậy vụ này được coi như một cuộc báo thù.”
Đoạn anh ta quay lại và nhìn thẳng vào Maneck. “Anh ở đâu vậy chứ, anh không nghe được tin tức gì về những chuyện đã xảy ra sao?”
“Tôi biết về vụ ám sát, nhưng cuộc bạo loạn thì không.” Anh săm soi những vết nứt trên chiếc ghế bọc vinyl trước mặt mình và cái cổ áo cũ sờn của người tài xế ló ra phía trên lưng ghế. Những đầu mụn nhỏ, vẫn chưa chín, nổi lên trên cổ người đàn ông nọ. “Tôi còn bận túi bụi lo tìm cách quay về cho kịp đám tang bố tôi.”
“Phải,” người tài xế đáp bằng giọng cảm thông. “Chắc phải khó khăn cho anh lắm.” Anh ta bẻ tay lái để tránh một con chó trên đường, một con chó lai lông vàng, ghẻ lở và gầy còm.
Maneck quay lại nhìn qua cửa kính phía sau xe để xem con vật có chạy kịp đến nơi an toàn không. Một chiếc xe tải đi sau họ đã cán bẹp nó. “Vấn đề là, tôi đã ở nước ngoài tám năm rồi,” anh bồi thêm một lý do khác.
“Đó quả là một khoảng thời gian rất dài. Như thế có nghĩa là anh đã rời đi trước khi Tình trạng khẩn cấp chấm dứt, trước cuộc bầu cử. Dĩ nhiên, với những con người bình thường, chẳng có gì thay đổi cả. Chính phủ vẫn tiếp tục phá bỏ nhà cửa và các khu lều lán của người nghèo. Ở các làng quê, họ nói họ chỉ chịu đào giếng nếu số ca triệt sản vùng đó đạt chỉ tiêu. Họ nói với nông dân là họ chỉ cấp phân bón khi nào phẫu thuật cắt ống dẫn tinh đã được hoàn tất. Sống mỗi ngày là đối mặt với hết tình trạng khẩn cấp nọ đến tình trạng khẩn cấp kia.” Anh ta bấm còi cảnh báo một người đang bước thất thểu dọc lề đường. “Anh đã nghe về vụ tấn công Chùa Vàng chưa, chưa à?”
“Rồi. Chuyện ầm ĩ thế mà,” Maneck nói. Anh chàng này nghĩ anh vừa từ đâu trở về, mặt trăng ư? Trong khoảng im lặng nối tiếp sau đó, anh nhận ra rằng trên thực tế, anh biết rất ít về chuyện xảy ra những năm tháng mình đi vắng. Anh tự hỏi không hiểu những tấn bi hài kịch gì khác đã diễn ra trên đất nước này trong khi anh đang giám sát tình hình làm lạnh bầu không khí sa mạc nóng bỏng.
Anh động viên người tài xế nói tiếp: “Quan điểm của anh về vụ Chùa Vàng thế nào?”
Người đàn ông rất vui vì được hỏi. Anh ra đánh xe rời khỏi đường cao tốc khi họ đến gần ngoại ô thủ đô. Họ đi qua xác một chiếc xe đã bị cháy rụi, bánh xe chổng ngược lên trời. “Tôi sẽ phải đi đường vòng đến ga tàu. Có một số tuyến đường ta nên tránh đi thì hơn.” Đoạn anh ta quay lại với câu hỏi của Maneck. “Thủ tướng nói các tay khủng bố người Sikh đang ẩn náu trong Chùa Vàng. Vụ tấn công của quân đội xảy ra mới cách đây vài tháng. Nhưng câu hỏi chính phải đặt ra là vấn đề đã phát sinh từ cách đây nhiều năm như thế nào, không phải à?”
“Phải. Như thế nào?”
“Cũng hệt như cách tất cả mọi vấn đề của bà ta từng phát sinh thôi. Xuất phát từ những trò xui nguyên giục bị của chính bà ta. Cũng hệt như ở Sri Lanka, Kashmir, Assam, Tamil Nadu. Ở Punjab, bà ta đã giúp một nhóm gây rối chính phủ trung ương. Sau đó nhóm này mạnh lên, đấu tranh đòi li khai và thành lập nhà nước Khalistan, họ chỉ gây phiền hà đối với riêng mình bà ta. Bà ta bật đèn xanh cho súng và bom, và rồi những thứ công cụ tai ác, bạo lực này bắt đầu tấn công chính chính phủ của bà ta. Trong tiếng Anh họ nói thế nào ấy nhỉ – ác giả ác cáo, phải không?” “Ác báo chứ,” Maneck lẩm nhẩm.
“Phải, chính xác,” người tài xế nói. “Và rồi bà ta làm cho tình hình càng lúc càng tồi tệ thêm, ra lệnh cho quân đội tấn công Chùa Vàng và bắt giữ các phần tử khủng bố. Họ điều xe tăng cùng đủ loại súng ống to lớn xông vào trong chùa, như một lũ côn đồ. Ngôi đền đã chịu không biết bao nhiêu thiệt hại mà kể. Đó là chốn linh thiêng nhất của người Sikh, và tình cảm của tất cả dân chúng đã bị tổn thương.”
Maneck rất xúc động trước lời nói giảm chua xót kia. “Bà ta đã tạo ra một con quái vật,” người tài xế tiếp lời, “và con quái vật đó đã ăn tươi nuốt sống bà ta. Giờ nó quay sang ăn tươi nuốt sống những người vô tội. Ba ngày, vậy mà đã có biết bao nhiêu vụ chém giết đẫm máu.” Ngón tay anh ta siết chặt vô lăng, và giọng anh ta run lên. “Bọn chúng tưới dầu hỏa lên người Sikh và thiêu sống họ. Chúng bắt đàn ông, giật toạc râu trên mặt họ hoặc lấy kiếm phạt cụt, rồi giết họ. Nhiều gia đình bị thiêu cho đến chết trong chính ngôi nhà của mình.”
Anh ta đưa tay lên bịt miệng, đoạn hít một hơi thật dài, và tiếp tục mô tả cảnh tàn sát mà anh ta đã phải chứng kiến. “Và tất cả những việc này, anh ạ, lại xảy ra ở chính thủ đô của đất nước ta. Tất cả, trong khi cảnh sát diễn những trò vờ vịt nhục nhã của chúng, còn lũ chính trị gia thì nói người dân đang đau buồn, họ chỉ muốn báo thù cho cái chết của vị lãnh tụ của họ, chúng tôi biết làm thế nào được. Còn đây là điều tôi muốn nói với bọn chó thối tha ấy – phẹt!” Anh ta nhổ nước bọt qua cửa sổ.
“Nhưng tôi nghĩ thủ tướng đâu có được lòng dân chúng lắm. Tại sao họ phải đau khổ đến thế?”
“Quả đúng thế, anh ạ, bà ta không được lòng những người dân bình thường, kể cả khi bà ta đi thăm khắp mọi nơi trong bộ sari trắng như một nữ thần. Nhưng giả sử bà ta được yêu quý đi nữa, anh nghĩ những người bình thường sẽ cư xử kiểu đấy ư? Không, đấy là sản phẩm của bè lũ tội phạm được đảng của bà ta trả tiền. Một số bộ trưởng thậm chí còn giúp chúng bằng cách cung cấp danh sách chính thức các gia đình và hàng quán của người Sikh kia. Nếu không, bọn giết người làm sao xuống tay hiệu quả, chính xác đến vậy trong một thành phố lớn đông đúc như thế này.”
Giờ họ đang đi qua những con phố nơi nhiều dãy nhà đổ nát còn ngun ngún khói lửa và các đống gạch vụn vữa lở chạy suốt dọc con đường. Phụ nữ và trẻ con ngồi giữa cảnh tan hoang, mặt mày thất thần hoặc đang thổn thức khóc. Khuôn mặt người tài xế rúm ró, Maneck tưởng đó là nỗi sợ hãi. “Đừng lo,” anh nói. “Sẽ không có rắc rối gì với bộ râu của tôi đâu. Nếu chúng ta bị chặn lại, họ sẽ biết ngay tôi là một người Parsi – tôi sẽ cho họ xem bộ sudra và kusti tôi đang mặc.”
“Phải, nhưng có thể bọn chúng sẽ đòi kiểm tra bằng lái xe của tôi.”
“Thì sao?”
“Anh chưa đoán ra sao? Tôi là một người Sikh – hai ngày trước đây tôi đã phải cạo râu cắt tóc. Nhưng tôi vẫn đeo kara[53].” Anh ta giơ bàn tay lên, phô ra chiếc vòng sắt quanh cổ tay mình.
Maneck ngắm kĩ khuôn mặt người tài xế, và đột nhiên bằng chứng trở nên rõ ràng: làn da của anh ta, vốn không quen với lưỡi dao cạo, đã bị xước xát ở vài chỗ. Thốt nhiên, tất cả những tình tiết được kể lại bằng lời của người đàn ông nọ – về những vụ cắt xẻo và đánh đập và chặt đầu, vô vàn cách thức mà đám bạo loạn đã dùng để bẻ xương, mổ thịt và rút máu – hết thảy những điều Maneck đã lắng nghe bằng một thái độ dửng dưng nay đã nhuốm đẫm một màu hiện thực nghiệt ngã trong những vệt cắt lẹm của lưỡi dao cạo. Những chấm đỏ đã keo lại trên cằm và hàm đã có thể biến thành những dòng sông máu, ấn tượng chúng tạo ra thật dữ dội khi điểm trên làn da mới cạo tái nhợt.
Maneck bỗng thấy buồn nôn, mặt anh lạnh toát và ướt đẫm mồ hôi. “Lũ khốn nạn!” Anh nghẹn ngào. “Tôi cầu cho tất cả bọn chúng đều bị bắt và bị treo cổ lên!”
“Những tên sát nhân thực sự sẽ không bao giờ bị trừng phạt đâu. Vì phiếu bầu và quyền lực, bọn chúng sẵn sàng cược với sinh mạng con người. Hôm nay là người Sikh. Năm ngoái là người Hồi; trước đó, là người Harijan[54]. Rồi đến một ngày, chiếc sudra và kusti của anh cũng chẳng đủ để bảo vệ anh đâu.”
Chiếc xe tắc xi đỗ lại trước ga tàu hỏa. Maneck nhìn đồng hồ tính cước và lấy gấp đôi số tiền từ ví của mình, song người tài xế không chịu lấy hơn mức giá thực tế. “Xin anh,” Maneck khẩn khoản, “xin anh nhận cho.” Anh ấn nắm tiền vào tay người kia, như thể nó sẽ giúp anh ta sống sót qua cơn kinh hoàng, và cuối cùng người tài xế đành nhận lấy.
“Tôi bảo này,” Maneck nói, “tại sao anh không tháo chiếc kara của anh ra và giấu tạm nó đi?”
“Không tháo ra được đâu.” Anh ta giơ cổ tay lên và giật chiếc vòng thật mạnh. “Tôi đang định cắt đi. Nhưng tôi phải kiếm một thợ rèn tin cậy, một người sẽ không nói hở cho những kẻ không tốt biết chuyện.”
“Để tôi thử xem.” Maneck nắm lấy bàn tay của người tài xế, hết giằng lại vặn chiếc kara. Nó không mảy may nhúc nhích quá gốc ngón tay cái.
Người tài xế mỉm cười. “Chắc chắn như một chiếc còng nhỉ? Tôi đã bị xích vào tín ngưỡng của mình rồi – một người tù hạnh phúc.”
“Đã vậy, chí ít anh hãy mặc áo dài tay. Che nó lại, giấu kín cổ tay anh vào.”
“Nhưng thỉnh thoảng tôi lại phải chìa tay ra để xin đường. Nếu không cảnh sát giao thông sẽ bắt tôi vì tội lái ẩu.”
Maneck chịu thua, buông chiếc kara ra. Người tài xế cầm lấy bàn tay Maneck bằng cả hai tay mình và siết nó thật chặt.
“Lên đường thượng lộ bình an nhé,” anh ta nói.
Aban Kohlah khóc nấc lên khi con trai bà về tới. Được gặp lại anh thật tuyệt vời làm sao, bà nói thế, nhưng tại sao anh lại đi biền biệt tới tám năm trời, phải chăng anh giận dỗi chuyện gì, lẽ nào anh cảm thấy không ai cần đến mình nữa? Vừa nói, bà vừa ôm anh và vỗ lên má anh và vuốt tóc anh.
“Nhưng mẹ thích bộ râu của con đấy,” bà nói bằng giọng đầy ý thức trách nhiệm. “Làm con đẹp trai hẳn lên. Lẽ ra con nên gửi cho bố mẹ một tấm ảnh, để bố còn được trông thấy. Nhưng đừng lo, mẹ chắc chắn bố đang nhìn xuống đây từ trên kia.”
Maneck im lặng lắng nghe. Không một ngày nào trôi qua trong suốt cái án lưu đày dài dằng dặc kia mà anh không nghĩ đến ngôi nhà và cha mẹ mình. Ở Dubai, anh cảm thấy như mình đã mắc kẹt. Mắc kẹt, anh nghĩ thầm, cũng hệt như người phụ nữ trẻ anh đã gặp trong một lần nhận nhiệm vụ bảo dưỡng tại gia để sửa một cái tủ lạnh. Cô đã tới vùng Vịnh làm giúp việc vì khoản thù lao hứa hẹn có vẻ rất hời.
“Sao thế, Maneck?” Bà Kohlah van vỉ. “Chẳng lẽ con không muốn sống ở đây, giữa vùng đồi núi nữa ư, có phải thế không? Con thấy nơi này buồn tẻ quá hay sao?”
“Không, đẹp lắm mẹ ạ,” anh nói, đoạn lơ đễnh vỗ nhẹ lên tay bà. Anh không thể thôi băn khoăn về số phận cô giúp việc nọ. Phải lao động quá sức, liên tục bị bọn đàn ông con trai trong nhà sàm sỡ quấy rối, bị nhốt trong phòng khi đêm xuống, hộ chiếu bị tịch thu, cô đã van xin anh cứu giúp, nói bằng tiếng Hindi để chủ cô không hiểu được. Nhưng cô đã bị gọi xuống bếp trước khi Maneck kịp nói gì. Biết khó lòng can thiệp, tất cả những gì anh đã làm là gọi một cuộc nặc danh đến Lãnh sự quán Ấn Độ.
Anh thật quá may mắn, nếu so với cô gái khốn khổ kia, anh nghĩ. Vậy thì cớ sao anh lại có cảm giác bất lực hệt như cô, ngay cả khi đã ở nơi đây, trong chính nhà mình?
Và giờ, khi thấy mẹ khóc, anh ước sao mình có câu trả lời cho những câu hỏi của bà. Nhưng anh không tài nào giải thích nổi, dù cho bà hay cho chính mình. Tất cả những gì anh có thể viện ra chỉ là những lý do cũ rích, sáo mòn: nghề nghiệp yêu cầu gắt gao, áp lực công việc, thiếu thốn thời gian, một chuỗi lặp lại của những từ ngữ rỗng tuếch mà anh vẫn ghi bừa vào lá thư gửi cho mẹ hàng năm.
“Không, nói cho mẹ biết nguyên do thực đi,” bà nói. “Không sao, chúng ta sẽ nói chuyện sau, con cứ nghỉ ngơi đã. Tội nghiệp bố, bố nhớ con biết bao, thế nhưng bố chưa bao giờ, chưa khi nào kêu ca một tiếng. Nhưng mẹ biết nó đang gặm nhấm bố từ bên trong.”
“Vậy ra mẹ đang bảo tại con mà bố bị ung thư phải không?”
“Không! Ý mẹ không phải như vậy! Không hề!” Mẹ anh giữ chặt khuôn mặt anh trong hai bàn tay bà, nhắc đi nhắc lại lời phủ nhận cho đến khi bà chắc chắn con đã tin mình. “Con biết không, có lần bố đã bảo mẹ, rằng ngày tồi tệ nhất đời bố là khi bố để thiếu tướng Grewal thuyết phục bố rằng một công việc ở vùng Vịnh sẽ là một điều tốt cho con.”
Hai mẹ còn ngồi dưới hiên nhà, bà kể cho con biết những công việc chuẩn bị cho tang lễ vào sáng hôm sau: các thầy cả sẽ tới đây từ đền thờ lửa gần nhất, tuy vẫn là một chặng đường khá xa xôi. Hầu hết các thầy đã từ chối lời mời khi họ biết tin người quá cố sẽ được hỏa thiêu, họ nói rằng mình chỉ làm lễ cho các tín đồ Bái Hỏa Giáo sẽ được tống táng trên Tháp Bình Yên – chuyện phải lặn lội đường xa bằng tàu hỏa không thành vấn đề.
“Mấy ông thầy đấy thật hẹp hòi quá,” bà vừa nói vừa lắc đầu. “Dĩ nhiên, chúng ta làm hỏa táng vì đó là nguyện vọng của bố, nhưng còn những gia đình không đủ khả năng vận chuyển thi thể đi thì sao? Chả lẽ các thầy cũng từ chối, không cầu nguyện cho họ nữa hay sao?”
Cuộc hỏa táng sẽ không được thực hiện ở một giàn thiêu ngoài trời, bà giải thích. Lò thiêu điện dưới thung lũng đã được đặt chỗ trước – như vậy sẽ lịch sự hơn. Mà bố cũng không trăng trối rõ về cách thức hỏa thiêu, nên chắc sẽ không có vấn đề gì hết.
Cửa hàng bách hóa tổng hợp vẫn đóng cửa từ ngày ông mất. Bà tính mở cửa trở lại vào tuần sau và tiếp tục hoạt động như bình thường. “Con có định quay về đây sống không?” Bà rụt rè ướm hỏi, sợ rằng mình có vẻ như đang tọc mạch chuyện riêng của con quá chăng.
“Con vẫn chưa nghĩ đến chuyện đó.”
Ánh sáng buổi ban ngày đã bắt đầu nhạt dần quanh họ. Anh ngắm một con thằn lằn đang bám bất động trên bức tường đá. Thỉnh thoảng, thân thể gầy nhẳng của nó lại bắn về phía trước như một mũi tên để bắt lấy một con ruồi.
“Ở Dubai con có được vui vẻ không? Công việc có thú vị không?”
“Cũng được ạ.”
“Kể cho mẹ nghe thêm đi. Con viết thư bảo con đã lên làm quản lý rồi phải không?”
“Trưởng nhóm thôi. Con phụ trách một đội bảo dưỡng máy điều hòa không khí trung tâm.”
Bà gật đầu. “Thế ở Dubai thế nào?”
“Cũng được.” Anh lục tìm trong tâm trí của mình, mong kiếm chi tiết gì đó để thêm vào, và nhận ra anh chẳng biết gì về nơi đó, do không muốn biết. Con người, phong tục, ngôn ngữ – tất thảy đến nay vẫn hoàn toàn xa lạ với anh, hệt như khi anh mới đặt chân đến đó cách đây tám năm. Cảm giác cây bị bật gốc trong anh dường như không bao giờ chấm dứt. “Rất nhiều khách sạn lớn. Và có hàng trăm cửa hàng bán trang sức vàng và dàn âm thanh nổi và ti vi.”
Bà lại gật đầu. “Hẳn là một nơi rất đẹp.” Nỗi buồn của anh giày vò bà khổ sở như một thứ gì đó có thể sờ nắn được. Bà cảm thấy thời điểm đã chín muồi để nhắc lại chuyện quay về nhà của anh. “Cửa hàng là của con, con cũng biết thế mà. Nếu con muốn quay về và quản lý nó, hiện đại hóa nó. Làm bất cứ việc gì con thích. Hoặc con bán đi và dùng tiền để mở công ty điều hòa không khí và làm lạnh của riêng mình cũng được.”
Anh nghe thấy giọng e dè trong lời bà nói mà đau khổ vô cùng. Một bà mẹ lại sợ sệt không dám nói chuyện với chính con trai mình, anh thực sự đáng sợ đến thế sao? “Con vẫn chưa nghĩ đến hướng nào trong số đó cả,” anh nhắc lại.
“Con cứ từ từ, có gì vội đâu. Con muốn thế nào cũng được.”
Anh cau mày trước sự gắng gỏi của mẹ hòng xoa dịu mình. Tại sao bà không nói bà chán ghét cung cách cư xử của anh, khoảng thời gian vắng mặt dài dằng dặc của anh, những lá thư nhạt nhẽo, nhát gừng của anh? Và nếu bà có nói thế thật, anh có biện hộ cho mình không? Liệu anh có dẫn ra hết lý do này đến lý do khác, cố gắng giải thích rằng đối với anh, mỗi nỗ lực dường như đều vô nghĩa nhường nào không? Không. Bởi vì sau đó bà sẽ lại khóc, anh sẽ bảo bà đừng làm như vậy nữa, bà sẽ lại vạch vòi hỏi han thêm nữa, rồi đến nước anh sẽ bảo bà nên lo chuyện riêng của mình đi thì hơn.
“Mẹ đang nghĩ,” bà Kohlah nói, cố chuyển sang một chủ đề ít mạo hiểm hơn. “Nhân lúc con trở về sau bao nhiêu năm, có lẽ con nên tận dụng cơ hội này để đi thăm họ hàng của nhà ta. Tất nhà mọi người trong gia đình Sodawalla đều rất háo hức muốn được gặp lại con.”
“Đi xa lắm, con không có thời gian.”
“Chỉ hai, ba ngày cũng không ư? Con có thể qua chào cái cô con đã ở cùng khi còn học đại học. Cô ấy sẽ rất mừng nếu được gặp con.”
“Qua ngần ấy năm chắc cô ấy cũng quên luôn con rồi.”
“Mẹ không nghĩ thế. Nếu không phải nhờ có cô ấy, con đã không hoàn thành được chứng chỉ. Con không thích kí túc xá trường đại học, con muốn về thẳng nhà luôn, con nhớ không? Có được thành công hôm nay, con mắc nợ cô Dina Dalal và căn hộ của cô ấy đấy.”
“Vâng, con vẫn nhớ.” Nghe mẹ anh nhắc đến từ “thành công”, anh rùng mình.
Bóng tối buông dần, và con thằn lằn anh vẫn ngắm nhìn dần tan vào bức tường đá. Khi nó di chuyển, hình hài của nó lại hiện lên sắc nét. Nhưng cơn thèm ăn của con vật có lẽ đã được thỏa mãn, anh thầm nghĩ, vì nó không còn lao bổ vào lũ ruồi nữa – cái bụng nó đã phồng lên thấy rõ.
“Maneck.” Bà đợi đến khi anh quay mặt về phía bà. “Maneck, sao con xa cách thế?”
Anh nheo mắt săm soi gương mặt của mẹ mình – mẹ anh không hay nói ra những câu vô nghĩa như vậy. “Đấy là vì công việc của con ở tận Dubai.”
“Mẹ không nói đến khoảng cách ấy, Maneck ạ.”
Câu trả lời của bà khiến anh cảm thấy mình thật ngu ngốc. Tay chạm nhẹ lên vai anh, bà nói, “Đến lúc ăn tối rồi,” và đi vào nhà.
Anh lắng nghe những âm thanh từ trong bếp vọng ra tận hiên nhà, mơ hồ như những lời mẹ anh nói. Xoong và chảo, và rồi con dao, một chuỗi những tiếng lập bập dội lên mặt thớt khi bà thái thứ gì đó. Nước chảy trong bồn rửa. Một tiếng sầm, và chiếc chốt lạch xạch sập vào lỗ, khi bà đóng cửa sổ lại để ngăn chặn hơi lạnh buổi tối.
Maneck nhấp nhổm bứt rứt trên chiếc ghế mình đang ngồi. Những âm thanh từ việc nấu nướng, cái lạnh tê tái của buổi chạng vạng, làn sương bốc lên từ dưới thung lũng bắt đầu dắt díu một đội quân kí ức chạy xuyên qua tâm trí đầy xáo động của anh. Những buổi sáng thời ấu thơ, tỉnh dậy, đứng trước ô cửa sổ – khung tranh hùng vĩ của phòng mình, ngắm những đỉnh núi phủ đầy tuyết trong khi mặt trời dần nhô lên và những dải mây mù trên núi múa may trong điệu nhảy của chúng, mẹ đang bắt tay vào nấu bữa sáng còn bố chuẩn bị mở cửa hàng. Rồi mùi thơm của bánh mì nướng và trứng tráng khiến anh đói cồn cào, thế là anh xỏ đôi chân ấm áp vào hai chiếc dép lạnh băng, tận hưởng cơn rùng mình xuyên dọc toàn thân, đánh răng, và vội vã chạy xuống nhà, dành cho mẹ một cái ôm chào buổi sáng và rúc vào ghế của mình. Ít phút sau, bố bước vào, tay xoa xoa, vừa đứng vừa húp những ngụm trà thật lớn từ chiếc tách đặc biệt của mình, mắt say sưa nhìn khắp thung lũng trước khi ngồi xuống để ăn bữa sáng và uống thêm trà, và mẹ nói…
“Maneck, ngoài trời đang trở lạnh rồi đấy. Con có muốn lấy áo len không?”
Sự quấy nhiễu kéo giật khuỷu tay của kí ức; những ý nghĩ của anh đổ sụp xuống như một ngôi nhà ghép bằng lá bài. “Không, con vào ngay đây,” anh đáp lại, bực bội vì mối gián đoạn, như thể anh có thể thu hồi, tái dựng, chuộc lại những khoảnh khắc hạnh phúc ấy nếu anh có đủ thời gian.
Con thằn lằn vẫn bám vào bức tường đá, nguỵ trang trong màu sắc của đá. Maneck quyết định sẽ vào nhà khi nào ánh sáng dần nhạt khiến con vật biến mất hoàn toàn. Anh ghét hình hài, màu sắc lẫn cái mõm xấu xí của nó. Cái cách nó thè ra thụt vào cái lưỡi quỷ quyệt. Cách nuốt ruồi tàn bạo của nó. Cách thời gian nuốt trọn mọi nỗ lực và niềm vui của con người. Thời gian, tay kiện tướng số một không bao giờ có thể bị chiếu tướng. Không có cách gì thoát nổi cái bụng khổng lồ của nó. Anh muốn tiêu diệt sinh vật ghê tởm ấy.
Anh vớ lấy một cây gậy đi đường dựng trong góc hiên, rón rén tiến tới, và quật vào con thằn lằn. Cây gậy nện chát lên mặt đá. Anh nhanh chân bước lùi lại, săm soi mặt đất dưới chân mình, sẵn sàng giáng xuống cú đánh thứ hai nếu cần. Nhưng dưới đó tịnh chẳng có gì. Anh nhìn lên bức tường. Không có gì. Anh vừa quất vào không khí.
Giờ anh lại thấy nhẹ nhõm vì mình đã không giết con thằn lằn. Anh lấy làm lạ, không biết nó đã bỏ đi từ lúc nào, bỏ lại anh tự ngồi mường tượng ra hình hài thằn lằn của nó. Anh nhìn sát vào kết cấu bức tường. Anh đưa tay sờ lên bề mặt để tìm kiếm. Chắc hẳn phải có một dấu vết kì dị trên đá, một chỗ lồi hay kẽ nứt hay hõm nhỏ đã đánh lừa mắt anh.
Nhưng những đường nét đã biến mất. Dù có cố gắng đến đâu, anh không thể dựng lại nổi bức tranh. Con thằn lằn tưởng tượng đã trốn thoát, cũng êm thấm hệt như con thằn lằn thật.
Buổi sáng sau cuộc hỏa táng, Maneck và mẹ ôm chiếc hộp gỗ lên đường đi rải tro cốt của bố anh trên sườn núi nơi ông thường thích dạo bộ. Ông muốn mình được rắc ở khắp những con đường đó, bao trùm toàn bộ khung cảnh rộng và xa đến hết mức mà nỗ lực con người có thể đạt được. Ông từng nói đùa, nếu cần, mình có thể thuê một người Sherpa[55] cũng được. Đừng đổ tôi ở một chỗ.
“Mẹ nghĩ bố đang ép mẹ phải đi bộ đường dài với bố ít nhất một lần đây,” bà Kohlah nói, đoạn đưa mu bàn tay lên gạt nước mắt, cố giữ những ngón tay khô khắn để còn vốc tro.
Maneck ước sao mình đã đồng hành với bố nhiều hơn trong những chuyến du ngoạn của ông. Anh ước sao niềm vui sướng, nỗi háo hức anh đã thể hiện khi còn là một đứa trẻ vẫn kéo dài đến những năm sau đó, khi bố anh cần anh nhất. Thay vào đó, anh đã không chống đỡ nổi nỗi hổ thẹn trước những biểu hiện của tình yêu dạt dào bố anh dành cho những dòng suối, những con chim, những bông hoa, nhất là sau khi mọi người trong thị trấn bắt đầu xì xào về cách hành xử lạ lùng của ông Kohlah, cách ông vỗ về những tảng đá, vuốt ve những thân cây.
Bầu không khí sáng nay thật tĩnh lặng. Không có cơn gió nào để giúp phát tán bụi tro đi xa. Maneck và mẹ thay phiên nhau thò tay vào hộp và gieo rắc thứ bột xám.
Khi một nửa số tro đã cạn, Aban Kohlah bỗng thấy lòng nhói lên cảm giác tội lỗi, bà có cảm giác hai mẹ con đã không làm cẩn thận như chồng muốn. Bà đánh bạo đi tới những chốn hiểm hóc hơn, cố ném một nắm đầy xuống một dòng thác nước chảy lừ đừ, trộn chút ít vào một cụm hoa dại không ai với tới được, rắc vài nhúm quanh cái cây mọc lên từ một mỏm đá nhô ra ngoài.
“Đây là điểm yêu thích của bố đấy,” bà nói. “Bố hay tả về cái cây này, cái cách nó mọc lên kì dị đến thế nào.”
“Mẹ cẩn thận đấy,” Maneck cảnh báo. “Mẹ muốn rải tro ở đâu thì cứ nói với con, đừng đi ra sát mép vực như thế.”
Nhưng hai người làm đâu có giống nhau, bà nghĩ, và vẫn bền bỉ leo từng bước chới với dọc lối mòn dốc đứng. Cuối cùng, điều Maneck lo sợ đã trở thành sự thực. Bà trượt chân và lăn xuống một con dốc.
Anh chạy xuống chỗ bà đang nằm co quắp, tay xoa bóp đầu gối. “Ôiii!” Bà rên lên, đoạn đứng dậy và cố đi tiếp.
“Mẹ đừng,” anh nói. “Cứ đợi ở đây, con sẽ đi gọi người giúp.”
“Không, không sao đâu, mẹ leo lên được.” Bà bước hai bước và lại khuỵu xuống đất.
Anh cất hộp tro an toàn sau một tảng đá, rồi hối hả chạy lên đường cái, hét lớn với người qua đường rằng mẹ mình đã bị thương. Chỉ trong vòng ba mươi phút, một nhóm bạn bè và hàng xóm đã chạy tới cứu trợ, dẫn đầu là bà Grewal ghê gớm.
Vợ của thiếu tướng Grewal càng ngày càng trở nên chuyên quyền hơn trong cung cách cư xử kể từ ngày chồng mất. Dù xuất hiện ở đâu, bà đều tự động nắm quyền kiểm soát mọi sự. Hầu hết bạn bè của bà đều hoan nghênh động thái này, vì như thế càng đỡ việc cho họ, dù đó là lên kế hoạch cho một bữa tiệc tối hay chuẩn bị một buổi dã ngoại.
Sau khi xem xét tình hình của bà Kohlah, bà Grewal bèn cho gọi hai người phu vận chuyển hiện đang làm bồi bàn ở một khách sạn năm sao. Xưa kia, bộ đôi thường khiêng những người già và du khách yếu sức trên những chiếc ghế tay đòn dài dọc các lối mòn và đường nhỏ trên núi để thưởng ngoạn cảnh đẹp. Khi con đường mới được xây dựng, đủ rộng để các xe buýt vãn cảnh cũng có thể đi được, những người phu này đành bỏ nghề.
Nhưng hai người này rất vui vẻ được lấy chiếc kiệu ra khỏi kho để phục vụ bà Kohlah. Maneck hỏi liệu họ có đủ sức khiêng bà một cách an toàn không, vì có thể họ đã đánh mất những bước đi vững chãi sau bao nhiêu năm làm công việc khách sạn nhẹ nhàng, chỉ phải đi đi lại lại giữa bếp và nhà ăn.
“Xin anh chớ lo,” họ nói. “Công việc này là nghề nhà của chúng tôi, nó ăn vào máu rồi.” Họ phấn khích ra mặt trước cơ hội, dù ngắn ngủi, để thực hành những kĩ năng cũ.
“Maneck, con ở lại rắc nốt chỗ tro nhé?” Bà Kohlah hỏi khi bà được dìu lên kiệu.
“Được, cậu ấy sẽ ở lại,” bà Grewal bèn quyết thay hai mẹ con luôn. “Maneck, cháu rắc nốt chỗ tro còn lại rồi đi theo chúng tôi sau nhé. Mẹ cháu sẽ được an toàn với tôi.”
Bà ra hiệu cho hai người phu vận chuyển; họ bèn đồng loạt nâng chiếc kiệu lên vai và bước đi thoăn thoắt một cách hoàn hảo, chân và tay cử động như một cỗ máy được tra dầu trơn tru, tìm ra một nhịp điệu mượt mà trên những lối mòn gập ghềnh để tránh cho hành khách của mình những cú xóc giật không cần thiết. Maneck bỗng nhớ tới cái đầu máy hơi nước mà bố anh đã từng cho anh xem từ khoảng cách rất gần… Ở ga tàu hỏa, bố nâng anh lên bằng đôi tay của ông, người thợ lái tàu kéo còi… đòn trục và tay quay và pít tông, kéo và đẩy trong một kết cấu đối xứng đầy sức mạnh, tràn ngập những âm thanh lạch xạch…
“Ôi, giá mà Farokh nhìn thấy cảnh này,” bà Kohlah nói, vừa cười vừa khóc. “Rắc xong tro của ông ấy, bà vợ lại về nhà bằng kiệu. Thế nào ông ấy cũng cười nhạo sự vụng về kiểu cách của tôi.”
Maneck nhìn hai người phu vận chuyển biến mất sau ngã rẽ tiếp theo, rồi đi lấy lại chiếc hộp giấu sau tảng đá. Anh tiếp tục rắc nốt hộp tro. Thỉnh thoảng, một cơn gió nổi lên. Những đám mây chậm chạp đang lờ đờ trôi bỗng khởi động một cuộc đua sôi nổi trên bầu trời, bóng đen của chúng đe dọa vùng thung lũng bên dưới. Anh để tro cốt rỉ qua kẽ ngón tay mình rơi vào móng vuốt của gió. Anh vét nốt thành bên trong chiếc hộp, lật úp nó xuống, và gõ lên mặt hộp. Chút tro cuối cùng liền bay mất, đi khám phá những miền bao la.
Chốc chốc, bà Grewal, đang sải bước ngay sau gót hai phu vận chuyển, lại hô to những lời chỉ dẫn dành cho họ. “Cẩn thận, cành cây kia thấp lắm. Hai người không muốn bà Kohlah bị cộc đầu đấy chứ.”
“Xin bà chớ lo,” họ thở hổn hển. “Chúng tôi vẫn chưa quên nghề đâu.”
“Hừm,” bà Grewal tỏ ý ngờ vực. “Coi chừng đấy, có một hòn đá rất lớn, đừng trượt chân nhé.”
Lần này, bà Kohlah vội lên tiếng trấn an thay hai người kia. “Chị đừng lo, họ lành nghề lắm. Em thấy rất thoải mái.”
Những người bạn bè và hàng xóm đi theo sau họ tặng hai phu vận chuyển một tràng pháo tay khi họ rời khỏi lối mòn trên núi và bước dọc theo con đường dẫn vào thị trấn. Phải bao nhiêu năm rồi người ta mới lại nhìn thấy một cái kiệu ngất ngưởng trôi trên phố. Bóng ma đến từ quá khứ được chào đón bằng niềm hoan hỉ bởi tất cả những ai được gặp nó trên hành trình của mình. Rất nhiều người quyết định bám theo, làm đông đúc thêm hàng ngũ của đám rước tự phát.
Thỉnh thoảng, đám rước kiệu phải dừng lại bên vệ đường để cho xe tải và xe buýt đi qua. Sau lần nghỉ chân thứ năm như thế, bà Grewal bèn nóng máu lên. “Thế này là đủ lắm rồi,” bà nói. “Nào, tất cả mọi người. Bước ra, bước hẳn ra, ra giữa đường cái luôn. Chúng ta không phải nhường ai hết. Hôm nay thì không. Chị Kohlah được phép hưởng quyền ưu tiên, hôm nay là một ngày đặc biệt của chị ấy. Xe cộ đợi tí cũng chẳng sao.”
Ai nấy đều đồng tình với bà Grewal, và trong ba mươi lăm phút vinh quang, họ hành quân vào thị trấn như một đoàn diễu hành tràn ngập quyết tâm, nối sau lưng là những hàng xe cộ nóng nảy, tài xế bấm còi và quát tháo ầm ĩ. Bà Grewal nói chung lờ tịt bọn họ, quyết không phí mồm chỉnh đốn đám loạn âm hỗn tạp kia. Dẫu vậy, thỉnh thoảng, cơn thịnh nộ vẫn khiến bà dừng bước và quát lại: “Tôn trọng người ta một chút xem nào! Đây là một quả phụ đấy nhé!”
Khoảng một tiếng sau khi xuất phát, đội quân cứu hộ về đến nhà an toàn, và bà Kohlah được dìu xuống ngồi trên một chiếc ghế bành, cùng một bọc đá buộc quanh đầu gối. Bà Grewal ngồi đối diện với bà trong một chiếc ghế lưng thẳng, tư thế nghiêm ngắn như một người lính gác. Bà không chịu ra về cùng những người khác, bà tuyên bố bằng giọng dứt khoát: “Em không được phép ở một mình trong ngày sau tang lễ.”
Bà Kohlah hơi buồn cười trước cung cách cư xử của bà bạn, và cũng mừng vì có người ở bên. Họ ôn lại chuyện xưa về Cửa hàng bách hóa tổng hợp, những tháng ngày thịnh vượng xưa kia, những buổi tiệc trà và bữa tối, những ngày quân đội còn đóng ở đây. Cuộc sống đã từng đẹp đẽ biết bao, bầu không khí thật ngọt ngào và trong lành nhường nào – cứ khi nào thấy trong người mệt mỏi hay ốm yếu, ta chỉ cần bước ra cửa, hít một hơi thật sâu, thế là ta đã cảm thấy khỏe lên tức thì, không cần phải uống bất cứ loại thuốc men hay viên vitamin nào hết. “Ngày nay, chỉ riêng bầu không khí cũng đã thấy khác hẳn rồi,” bà Grewal nói.
Đúng lúc đó, Maneck bước vào, và tiếp nối là một khoảng im lặng ngại ngùng. Anh tự hỏi hai người đang bàn luận về chuyện gì.
“Cháu quay lại nhanh quá,” bà Grewal bình luận. “Trẻ người, khỏe chân có khác. Cháu xử lý hộp tro ổn thỏa chưa?”
“Rồi ạ, cảm ơn bác.”
“Con có chắc con đã làm đến nơi đến chốn không, Maneck?” Mẹ anh hỏi.
“Có ạ.”
Lại đến một khoảng im lặng ngắn khác.
“Thế cháu đã làm gì ở Dubai vậy?” Bà Grewal hỏi. “Ngoài việc nuôi một bộ râu?”
Đáp lại, anh chỉ mỉm cười.
“Kín tiếng quá nhỉ. Chắc hái ra tiền lắm, ta hi vọng thế.”
Anh lại mỉm cười. Bà ra về sau ít phút, nói rằng mình không cần phải ở lại thêm nữa. “Giờ cháu có thể chăm sóc mẹ mình được rồi,” bà đế thêm bằng giọng đầy ẩn ý.
Maneck kiểm tra bọc đá, rồi ngỏ ý sẽ làm bánh xăng uých kẹp pho mát cho bữa trưa.
“Tám năm rồi con tôi mới về thăm nhà, vậy mà tôi còn không nấu cho ăn được,” mẹ anh than thở.
“Ai làm xăng uých thì có gì khác đâu?”
Bà nhận thấy giọng cảnh báo trong lời anh nói bèn nhịn lời, rồi lại ướm hỏi lần nữa. “Maneck, con đừng giận nhé. Sao con không nói cho mẹ biết lý do tại sao con lại buồn bực đến thế?”
“Con chẳng có gì để nói cả.”
“Cả hai mẹ con ta đều buồn vì cái chết của bố. Nhưng đó không thể là lý do duy nhất được. Chúng ta đã lường trước việc đó kể từ ngày bệnh ung thư ruột kết của bố được phát hiện. Còn có điều gì đó khác trong nỗi buồn của con, mẹ có thể linh cảm thấy.”
Bà chờ đợi, mắt nhìn anh khi anh cắt bánh mì, nhưng khuôn mặt anh vẫn trơ trơ. “Có phải vì con không về thăm nhà trong khi bố vẫn còn sống không? Con không cần phải cảm thấy có lỗi. Bố hiểu chuyện đi lại với con khó khăn đến mức nào mà.”
Anh đặt con dao cắt bánh mì xuống và quay lại. “Mẹ thật sự muốn biết lý do tại sao à?”
“Phải.”
Anh lại cầm con dao lên, cẩn thận cắt lát ổ bánh mì trong khi vẫn giữ một giọng bình thản. “Hai người đẩy con đi, mẹ và bố. Và rồi con không thể quay về được nữa. Bố mẹ mất con, còn con mất-tất-cả.”
Bà tập tễnh lao đến bên anh và túm lấy cánh tay anh. “Nhìn mẹ đi, Maneck!” Bà nói trong làn nước mắt. “Những gì con nghĩ đều không đúng sự thật, con là tất cả đối với mẹ và bố! Dù bố mẹ làm việc gì, thì cũng đều là vì con cả! Xin con, xin con hãy tin mẹ!”
Anh nhẹ nhàng rút cánh tay ra, và tiếp tục làm xăng uých.
“Làm sao con có thể nói những câu đau lòng đến thế rồi lại im lặng? Lúc nào con cũng kêu ca là bố thích làm bộ làm tịch. Nhưng giờ con lại đang cư xử đúng như thế đấy.”
Anh không chịu bàn luận gì thêm. Bà bám theo anh đi quanh bếp, bước cà nhắc cà nhót, miệng không thôi van vỉ con.
“Con làm bánh xăng uých phỏng có ích gì nếu mẹ cứ diễu đi diễu lại với cái đầu gối kia?” Anh cáu kỉnh nói.
Bà ngoan ngoãn ngồi xuống cho đến khi anh làm xong xuôi và bữa trưa được bày ra bàn. Khi hai mẹ con ăn, bà len lén nhìn mặt con từng chút một, trong những lúc bà đoan chắc anh không để ý. Bầu trời sụp tối. Anh rửa bát đĩa và úp lên giá cho khô. Tiếng sấm nổ ầm ầm rung động khắp trên đầu thung lũng.
“Sáng nay mẹ con mình thật may mắn,” bà nói khi mưa bắt đầu rơi. “Mẹ lên nhà nghỉ đây. Nếu mưa hắt, con đóng cửa sổ vào nhé?”
Anh gật đầu và đỡ mẹ leo lên cầu thang. Bà mỉm cười trong cơn đau, sung sướng tựa vào vai con, lấy làm hãnh diện với sức mạnh và sự vững chãi của nó.
Sau khi mẹ đã lên giường, Maneck xuống dưới nhà và đứng bên cửa sổ để ngắm màn trình diễn của chớp, tận hưởng tiếng vỗ tay của sấm. Anh đã bỏ lỡ những cơn mưa ở Dubai. Cả thung lũng biến mất dần dưới một tấm chăn bằng sương mù. Anh bồn chồn sải bước quanh nhà, rồi ra cửa hàng.
Anh săm soi những kệ giá, ngắm nghía những nhãn hàng trên các lọ và hộp mà đã bao năm anh không được thấy. Nhưng cửa hàng mới nhỏ bé, nhếch nhác làm sao, anh thầm nghĩ. Cái cửa hàng đã từng một thời là trung tâm của vũ trụ của anh. Và giờ anh đã xa cách nó biết mấy. Xa đến nỗi có cảm giác quay trở về đã là việc bất khả thi. Anh tự hỏi cái gì đã ngăn trở anh. Chắc chắn không phải là Dubai sạch sẽ và hào nhoáng.
Anh bước men những bậc thang dẫn xuống tầng hầm nơi chiếc máy đóng chai say ngủ. Mạng nhện đã chiếm cứ, phủ một tấm vải liệm lên cỗ máy bại trận. Bố mẹ anh từng viết, nhu cầu đối với Kohlah Cola đã hầu như biến mất trong thời gian gần đây – xuống còn chỉ nửa chục chai một ngày, dành cho các bạn bè hàng xóm thân thiết.
Anh bước thơ thẩn giữa những chai rỗng và thùng gỗ. Một chồng báo mủn nát đứng trong góc tầng hầm, bị che khuất một phần bởi một bó túi đay. Anh đưa tay vuốt lên mặt đay thô ráp, cảm nhận cái gai gai của sợi đay, hít hà mùi thơm tươi mới đậm đặc của gỗ và thực vật. Ngày tháng của đống báo lùi về trước tới mười năm, và nhảy cóc lung tung suốt một thập kỉ. Lạ thật, anh nghĩ, vì bố thường xuyên dùng hết báo cho cửa hàng, để gói đồ hoặc lót hàng hóa. Chỗ báo này hẳn đã bị bỏ sót.
Anh quyết định mang chúng lên nhà và xem qua. Đọc báo cũ xem ra là một cách hợp lý để giết thì giờ trong một buổi chiều u ám, đầy mưa gió.
Anh ngồi xuống một chiếc ghế kê bên cửa sổ và mở những trang giấy bụi bặm, ố vàng của số báo đầu tiên trong chồng. Báo ra từ khoảng thời gian sau cuộc bầu cử hậu Tình trạng khẩn cấp, khi đó thủ tướng thua cuộc trước liên minh đối lập. Có nhiều bài báo về những vụ bạo hành trong thời gian áp dụng Tình trạng khẩn cấp, lời chứng thực của những nạn nhân bị tra tấn, tâm lý phẫn nộ trước vô số cái chết trong thời gian bị cảnh sát bắt giữ. Các bài xã luận đã bị bịt miệng dưới thời trị vì của bà, kêu gọi thành lập một ủy ban đặc biệt để điều tra những việc làm sai trái và trừng phạt kẻ có tội.
Mất kiên nhẫn với những bài phóng sự lặp đi lặp lại, anh bỏ sang số báo khác. Thái độ lúng túng của chính phủ mới trong việc xử lý nguyên thủ tướng cũng không kích thích nổi niềm ham đọc, trừ một bài báo có dẫn lời một thành viên nội các rằng: “Bà ta phải bị trừng trị, bà ta là một mụ đàn bà đáng sợ, xấu xa không khác gì Cleopatra.” Và quyết định duy nhất nhận được sự đồng lòng nhất trí từ cái chính phủ tê liệt này là cấm cửa Coca-Cola khỏi đất nước, vì tội từ chối nhượng lại công thức bí mật và quyền lợi quản lý của mình; bằng một chút xoắn vặn và nắn bóp, hành động đó đã phù hợp với mọi hệ tư tưởng trong hàng ngũ liên minh.
Chỉ mấy số báo sau, đã thấy liên minh tan rã sau những cuộc gấu ó liên miên và một cuộc bầu cử mới được tổ chức. Nguyên thủ tướng đường hoàng gỡ bỏ tiền tố “nguyên” trong danh vị của mình và trở lại nắm quyền. Các bài xã luận nay lại kiềm chế những lời lẽ chống lại bà, đổi sang tông giọng đầy xu nịnh gợi nhớ lại thời Tình trạng khẩn cấp. Một tay nhà báo hèn hạ còn viết: “Liệu thủ tướng có đủ sức hồi sinh chí ít một phần của những vị thần trong con người bà chăng? Không còn nghi ngờ gì nữa, bà sở hữu một sức mạnh tiềm tàng, đang nằm cuộn tròn nơi tận cùng dải xương sống của bà, thứ Kundalini Shakti[56] hiện đang tỉnh thức và đưa bà đến cảnh giới siêu phàm.” Người viết không tỏ ý gì mai mỉa hết, vì đoạn văn đặt trong ngữ cảnh một bài tán tụng rất dài.
Chán ngấy, Maneck lật tìm những trang tin thể thao. Có nhiều tấm ảnh chụp các trận đấu críc-kê và tuyên bố của một đội trưởng người Úc về “một lũ ăn mày của Thế Giới Thứ Ba tưởng rằng chúng biết chơi críc-kê.” Và tiếp đến là không khí hân hoan vui sướng và pháo hoa và lễ ăn mừng khi “lũ ăn mày” đánh bại đội Úc trong giải Test Series[57].
Anh bắt đầu lướt qua những trang báo nhanh hơn. Sau một lúc, ngay cả các bức hình trông cũng na ná nhau. Tàu hỏa trật đường ray, lũ mùa mưa, sập cầu; bộ trưởng được tung hô, bộ trưởng phát biểu, bộ trưởng đi thăm những vùng gặp thiên tai và nhân tai. Anh lật hết trang nọ sang trang kia giữa những lần liếc nhìn ra cửa sổ, ngắm rạp hát của thời tiết – làn mưa táp ràn rạt, những hàng thông tuyết bị gió quật, những tia chớp.
Rồi có thứ gì đó trên báo đập vào mắt anh. Anh giở ra xem lại. Đó là tấm hình chụp ba cô gái trẻ. Trên người mặc áo choli và váy lót dài, họ bị treo lủng lẳng trên một chiếc quạt trần. Một đầu vạt sari của mỗi cô được buộc vào móc treo quạt, còn đầu kia quấn quanh cổ họ. Cổ họ ngoẹo sang một bên. Những cánh tay rũ ra, như chân tay của những con búp bê vải.
Anh đọc câu chuyện đi kèm, mắt anh liên tục lia sang khung hình mãi lơ lửng như một hoạt cảnh ghê rợn. Ba cô gái là chị em ruột, tuổi mười lăm, mười bảy, và mười chín, và đã tự treo cổ khi bố mẹ đi vắng. Họ đã viết một lá thư để lý giải hành động của mình. Họ biết bố họ rất buồn vì không đủ sức lo của hồi môn cho ba đứa con. Sau rất nhiều bàn bạc và lo lắng, họ đã quyết định chọn bước đi này, để giải thoát cho bố mẹ khỏi nỗi nhục nhã khi có ba đứa con gái không chồng. Họ xin bố mẹ hãy tha thứ cho hành động sẽ khiến hai người đau đớn; nhưng họ không thấy còn lối thoát nào khác.
Tấm ảnh kéo ánh nhìn của Maneck trở lại với nó, với sự việc đồng thời vừa đáng lo, đáng thương, lại vừa đáng giận trong chính cái tĩnh lặng trong vắt của nó. Ba chị em trông thật tuyệt vọng, anh nghĩ, như thể họ đã mong chờ một điều gì đó khác ngoài việc treo cổ, một thứ gì hơn là cái chết, để rồi nhận ra cái chết là lựa chọn duy nhất còn lại trong tay. Anh bỗng nhận ra mình đang ngưỡng mộ lòng can đảm của họ. Phải mạnh mẽ đến nhường nào, anh nghĩ, mới có thể cởi những tấm sari kia khỏi thân thể mình, mới có thể buộc thành chiếc thòng lọng tròng quanh cổ mình. Hoặc có lẽ việc đó đã rất dễ dàng, một khi hành động đã mang vẻ đẹp của lô gích và sức nặng của lẽ phải.
Anh giằng mắt mình khỏi tấm ảnh để đọc nốt bài báo. Phóng viên đã gặp cha mẹ họ; anh ta viết rằng họ đã chịu đựng nhiều hơn khẩu phần đau khổ dành cho mình – trong Tình trạng khẩn cấp, họ đã mất đứa con cả trong hoàn cảnh không bao giờ được lý giải thỏa đáng. Cảnh sát khẳng định đó là một tai nạn đường sắt, nhưng hai ông bà có kể về những vết thương họ đã thấy trên thi thể con trai mình trong nhà xác. Theo phóng viên, các vết thương nói trên khớp với những vụ tra tấn khác đã được xác nhận. “Thêm nữa, xét trong bối cảnh chính trị dưới Tình trạng khẩn cấp, và thực tế là con trai họ, anh Avinash, là thành viên tích cực trong Hội sinh viên, đây có vẻ như lại là một cái chết mờ ám nữa trong thời gian giam giữ của cảnh sát.”
Bài báo chuyển sang bình luận về cuộc điều tra của ủy ban quốc hội đối với những hành vi vượt quyền trong thời Tình trạng khẩn cấp, nhưng Maneck đã ngừng đọc.
Avinash.
Mưa đang nện lên mái nhà và hắt qua cửa sổ. Anh cố gấp tờ báo bạc màu ngay ngắn theo nếp cũ, nhưng bàn tay anh run rẩy, nó bay phần phật và trở nên nhàu nhĩ xộc xệch trong lòng anh. Trong phòng sao ngột ngạt quá. Anh khó nhọc nhấc mình khỏi ghế. Tờ báo, nồng nồng mùi mủn nát và mục rữa của tầng hầm, bay loạt soạt xuống sàn. Anh bước ra hiên nhà, cướp lấy từng hớp lớn không khí đẫm nước mưa. Gió ào ào xối qua cánh cửa mở toang. Những trang báo rơi bị cuốn đi quanh phòng còn chiếc rèm táp phần phật lên cửa sổ. Anh đóng cửa, sải bước quanh hiên nhà ướt nhoẹt mấy vòng, rồi bước ra ngoài trời mưa, nước mắt chảy ròng ròng trên mặt.
Chỉ trong vài giây, quần áo anh đã sũng nước, mớ tóc ướt dính chặt lên trán anh. Anh đi một vòng quanh nhà: xuống dốc, ra sân sau, vòng qua chỗ đất trũng, và leo lên từ sườn bên kia. Qua bức tường mưa rơi anh nhìn thấy những sợi cáp thép buộc móng nhà vào vách đá. Những sợi cáp đáng tin cậy, đã trụ vững suốt bốn thế hệ. Nhưng anh dám thề là căn nhà đã dịch chuyển trong những năm anh đi xa. Ngôi nhà đang tính đường tự tử, Avinash đã nói như thế. Từng chút một, và rồi thêm một chút nữa – và cuối cùng nó sẽ giật tung những móc neo, đâm đầu xuống sườn đồi. Xem ra cũng hợp lý thôi. Mọi thứ đều đang mất dần mối neo móc giữ, đều đang trượt dần đi, trở thành không thể khôi phục được nữa.
Anh rẽ vào con đường dẫn ra khỏi quảng trường thị trấn, bước đi như chạy. Anh không để ý đến những người đang giương mắt nhìn mình. Anh chỉ thấy mỗi tấm ảnh kia. Ba tấm sari siết lấy mấy cái cổ mảnh mai… Ba cô em gái của Avinash… anh ta nói từng rất thích cho mấy đứa ăn khi chúng còn bé, còn kể bọn nhỏ thường nghịch ngợm cắn ngón tay anh. Và hai ông bố bà mẹ khốn khổ… Thế giới này phỏng còn nghĩa lý gì nữa? Thượng Đế, Tên Khốn Ngu Xuẩn, ở đâu rồi? Lẽ nào Ông Ta không còn tí ý niệm thế nào là công bằng và bất công hay sao? Chẳng lẽ Ông Ta không thể đọc nổi một cái bảng cân đối đơn giản hay sao? Lẽ ra Ông Ta đã bị sa thải lâu rồi nếu Ông Ta điều hành một tập đoàn, với những việc Ông Ta để xảy ra… với cô giúp việc kia, với hàng ngàn người Sikh đã bị giết ở thủ đô, và người tài xế tắc xi tội nghiệp với chiếc kara không thể tháo ra nổi.
Maneck nhìn lên trời. Tro cốt của bố, mới rắc sáng nay. Bị ướt nước, bị rửa trôi. Ý nghĩ ấy thật quá sức chịu đựng, vì sau đó sẽ chẳng còn gì nữa… và mẹ, bị bỏ lại một thân một mình…
Anh cắm đầu chạy trên con đường mòn đang nhanh chóng biến thành nhão nhoét và trơn trượt. Chạy, trượt, vấp, hi vọng tìm ra một nơi vẫn còn xanh tươi và dễ chịu, một nơi của hạnh phúc, thanh bình, nơi bố anh có lẽ đang dạo bước, những bước chân vững chãi và tự tin, tay quàng lên vai con trai.
Chân sục giữa bùn, anh lội bì bõm; hai cánh tay dang ra hai bên để giữ cho mình khỏi ngã. Giờ anh mới thấm thía nỗi tuyệt vọng mà bố anh đã cảm thấy khi thế giới quen thuộc trượt đổ quanh ông, những thung lũng bị cắt rạch và trở nên xấu xí, những rừng cây dần biến mất. Bố nói đúng, anh bỗng nghĩ, vùng đồi đang chết dần chết mòn, còn mình thật ngu ngốc khi nghĩ vùng đồi sẽ trường tồn, rằng một ông bố có thể trẻ mãi không già. Giá như mình chịu chuyện trò cùng ông. Giá như ông để mình gần gũi ông.
Nhưng còn những đám tro, chúng nằm đó, dưới làn mưa cuồn cuộn lạnh lẽo. Anh chạy tới nơi anh đã dốc sạch cái hộp gỗ hồi sáng. Vừa thở hổn hển, anh vừa dừng lại ở mỗi địa điểm quen thuộc nơi mẹ anh đã dừng chân, nhưng không tìm thấy vết tích gì của những vệt tro xám. Hơi thở của anh bật ra thành những tiếng khóc nức nở, anh rẽ tán lá, giơ chân đá lên một tảng đá, dịch chuyển một cành cây gãy.
Chẳng có gì. Anh đã tới quá muộn. Anh vấp ngã và khuỵu xuống, tay chống ngập trong bùn. Mưa vẫn đổ xuống không chút xót thương. Anh có cảm giác mình không tài nào đứng dậy nổi nữa. Anh úp mặt trong hai bàn tay nhoe nhoét bùn mà khóc, và khóc, khóc mãi.
Một con chó chạy lọp bọp nhè nhẹ giữa dòng bùn rác, tiến về phía Maneck. Giữa tiếng mưa ồn ào, anh không nghe thấy nó. Nó lại gần hơn, mũi hít ngửi. Anh giật mình và buông tay khỏi mặt khi cảm thấy mõm của nó trên tay mình. Con chó liếm má anh. Anh vỗ vỗ nó; liệu đây có phải một con trong đàn chó từng được bố anh cho ăn dưới hiên nhà không? Anh nhận thấy có một khối u đang mưng mủ trên đùi nó, và băn khoăn không biết thứ dầu nhà chế mà bố anh từng dùng để chữa bệnh cho bọn chó hoang có còn cất trên chiếc giá bên dưới mặt quầy không.
Cơn mưa rào giờ đã ngớt dần. Anh đứng dậy, đưa tay áo ướt sũng lên chùi mặt, và phóng tầm mắt khắp sườn đồi. Những khoảng quang quẻ đang dần hiện lên trên mây, và từng mảnh thung lũng b?