Chương hai
Cảnh tượng, nếu tôi có thể yêu cầu các bạn đi theo tôi, giờ đây đã thay đổi. Lá vẫn rơi, nhưng ở London chứ không phải Oxbridge; và bắt buộc tôi phải yêu cầu các bạn vận dụng trí tưởng tượng để hình dung ra căn phòng, như cả nghìn căn phòng khác, có cửa sổ đối diện với cửa sổ khác và ở giữa là xe cộ, mũ áo nườm nượp qua lại. Bên trong căn phòng, trên mặt bàn, có tờ giấy trắng ghi vẻn vẹn dòng chữ lớn PHỤ NỮ VÀ SÁNG TÁC VĂN HỌC. Thật đáng tiếc bởi tiếp nối bữa trưa và bữa tối ở Oxbridge là cuộc thăm viếng viện bảo tàng Anh quốc. Người ta phải cố gắng giũ sạch tất cả những gì bị xem là thiên kiến và ngẫu nhiên trong tất cả những ấn tượng này để đạt đến chất lỏng nguyên chất, tinh dầu cốt lõi của chân lí. Bởi chuyến viếng thăm Oxbridge, bữa ăn trưa và bữa tối, nảy sinh một lô những câu hỏi trong đầu. Tại sao đàn ông uống rượu còn đàn bà uống nước lã? Tại sao một giới phái giàu sang trong khi giới phái kia nghèo túng? Cái nghèo tác động gì đến sáng tác văn học? Những điều kiện nào cần thiết cho việc sáng tạo tác phẩm nghệ thuật? - một nghìn câu hỏi cùng lúc tự động nảy ra. Nhưng người ta cần câu trả lời chứ không phải câu hỏi; và câu trả lời chỉ có bằng cách đi tham vấn bậc thức giả, người không định kiến, người có khả năng tự đặt mình lên trên mọi tranh biện ngoa ngôn xảo ngữ, trên mọi rối loạn của thân xác, và gửi gắm kết quả công trình suy nghiệm, nghiên cứu của mình vào sách vở lưu trữ bên trong bốn bức tường viện bảo tàng Anh quốc. Nếu tìm không ra chân lí nơi những kệ sách trong viện bảo tàng Anh thì chân lí, tôi tự hỏi trong lúc cầm lên cuốn sổ tay và cây bút chì, ở nơi đâu?
Với hành trang, với lòng tự tin và ham muốn tìm hiểu như thế, tôi lên đường đi tìm chân lí. Hôm đó trời không mưa nhưng ảm đạm, đường sá vùng chung quanh viện bảo tàng đầy lỗ than rộng toang hoác và người ta đang ném xuống như mưa những chiếc bao tải; xe kéo bốn bánh chạy đến đổ xuống vệ đường những thùng đồ cột dây, có lẽ bên trong là toàn bộ quần áo tư trang của gia đình Thụy Sĩ hay Italian nào đó dang thử thời vận, đến đây tìm nhà trong khu dân cư Bloomsbury mùa đông này, hoặc biết đâu họ là dân tị nạn. Những người đàn ông giọng ồm ồm diễu hành trên đường, tay đẩy xe ba gác trên chất đầy cây cảnh. Người quác miệng la hét ầm ĩ, người cất tiếng hát vang. London như xưởng thợ. London như bộ máy. Tất cả chúng ta như bị xô đẩy ngả nghiêng, tối tăm mặt mày trên cái nền trơ trọi này để trở thành hình mẫu nào đó. Viện bảo tàng Anh quốc là bộ phận khác của cái xưởng thợ. Cánh cửa xoay chợt mở và người ta đứng đó dưới mái vòm cực kì cao rộng như thể người ta chỉ là hiện thân của ý tưởng bên trong cái trán hói khổng lồ mà bao quanh cái trán hói hoành tráng đó là bảng tên những nhân vật lừng lẫy một thời. Người ta đến bên quầy hàng; rút ra tờ giấy; mở một cuốn danh mục, và năm cái chấm ở đây tượng trưng cho năm phút đồng hồ trong kinh ngạc, hoang mang và đờ đẫn. Các bạn có biết trong khoảng thời gian một năm trời có bao nhiêu cuốn sách viết về đàn bà không? Các bạn có biết bao nhiêu cuốn do đàn ông viết? Các bạn có nhận ra rằng có lẽ các bạn là sinh vật được bàn luận đến nhiều nhất trong vũ trụ? Tôi đến đây với cuốn sổ tay và cây bút chì, trong thâm tâm tự nhủ sẽ bỏ ra buổi sáng ngồi đọc, và sau buổi sáng, chân lí tôi kiếm tìm sẽ chuyển sang nằm trong cuốn sổ tay. Nhưng tôi nghĩ mình phải là loài voi mới đúng, và cả loài nhện hoang nữa, liều lĩnh học theo những con vật này, loài sống lâu nhất và loài có nhiều mắt nhất, mới đủ sức kham nổi chừng ấy chữ nghĩa. Tôi cần có móng thép mỏ đồng để đâm thủng lớp vỏ cứng dày. Bằng cách nào đây, tôi tìm ra những hạt nhân chân lí đã ẩn sâu trong khối giấy này? Tôi tự hỏi thế, và trong tuyệt vọng, tôi đưa mắt chạy lên chạy xuống cái danh mục nhan đề dài thậm thượt. Thậm chí, tên những cuốn sách cũng khiến tôi phải suy nghĩ. Giới tính và bản chất của nó có thể thu hút y sĩ và các nhà sinh học; nhưng điều đáng ngạc nhiên và thật khó giải thích là vấn đề giới tính, nói cho rõ là đàn bà - cũng thu hút không ít những nhà phê bình ba phải, những tiểu thuyết gia nhanh tay, những người trẻ tuổi có bằng thạc sĩ; những người chẳng có bằng cấp gì cả; những người rõ ràng không đủ tư cách ngoại trừ họ không phải là đàn bà. Có những cuốn, ở bề mặt, hết sức tầm phào, phù phiếm và bông lơn; nhưng mặt khác, cũng có nhiều cuốn khá nghiêm túc và khai mở, khá đạo đức và có tinh thần khích lệ. Chỉ cần liếc qua những nhan đề sách thôi đã thấy có không biết bao nhiêu ông hiệu trưởng, mục sư leo lên bục giảng, diễn đàn và cứ thế họ tràng giang đại hài diễn thuyết một cách ba hoa về đề tài. Thật là hiện tượng lạ lùng; và rõ ràng như thế - đây tôi giở đến chữ cái M - một cuốn viết về nam giới. Đàn bà không viết sách về đàn ông - một sự kiện tôi không thể không nhẹ nhõm đón chào, bởi nếu tôi phải đọc tất cả sách đàn ông viết về đàn bà, xong lại đọc tất cả sách đàn bà viết về đàn ông thì cây dứa rừng trăm năm nở một lần phải nở hai lần tôi mới có thể đặt bút xuống giấy được. Thế là, tôi nhắm mắt chọn đại chừng một tá sách, điền mẩu giấy đem bỏ vào khay, và tôi ngồi chờ nơi hàng ghế của tôi, giữa những người cũng như tôi đang đi tìm tinh dầu thiết yếu của chân lí.
Lí do nào có sự khác biệt lạ lùng này, tôi băn khoăn như thế trong lúc ngồi vẽ hình bánh xe lên tờ giấy trắng cung cấp bởi tiền đóng thuế của nhân dân Anh quốc cho những mục đích khác. Tại sao đàn bà, dựa trên cuốn danh mục, lại trở nên hấp dẫn đối với đàn ông mà không phải ngược lại? Dường như đây là hiện tượng lạ, đầu óc tôi lan man hình dung ra cuộc sống của những người đàn ông suốt đời vắt tâm trí viết về đàn bà; họ già hay trẻ, có gia đình hay độc thân, mũi đỏ hay lưng gù - nhưng dù sao chăng nữa, người ta cũng hãnh diện, một cách mơ hồ, cảm thấy mình là đề tài của chừng đấy chú ý, miễn là sự chú ý không hoàn toàn đến từ những kẻ ốm yếu hay tàn tật - cứ thế, tôi ngẫm nghĩ cho đến khi những ý tưởng tầm phào này bị chặn lại bởi loạt sách liên tiếp đổ ụp xuống bàn trước mặt tôi. Giờ mới là lúc vấn đề bắt đầu. Giờ là lúc bắt đầu sự rắc rối. Người sinh viên, với kinh nghiệm nghiên cứu ở Oxbridge, hiển nhiên có cách duy trì câu hỏi của mình vượt qua mọi sự phân tán từ bên ngoài cho đến khi câu hỏi chạy đúng vào ngay câu trả lời như chú cừu từ ngoài đồng cỏ chạy đúng vào chuồng quây. Thí dụ như, cậu sinh viên bên cạnh tôi đây, cậu đang chăm chú ghi chép từ cuốn sách hướng dẫn khoa học; tôi dám chắc là cứ mươi phút cậu lại bới lên được khối vàng ròng từ đống quặng mỏ. Tiếng ậm ừ nho nhỏ đầy vui thích từ cậu nói lên tất cả. Nhưng, chẳng may nếu người ta không được huấn luyện như thế trong trường thì câu hỏi không như chú cừu từ ngoài đồng cỏ chạy đúng vào chuồng quây mà cứ tan tác như bầy đàn sợ hãi chạy tới chạy lui tán loạn, mặc cho đàn chó xông xáo ra sức lùa. Những giáo sư, hiệu trưởng, những nhà xã hội học, những mục sư, nhà tiểu thuyết, nhà phê bình, nhà báo, những người không có tư cách gì ngoại trừ họ không phải là đàn bà, tất cả săn đuổi câu hỏi đơn giản của tôi - Tại sao đàn bà có người nghèo túng? - cho đến khi nó trở thành năm mươi câu hỏi; cho đến khi năm mươi câu hỏi cuống cuồng nhảy xuống dòng sông và bị nước cuốn đi mất hút. Mỗi trang giấy trong cuốn sổ tay của tôi dầy đặc những dòng chữ chú thích ngoằn ngoèo. Để các bạn thấy tâm trạng tôi lúc đó như thế nào, tôi sẽ trích đọc cho các bạn nghe một đoạn, tôi xin giải thích tiêu đề viết bằng chữ in trên mặt giấy giản dị là PHỤ NỮ VÀ CÁI NGHÈO; nhưng tiếp theo là những dòng chữ nghuệch ngoạc như sau:
Điều kiện sinh sống dưới thời Trung cổ của,
Tập quán của dân đảo Fiji của,
Nữ thần thờ phụng bởi,
Yếu đuối trong ý thức đạo đức hơn ,
Chủ nghĩa Lí tưởng của,
Lương tâm to tát hơn của,
Quần đảo Nam Dương, tuổi dậy thì giữa ,
Sự thu hút của ,
Hiến dâng cho lễ tế thần đến,
Kích thước nhỏ của trí óc của
Tiềm thức thâm sâu hơn của,
Ít lông trên cơ thể hơn của,
Sự thấp kém trong tinh thần đạo đức và thể xác của,
Lòng yêu thương trẻ con của,
Sống lâu hơn của ,
Cơ bắp yếu đuối hơn của,
Sức mạnh của cảm xúc của,
Tính hư phù của,
Giáo dục cao hơn của ,
Quan điểm của Shakespeare của,
Quan điểm của Lord Birkenhead của,
Quan điểm của trưởng khoa Inge của,
Quan điểm của ông La Bruyère [18] của,
Quan điểm của tiến sĩ Johnson [19] của,
Quan điểm của ông Oscar Browning của ,…
Đến đây, tôi thở hít vào một hơi rồi viết thêm bên lề trang giấy, Tại sao Samuel Butler [20] lại bảo, “Bậc trí nhân không bao giờ phát biểu những điều họ nghĩ về đàn bà”? Hiển nhiên, bậc trí nhân chẳng bao giờ nói gì thêm. Nhưng, tôi vẫn tiếp tục nghĩ ngợi trong lúc ngả người trên ghế, mắt nhìn lên cái vòm nhà mênh mông mà trong đó tôi chỉ là ý tưởng đơn độc nhưng giờ đây lại có phần bức xúc, thật đáng buồn là bậc trí nhân chẳng bao giờ nhất quán khi nghĩ về đàn bà. Đây là câu nói của Pope:
Hầu hết đàn bà không có cá tính gì cả.
Còn đây là câu của La Bruyère:
Đàn bà là cái gì vô cùng cực đoan họ hoặc vượt trội hoặc thấp kém so với đàn ông.
Hai ý tưởng đối nghịch trực tiếp với nhau từ hai nhà quan sát tinh tế, sống cùng thời đại. Có thể giáo dục được họ hay không? Napoleon cho là không. Tiến sĩ Johnson nghĩ ngược lại (“Đàn ông nên biết rằng đàn bà là kẻ thắng cuộc vì họ chọn lựa sự yếu đuối và dốt nát tột cùng. Nếu không nghĩ vậy, đàn bà sẽ không bao giờ khiến người đàn ông e ngại về những suy nghĩ của họ về chính bản thân mình… Để cho công bằng cả hai phía nam và nữ, tôi nghĩ chỉ có cách thẳng thắn công nhận, trong buổi mạn đàm sau đó, ông bảo tôi ông thật sự nghiêm chỉnh nghĩ như thế.” - Trích Boswell, Kí sự chuyến thăm đảo Hebrides ). Họ có linh hồn hay không? Kẻ độc ác bảo không. Kẻ khác, ngược lại, cương quyết nghĩ một nửa đàn bà là thần thánh và họ thờ phụng đàn bà dựa trên quan niệm đó (Người Đức cổ đại tin rằng có cái gì đó thiêng liêng nơi người đàn bà, và dựa vào niềm tin đó, họ tìm đến đàn bà để nghe phán những lời tiên tri.” - Trích Frazer, Cành vàng .) Có nhà hiền triết khăng khăng bảo thủ quan điểm cho là đầu óc họ nông cạn hơn, người khác bảo ý thức họ sâu sắc hơn. Goethe [21] tôn vinh họ; trong khi Mussolini [22] khinh bỉ. Bất kì chỗ nào cũng thấy đàn ông có cái nhìn rất khác nhau về đàn bà. Chẳng biết đâu là đầu, đâu là đuôi, tôi đành đi đến kết luận như thế trong lúc liếc mắt sang người bên cạnh với sự ghen tị, người ấy đang làm bản tóm tắt một cuốn sách với những tiêu đề A, B, C, thật rõ ràng và sạch sẽ, trong lúc cuốn sổ tay của tôi thì ôi thôi hỗn loạn như đám giặc với những dòng chữ nguệch ngoạc của những đoạn ghi nhanh tương phản nhau. Thật rõ chán, tôi hoang mang quá, xấu hổ nữa chứ. Chân lí xuyên lọt qua lòng bàn tay tôi. Một giọt cũng không lưu lại.
Tôi lại nghĩ mình không thể bỏ về như thế này được, chẳng lẽ đóng góp lớn lao cho nghiên cứu về phụ nữ và văn học lại chỉ là việc cơ thể đàn bà ít lông hơn đàn ông, hoặc tuổi dậy thì của phụ nữ đảo Nam dương là chín tuổi - hay chín mươi tuổi không chừng? - thậm chí, những dòng chữ viết tay, trong sự xao lãng, cũng biến thành rối tinh, không thể đọc được. Thật là xấu mặt bởi cả buổi sáng làm việc mà chẳng thu nhặt được điều gì đáng kể. Và nếu tôi không nắm giữ được chân lí về ĐB (để ngắn gọn, tôi gọi tắt cô ấy như vậy) trong quá khứ, thì ở tương lai tôi phải bận tâm tới ĐB làm gì? Có vẻ như chỉ phí thời gian một cách vô ích, nếu tôi tiếp tục tham vấn những nhân vật lừng lẫy này, những chuyên gia về đàn bà và ảnh hưởng của đàn bà lên cái gì đó có thể - chính trị, trẻ em, thu nhập, đạo đức - số lượng chuyên gia thật đông đảo và đều là những người uyên bác. Thôi, chẳng cần giở những cuốn sách đó ra làm gì.
Nhưng trong lúc suy ngẫm trong nỗi chán nản và tuyệt vọng, tôi vô thức có một hình ảnh mà qua đó, như người bên cạnh tôi đang làm, khả dĩ giúp tôi tìm ra kết luận nào đó. Tôi đang vẽ lên giấy một khuôn mặt, một hình dáng. Khuôn mặt và hình dáng của giáo sư von X., người trước tác tác phẩm vĩ đại Sự thua kém về tinh thần đạo đức và thể xác của phái nữ . Trong bức vẽ của tôi, ông không phải là người đàn ông hấp dẫn với phái nữ. Người ông to béo; hai má xệ phình ra; để cho cân bằng, hai mắt ông bé xíu; mặt ông đỏ rần. Nét mặt ông cho thấy ông đang nỗ lực dưới áp lực của cảm xúc nào đó khiến trong lúc viết, ông đâm ngòi bút xuống mặt giấy như thể đang giết chết con côn trùng độc hại, nhưng ngay cả khi đã giết chết con côn trùng rồi, ông vẫn chưa thấy thỏa mãn; ông phải giết nữa; và ngay thế, nguyên do đưa đến sự giận dữ và bực tức trong lòng ông vẫn chưa có lời giải đáp. Chẳng lẽ là vợ ông, tôi tự hỏi trong lúc ngắm nghía chân dung ông qua tài hội họa của mình. Chẳng lẽ vợ ông ngoại tình với anh chàng sĩ quan kị binh? Có phải chàng sĩ quan kị binh dáng người cao gầy, điển trai và mặc áo lông cừu? Phải chăng ông giáo sư, áp dụng lí thuyết của Freud [23] , bị một cô gái nhỏ chê cười khi ông còn nằm trong nôi? Bởi, ngay cả khi còn nằm nôi, tôi nghĩ ông cũng không phải là đứa bé dễ coi. Dù là lí do nào, trong bức phác họa của tôi, ông giáo sư trở thành kẻ có tác phong giận dữ dễ sợ và xấu xí cực độ, trong lúc ông hoàn thành cuốn sách vĩ đại về sự thua kém trên các bình diện tinh thần, đạo đức và thể xác của nữ giới. Vẽ tranh là hành vi thụ động nhất để kết thúc một buổi sáng làm việc không hiệu quả. Tuy thế, chính lúc chúng ta thụ động, như trong giấc mơ, là lúc chân lí ẩn sâu bên dưới đôi khi trồi lên mặt. Một thao tác thực hành hết sức cơ bản trong tâm lí học, đừng tôn nó lên bởi cái tên phân tâm học, cho tôi thấy, bức vẽ ông giáo sư phùng mang trợn má được vẽ trong cơn giận dữ trong lúc nhìn vào cuốn sổ tay. Cơn giận đã giằng lấy bút của tôi trong lúc mơ màng. Nhưng sự giận dữ đang làm gì nơi đây? Thú vị, hỗn loạn, vui thú, buồn chán - tất cả những cảm xúc này tôi có thể truy nguyên và gọi tên từng tâm trạng một đã tuần tự biến thiên trong tâm tư tôi suốt buổi sáng. Phải chăng sự giận dữ, con rắn đen, đã ẩn nấp rình rập đâu đó lẫn giữa các cảm xúc kia? Vâng, bức vẽ trả lời, sự giận dữ đã làm thế. Không thể sai chạy vào đâu được, nó chỉ ra cho tôi một cuốn sách, câu nói trong cuốn sách đã đánh thức con quỷ trong tôi; chính là câu phát biểu của ông giáo sư về sự thua kém trong tinh thần, đạo đức và thể xác của nữ giới. Tim tôi đập loạn lên. Hai má nóng ran. Người tôi bừng lên cơn giận dữ. Điều đó, chẳng có gì đặc biệt đáng nói dù nó điên rồ. Tự nhiên thôi, người ta không thích bị nói vào mặt rằng so với gã đàn ông bé nhỏ mình vẫn là kẻ thua kém - tôi nhìn sang cậu sinh viên bên cạnh - cậu thở mạnh, cậu đeo cà vạt loại thắt sẵn, và có lẽ hai tuần rồi không cạo râu. Người ta ai cũng có những tính khí vớ vẩn điên khùng. Tôi nghĩ đó chỉ là bản chất con người và bắt đầu vẽ lăng nhăng hình bánh xe, hình vòng tròn lên mặt ông giáo sư, cho đến khi hông ông như đám cỏ khô bốc cháy hay ngôi sao chổi xẹt lửa bừng bừng - dù sao, đó là một con ma dễ sợ, chẳng thấy bóng dáng con người đâu nữa. Giờ đây, ông giáo sư chỉ còn là bó củi bốc cháy trên đỉnh Hampstead hoang sơ. Chẳng bao lâu, cơn giận của tôi được giải đáp và lắng dịu; nhưng sự tò mò thì vẫn còn nguyên. Phải giải thích như thế nào về sự giận dữ của các ông giáo sư? Tại sao họ giận dữ? Bởi phân tích ấn tượng để lại sau khi đọc những cuốn sách này, bao giờ cũng có những điểm nóng. Cái nóng có nhiều dạng; nó có thể hiện lên ở dạng trào phúng hay tình cảm, tò mò hay bài xích. Một thành tố khác luôn hiện hữu nhưng không dễ dàng nhận dạng nó. Sự giận dữ, tôi gọi nó thế. Nhưng sự giận dữ chính nó lẩn trốn xuống lòng đất và pha trộn với các cảm xúc khác. Dựa trên những tác động kì quặc do nó gây nên, người ta có thể nhận ra nó là sự giận dữ trá hình và phức tạp chứ không phải sự giận dữ giản đơn, rõ rệt.
Bất kì lí do nào, tất cả những cuốn sách này, tôi ngẫm nghĩ trong lúc quan sát chồng sách cao nghêu trên bàn, đều vô giá trị cho mục đích của tôi. Có thể nói, trên bình diện khoa học, chúng vô giá trị, mặc dù trên bình diện con người, chúng chứa đựng không thiếu những kiến thức đời sống, có cuốn thú vị, có cuốn chán ngấy, và những chi tiết hết sức kì dị về tập quán của dân đảo Fiji. Chúng được viết ra dưới luồng ánh sáng đỏ rực của cảm xúc chứ không phải ánh sáng trắng của chân lí. Bởi thế, cần trả chúng lại bàn giấy trung tâm và mỗi cuốn sách trở về đúng vị trí của nó trong cái tổ ong vĩ đại. Tất cả những gì tôi thu nhặt được sau suốt buổi sáng làm việc là sự kiện về giận dữ. Các vị giáo sư - tôi gộp chung họ lại như thế - ai nấy đều giận dữ. Nhưng tại sao, tôi tự hỏi trong lúc đem sách đi trả, tại sao, tôi lặp lại, trong lúc đứng dưới hàng cột tròn bên cạnh những con bồ câu và thuyền chèo thời tiền sử, tại sao họ giận dữ? Và, câu hỏi này theo tôi cuốc bộ ra ngoài đi tìm chỗ ăn trưa. Đâu là bản chất thật của cái điều tôi gọi tên là sự giận dữ? Tôi hỏi. Và đây là câu đố nhức đầu đeo đẳng tôi suốt thời gian ăn trưa tại tiệm ăn nhỏ gần viện bảo tàng. Có người bỏ lại trên ghế tờ báo, và trong lúc chờ người hầu bàn đem bữa ăn ra, tôi đưa mắt hờ hững liếc qua những hàng tít trên mặt báo. Hàng tít lớn chạy ngang mặt báo. Có kẻ nào đó thắng lớn ở Nam Phi. Hàng tít nhỏ hơn loan báo Sir Austen Chamberlain [24] đang ở Geneva. Một cái búa chặt thịt dính tóc người được tìm thấy trong hầm rượu. Thẩm phán - của Tòa án li hôn phán quyết về trường hợp “Không biết hổ thẹn của đàn bà”. Rải rác đây đó trên mặt báo là những mẩu tin khác. Ở California, từ mỏm núi cao, người ta hạ một nữ diễn viên điện ảnh xuống và treo cô lơ lửng trong không trung. Và theo tin dự báo thời tiết thì trời sẽ có sương mù. Tôi nghĩ người khách lạ ghé thăm quả địa cầu trong chốc lát, nhặt tờ báo lên đọc, và từ những bằng chứng lắt nhắt này chắc phải nhận ra ngay rằng Anh là đất nước được cai trị bởi chế độ gia trưởng. Không ai không nhận ra vị thế thống trị của ông giáo sư. Ông tượng trưng cho quyền lực, tiền tài và ảnh hưởng. Ông là chủ tờ báo, đồng thời là tổng biên tập và phụ tá biên tập. Ông là bộ trưởng Bộ Ngoại giao đồng thời là thẩm phán. Ông là chủ đội bóng chày; ông là chủ những con ngựa đua và du thuyền. Ông là giám dốc cái công ty đem về hai trăm phần trăm lợi nhuận cho người có cổ phần. Ông bỏ ra bạc triệu đem cho các cơ quan từ thiện và trường học mà chính ông là người quản trị. Ông treo cô diễn viên diện ảnh giữa không trung. Ông là người quyết định mảng tóc dính trên cái búa có thật là tóc người hay không; ông cũng ra phán quyết cuối cùng kết án hay tha bổng kẻ sát nhân, treo cổ hay thả hắn tự do. Ngoại trừ thời tiết sương mù dường như ông có thể xoay vần mọi thứ. Thế mà ông lên cơn giận. Tôi biết ông nổi giận vì lẽ này. Khi tôi đọc những gì ông viết về đàn bà, tôi nghĩ đến chính ông chứ không phải những gì ông viết. Khi kẻ tranh luận bình tĩnh tranh luận, anh ta chỉ nghĩ đến sự tranh luận; và người đọc không thể không bị lôi cuốn theo. Nếu anh ta bình tâm trong lúc viết sách về đàn bà, sử dụng những bằng chứng xác đáng để chứng minh luận điểm của mình, và không hề để lộ chút mong muốn nào để o ép kết luận phải đi vào chiều hướng do mình đưa ra thì người ta cũng chẳng việc gì phải nổi giận. Người ta sẽ phải công nhận các sự kiện thôi, như công nhận hạt đậu màu xanh hay chim hoàng yến màu vàng. Lẽ ra tôi phải nói vậy. Nhưng đằng này, tôi lên cơn giận bởi sự giận dữ của ông giáo sư. Thực sự, trong lúc lật xem tờ báo, tôi nghĩ rằng thật phi lí khi một con người đầy quyền lực trong tay lại có thể nổi giận. Hay sự tức giận, tôi băn khoăn, bằng cách nào đó, như người thân tín, như con yêu tinh luôn túc trực bên cạnh quyền lực? Thí dụ, người giàu hay tức giận bởi họ nghi ngờ người nghèo muốn chiếm đoạt tiền bạc, tài sản của họ. Những ông giáo sư, hay nói đúng hơn là những ông tộc trưởng, có lẽ nổi giận một phần bởi lí do như thế, nhưng một phần bởi lí do khác nằm dưới cái nhan đề, không phô bày trên bề mặt. Có khả năng, họ chẳng hề “tức giận” chút nào; quả thật thế, bình thường họ là người được tôn kính, tận tuy và gương mẫu trong các mối quan hệ của cuộc sống riêng tư. Rất có khả năng, trong lúc vị giáo sư muốn nhấn mạnh quan điểm của mình về sự thua kém của nữ giới, đã chẳng hề quan tâm gì đến sự thua kém đó mà chỉ vì ông muốn chứng tỏ sự vượt trội của chính mình. Đó là điều ông hăng say bảo vệ và nhấn mạnh, bởi với ông, nó là viên ngọc quý vô giá. Cuộc sống của cả hai giới phái - tôi nhìn họ chen chúc nhau dọc bên vệ đường - là cuộc đấu tranh không ngừng, đầy vất vả và khó nhọc. Nó yêu cầu người ta phải có lòng can đảm và sức mạnh vô biên. Nhưng có lẽ, yêu cầu khó khăn nhất nơi chúng ta, sinh vật sống với ảo tưởng, là sự tự tin vào bản thân. Thiếu tự tin, chúng ta như những đứa trẻ sơ sinh nằm trong nôi. Và bằng cách nào, nhanh chóng nhất, chúng ta vun đắp được phẩm chất khó lường nhưng vô cùng quý giá đó? Bằng cách nghĩ kẻ khác thua kém mình. Bằng cách nghĩ mình được trời biệt đãi hơn kẻ khác - có thể là sự giàu có, hay địa vị, cái mũi thẳng, hay bức họa chân dung người cha già của Romney [25] - bởi chẳng bao giờ cạn những cái trá ngụy lươn lẹo của trí tưởng tượng con người. Do đó, điều trọng đại với vị tộc trưởng, người phải chinh phục, phải thống trị, là cảm thấy rất nhiều người, đúng hơn một nửa nhân loại, tự nhiên thua kém mình. Nó thực sự là một trong những nguồn chủ yếu cung cấp quyền lực cho ông. Nhưng hãy cho tôi dùng nhận xét này soi sáng lên đời sống thật, tôi nghĩ thế. Nó có giúp giải thích được phần nào những rắc rối tâm lí mà ta ghi chú xuống lề cuộc sống thường nhật? Liệu nó giải thích được không sự sửng sốt của tôi hôm tôi nghe Z, người đàn ông nhân đạo nhất, khiêm tốn nhất, cầm lên cuốn sách của Rebecca West [26] đọc một đoạn trong đó rồi kêu lên, “Đúng là tay nữ quyền lếu láo! Bà ta gọi đàn ông là bọn hợm hĩnh!” Tôi ngạc nhiên lắm - bởi tại sao lại gọi cô West là “tay nữ quyền lếu láo” trong khi câu nói của cô về giới phái khác mình tuy không làm mát lòng nhưng rất có khả năng chính xác? - câu nói của ông không hẳn chỉ là tiếng kêu thất thanh của lòng tự kiêu bị thương tổn; nó còn là sự phản kháng chống lại cái gì đó đã dám cả gan đứng lên cản trở quyền hạn tin vào chính mình của ông ta. Suốt bao thế kỷ, đàn bà phụng sự như là tấm gương soi có năng lực nhiệm màu và ngoạn mục phản ánh hình ảnh người đàn ông to gấp hai lần kích thước thật của hắn. Không có năng lực đó, có lẽ mặt đất vẫn là đầm lầy và rừng rậm. Không ai biết đến vinh quang của chiến tranh. Chúng ta vẫn nghuệch ngoạc khắc hình hươu nai lên xương cừu và đổi chác đá lửa với da thú hay những đồ trang sức giản dị cho trình độ thưởng ngoạn chất phác của chúng ta. Siêu nhân và Những ngón tay của định mệnh chẳng bao giờ hiện hữu. Nga hoàng, vua Đức và Áo chẳng bao giờ có vương miện hay để mất chúng. Bất kì dùng cho mục đích gì trong xã hội văn minh, gương soi rất thiết yếu cho tất cả những hành động bạo nghiệt lẫn anh hùng. Đó là lí do vì sao cả Napoleon [27] lẫn Mussolini đều cương quyết gán ghép sự thua kém lên đàn bà, bởi nếu không, đàn ông như họ sẽ thua kém, sẽ ngưng lớn mạnh. Điều đó giải thích phần nào đàn ông thường cần có đàn bà ở bên. Nó cũng giúp giải thích tại sao đàn ông hay bồn chồn không yên nếu bị đàn bà chỉ trích; ông thấy không thể chịu đựng được khi bị bà lên tiếng chê bai cuốn sách này dở, bức tranh kia kém, hoặc bất kì điều gì khác; và mức độ đau đớn, tức giận này cao hơn nhiều nếu đem so với trường hợp đàn bà bị đàn ông chỉ trích tương tự. Bởi ngay lúc bà nói lên sự thật, hình ảnh trong tấm gương soi co rút lại; và sự sinh tồn sung sức của ông ngay lập tức sút giảm. Cách nào đây để ông tiếp tục phê phán, đi khai hóa văn minh cho dân bản xứ, làm luật, viết sách, ăn mặc lịch sự để đọc diễn văn trong các buổi tiệc tùng, ngoại trừ ít nhất trong mỗi bữa sáng, bữa tối, ông thấy mình to lớn gấp hai lần kích thước thật? Tôi ngẫm nghĩ như thế trong lúc tay bẻ vụn mẩu bánh mì, quấy tách cà phê, và chốc chốc nhìn người đi bộ ngoài đường. Ảo tưởng tấm gương soi là cái gì tối hệ trọng bởi nó bổ sung sinh lực và kích thích hệ thần kinh của ông. Lấy nó đi, ông có thể chết, như gã nghiện không có ma tuý để dùng. Núp dưới mái che của ảo tưởng đó, tôi ngẫm nghĩ trong lúc nhìn qua cửa sổ, một nửa số người trên vệ đường đang bước những bước dài đến sở làm. Họ khoác áo bành tô, đầu đội mũ chỉnh tề dưới những tia nắng đồng thuận của ảo tưởng buổi ban mai. Họ bắt đầu ngày làm việc đầy tự tin, vững chãi; tin tưởng tại tiệc trà nhà cô Smith, họ sẽ được mọi người yêu thích; đặt chân vào phòng, họ tự nhủ, mình vượt trội hơn phân nửa số người nơi đây, và từ đó trở đi, họ ăn nói với phong thái tự tin, an nhiên tự tại, điều này ảnh hưởng sâu sắc lên đời sống cộng đồng và dẫn đến những ghi chú lạ lùng bên lề những suy nghiệm riêng tư.
Nhưng, những đóng góp vào chủ đề trắc trở và vô cùng thú vị về tâm lí kẻ khác phái này - tôi hi vọng nó là đề tài cho các bạn nghiên cứu, khi nào các bạn có trong tay thời gian năm trăm năm - bị tạm thời gián đoạn bởi tôi phải móc ví trả tiền bữa ăn trưa. Tổng cộng là năm hào chín xu. Tôi đưa cho người hầu bàn tờ giấy bạc mười hào và anh ta đem tiền thối lại cho tôi. Trong ví tôi còn tờ mười hào nữa; tôi chú ý, bởi nó vẫn là sự kiện khiến tôi bàng hoàng sửng sốt, cái ví của tôi có khả năng tự động đẻ ra những tờ giấy bạc mười hào. Tôi mở ví và nó nằm sẵn trong đấy. Xã hội cung cấp cho tôi thịt gà, cà phê, giường ngủ, nhà ở, và để đổi lại là một số giấy tờ dì tôi để lại cho tôi, tôi nêu lên dì ra đây không ngoài lí do này.
Dì tôi, bà Mary Beton, tôi phải kể với các bạn, qua đời trong tai nạn ngã ngựa, khi bà đi hóng gió ở Bombay. Một buổi tối, tôi nhận được giấy tờ thừa kế cùng lúc với tin họ mới thông qua đạo luật đàn bà được quyền bỏ phiếu. Văn kiện của luật sư rơi vào thùng thư và khi bóc ra xem tôi biết dì tôi đã để lại cho tôi khoản tiền năm trăm bảng mỗi năm, suốt đời. Giữa hai cái tin - đàn bà được quyền bỏ phiếu và tiền - thì tiền, của chính tôi, dường như quan trọng hơn nhiều lắm. Trước đó, để kiếm sống tôi làm đủ thứ nghề lặt vặt từ nghề viết báo, tường thuật màn diễn lừa ở nơi này, đám cưới ở chỗ kia; cho đến những việc khác như gửi thư quảng cáo, đọc truyện cho các bà già, làm hoa giả, dạy chữ cái cho trẻ em mẫu giáo. Trước năm 1918, đó là những công việc chính yếu dành cho phụ nữ. Tôi e là mình chẳng cần phải miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết ra đây về nỗi khó nhọc của những công việc này, bởi lẽ, chắc các bạn có người quen làm những công việc đó; tôi cũng chẳng cần nói lên sự khó khăn của cuộc sống khi phải kiếm tiền, bởi có lẽ các bạn cũng đã từng trải qua. Nhưng để lại trong tôi vết thương đau đớn, ê chề hơn cả hai điều trên là liều độc dược của lòng khiếp sợ và nỗi cay đắng mà những ngày tháng đó gây nên trong tâm tư tôi. Trước hết, luôn luôn là công việc mình không thích làm, và làm như kẻ tôi đòi, rồi phải nịnh bợ luồn cúi, chuyện này có lẽ không phải lúc nào cũng cần thiết nhưng hình như không có không được, bởi chuyện rủi ro rất dễ xảy ra cho kẻ ngay thẳng; và rồi ý nghĩ tài năng vượt trội mà che đậy có nghĩa là chết - nhỏ bé thôi nhưng quý giá đối với người sở hữu nó - tiêu tan cùng với bản ngã tôi, linh hồn tôi - tất cả như sự hoen gỉ ăn mòn nụ hoa xuân, tiêu hủy đến tận gốc cây. Tuy nhiên, như tôi kể, dì tôi mất; và mỗi khi tôi rút tờ giấy bạc mười hào ra tiêu, một chút sự hoen gỉ và sự thối rữa đó được tẩy xóa, sự sợ hãi và cay đắng ra đi. Thật thế, tôi nghĩ, trong lúc nhét đồng bạc vào ví, quả kì diệu, nhớ lại nỗi cay đắng của những ngày tháng mà chỉ cần có thu nhập cố định là tâm tính người ta thay đổi ngay. Không sức mạnh nào trên thế gian này có thể tước đi của tôi món tiền năm trăm bảng đó. Thực phẩm, nhà cửa, quần áo muôn đời là của tôi. Bởi thế, không những sự cố gắng và lao lực chấm dứt, sự thù ghét và nỗi cay đắng trong lòng tôi cũng tiêu tan. Tôi chẳng cần thù ghét đàn ông; hắn không làm tôi đau đớn nữa. Tôi chẳng cần nịnh bợ đàn ông; hắn có cho tôi cái gì đâu. Tôi mơ hồ nhận ra mình có thái độ mới đối với phân nửa nhân loại. Tựu chung, thật phi lí nếu ta đổ lỗi lên bất kì tầng lớp hoặc giới phái nào. Đa phần người ta chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về việc làm của mình. Họ làm theo bản năng vốn không nằm trong tầm kiểm soát của họ. Họ cũng thế, những ông trưởng tộc, những vị giáo sư, phải vật lộn với biết bao khó khăn, biết bao chướng ngại khủng khiếp. Nền giáo dục dạy dỗ họ, và cả tôi nữa, ở bình diện nào đó, sai lầm trầm trọng. Cái hư hỏng, sai trái được dạy là vĩ đại. Đúng, họ có tiền bạc và quyền lực, nhưng để trả giá, họ phải nuôi dưỡng trong ngực mình con chim ưng, con diều hâu, chúng muôn đời cắn xé lá gan và mổ nát hai buồng phổi họ - bản năng muốn sở hữu, sự nôn nóng gom góp tiền của thúc đẩy lòng tham, họ muốn chiếm đoạt ruộng đất và tài sản kẻ khác vĩnh viễn; họ đẩy xa biên giới và dựng cờ; họ đóng chiến hạm và chế tạo khí độc; họ hiến dâng cuộc đời mình và cuộc đời con cháu mình. Họ diễu hành xuyên qua cổng vòm Admiralty (tôi đã đặt chân đến đài kỉ niệm đó), hay trên bất kì đại lộ tràn ngập huy chương và đại bác nào khác, để thấy niềm vinh quang chói ngời xán lạn. Hay, trong nắng xuân, họ đứng nhìn người buôn bán cổ phiếu và ông luật sư tài giỏi đi vào nhà trong làm tiền, làm thật nhiều, nhiều hơn nữa, trong khi sự thật thì chỉ cần năm trăm bảng mỗi năm đã đủ cho một con người sống êm đềm trong nắng ấm. Đây là những bản năng xấu được che giấu, tôi nghĩ thế. Chúng nảy sinh từ hoàn cảnh sống, từ sự thiếu văn minh, vừa nghĩ tôi vừa phóng mắt nhìn ra tượng công tước Cambridge, và đặc biệt là những chiếc lông chim gắn trên cái mũ ba góc của ông; với sự chăm chú mà có lẽ trước đó chưa bao giờ có người nhìn chúng như thế. Và trong lúc tôi nhận ra những chướng ngại này, sự khiếp sợ và nỗi cay đắng tự chúng biến hoá thành lòng thương hại và niềm cảm thông; thế rồi trong vòng một hai năm, lòng thương hại, niềm cảm thông cũng sẽ tan biến và cuối cùng là sự giải thoát lớn nhất, sự tự do suy nghĩ về mọi cái theo ý mình. Thí dụ, tòa nhà cao tầng đó, tôi thích nó hay không? Bức tranh đó đẹp hay xấu? Cuốn sách đó theo ý tôi hay hay dở? Quả thế, tài sản thừa kế dì tôi để lại đã mở ra cho tôi thấy bầu trời, và thay thế hình tượng người đàn ông đường bệ, oai phong mà Milton đề nghị tôi xem như thần tượng, là cảnh sắc bầu trời mở ra bát ngát.
Cứ thế nghĩ ngợi, cứ thế suy đoán, tôi lững thững đi bộ về nhà; nhà tôi nằm bên bờ sông. Ánh đèn le lói và nếu so với thời điểm ban ngày thì có sự đổi khác không tả được tràn ngập London. Như thể, một cái máy vĩ đại sau khi chạy suốt ngày trời và với sự trợ giúp của chúng ta, đã dệt được vài thước vải thật đẹp - một tấm vải rực lửa với đôi mắt đỏ chiếu sáng, một con quái thú đen đủi gầm thét khạc ra hơi thở nóng. Ngọn gió từ đâu bỗng quất lên nhà cửa, lắc mạnh hàng rào ván với cơn thịnh nộ khác thường.
Tuy thế, trên con phố nhỏ khu nhà tôi, các sinh hoạt nội bộ bình thường vẫn diễn ra. Bác thợ sơn đang từ trên cao trèo thang xuống đất; cô trông trẻ đang cẩn thận đẩy xe em bé về nhà trẻ; người dỡ than đang xếp những vỏ bao tải lại thành đống; người đàn bà bán hàng rau xanh đang cộng sổ sau một ngày buôn bán. Nhưng tôi quá chìm đắm vào vấn đề các bạn đặt lên vai đến nỗi không thể nhìn thấy những cảnh tượng quen thuộc này mà không quy chiếu chúng về một tâm điểm. Tôi nghĩ, so với cách đây một thể kỷ, thời nay thật khó so sánh các nghề nghiệp này để xem nghề nào cao trọng hơn, thiết yếu hơn. Giữa nghề dỡ than và giữ em bé, nghề nào hơn; hay người đàn bà làm thuê chăm chút một đàn tám đứa bé ít giá trị đối với thế giới này hơn ông trạng sư kiếm được cả trăm nghìn bảng? Thật vô ích khi hỏi những câu hỏi như thế; bởi chẳng ai trả lời được. Không những giá trị tương đương giữa chị người làm và ông trạng sư trồi sụt từ thập kỉ này sang thập kỉ kia, mà chúng ta cũng chẳng hề có trong tay thước đo nào để phân đinh sự cao thấp, ngay cả ở thời điểm hiện tại. Tôi đã hết sức điên rồ yêu cầu ông giáo sư của tôi cung cấp những “bằng chứng xác thực” về cái này, cái kia trong lời bình luận của ông về đàn bà. Ngay cả nếu vào lúc này người ta có thể thẩm định giá trị của bất kì khả năng nào thì những giá trị đó tương lai sẽ biến đổi; trong vòng một thế kỷ, rất có thể chúng sẽ thay đổi hoàn toàn. Vả lại, trong một trăm năm, tôi nghĩ trong lúc đặt chân lên thềm ngôi nhà, đàn bà sẽ không còn là giới phái được bao bọc nữa. Một cách hợp lí, họ sẽ tham gia vào tất cả những sinh hoạt và hoạt động mà có thời họ bị cấm cản. Cô trông trẻ sẽ dỡ than. Bà bán hàng sẽ điều khiển đầu máy xe kéo. Mọi giả định dựa trên những dữ kiện khi người đàn bà còn là giới phái được bao bọc sẽ biến mất - thí dụ như (đến đây một toán lính tuần tiễu diễn hành về phía cuối phố) đàn bà, giáo sĩ và thợ làm vườn sống lâu hơn người khác. Lấy đi sự bao bọc đó, đưa họ vào những vận động và sinh hoạt cùng với giới phái kia, cho họ mặc quân phục làm lính, thủy thủ, cho họ lái tàu, cho họ làm thợ bến, và họ sẽ không tàn lụi khi còn quá trẻ, quá sớm hơn đàn ông, đến nỗi người ta phải nói câu: “Hôm nay tôi trông thấy một phụ nữ,” như người ta thường nói trước đó: “Tôi trông thấy một chiếc phi cơ.” Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, một khi người ta không còn phải lên kế hoạch bảo bọc thân phận người đàn bà, tôi nghĩ thế trong lúc đưa tay mở cửa. Nhưng tất cả những điều này liên can gì đến đề tài bài tiểu luận của tôi, “Phụ nữ và văn học”? Tôi tự hỏi như thế trong lúc bước chân vào nhà trong.