← Quay lại trang sách

Chương ba

Thật thất vọng bởi tối qua tôi đã chẳng đem về lời phát biểu hay sự kiện nào đáng kể và xác thực. Đàn bà nghèo túng hơn đàn ông bởi - lí do này hay lí do kia. Giờ đây, có lẽ tôi phải từ bỏ kế hoạch đi tìm kiếm chân lí, được gì đâu ngoài núi quan điểm nóng bỏng như nham thạch và biến màu như nước rửa bát. Tốt hơn, tôi nên khép màn cửa lại; chặn đứng, không cho sự nhiễu loạn từ bên ngoài lọt vào; thắp lên ngọn đèn; thu hẹp mục tiêu tìm kiếm và đi hỏi nhà viết sử, người ghi chép sự kiện chứ không phải quan điểm, nhờ ông miêu tả cho tôi rõ hoàn cảnh sống của phụ nữ, không phải qua mọi thời đại, mà ở Anh quốc, dưới thời Nữ hoàng Elizabeth [Đệ Nhất] chẳng hạn.

Bởi câu hỏi không có lời đáp vẫn đeo đẳng hết thời này sang thời khác là tại sao không có người phụ nữ nào đóng góp một chữ vào cái kho tàng văn chương hoành tráng kia, trong khi cứ hai người đàn ông thì có một người biết sáng tác ca khúc hoặc làm thơ. Đàn bà thời trước sống như thế nào? Tôi tự hỏi; bởi sáng tác văn học, công việc sáng tạo của trí tưởng khác với khoa học, không như hòn sỏi rơi xuống mặt đất; văn học giống như cái mạng nhện, bám dính vào bốn góc của đời sống, mặc dù có lẽ nó chỉ bám hờ. Thông thường chẳng mấy ai thấy nó bám như thế nào; chẳng hạn, kịch của Shakespeare hình như một mình một cõi treo trên đó. Nhưng khi cái mạng nhện bị kéo chệch sang một phía, cong queo ngoài rìa, rách nát bên trong, thì người ta chợt nhớ kẻ giăng chúng giữa không trung không phải là những sinh vật vô thể; chúng là sản phẩm của những con người khốn khổ, và chúng bám lên những cái thông thường, hữu hình như sức khoẻ, tiền bạc và nhà cửa chúng ta sinh sống bên trong.

Bởi thế, tôi đi tìm kệ sách lịch sử và lấy xuống một trong những cuốn mới nhất có nhan đề “Lịch sử Anh quốc” của giáo sư Trevelyan [28] . Một lần nữa, tôi dò tiêu mục “Phụ nữ”, tìm cụm từ “vị trí của” và mở trang sách. Tôi đọc “Đánh đập vợ là quyền hạn được mặc nhiên công nhận của đàn ông, đàn ông đánh vợ không bị người trên cũng như kẻ dưới chê cười”. Sử gia tiếp tục, “Tương tự như thế, con gái không chịu lấy chồng do cha mẹ lựa chọn sẽ bị nhốt trong phòng và bị đánh đập đến nhừ tử, lên bờ xuống ruộng; ép duyên không hề gây sốc trong dư luận. Hôn nhân không phải là chuyện tình cảm riêng tư, mà là chuyện mưu lợi cho gia đình, đặc biệt ở những tầng lớp thượng lưu ‘hiệp sĩ’… Hôn ước đặt ra khi đứa trẻ có khi cả hai, còn nằm trong nôi, và hôn lễ được cử hành ngay sau khi chúng lìa tay bà vú”. Đó là khoảng năm 1470, không lâu sau thời đại của Chaucer [29] . Văn bản kế tiếp tôi tìm thấy đề cập đến địa vị người phụ nữ của hai trăm năm sau, thời của Stuarts. “Đàn bà thuộc tầng lớp thượng lưu và trung lưu lấy chồng theo ý mình vẫn là biệt lệ; sau khi người chồng được chọn, ông ta là chúa tể, là chủ gia đình, luật pháp cũng như tục lệ cho phép như thế. “Tuy nhiên, ngay cả thế,” Giáo sư Trevelyan kết luận, “đàn bà trong tác phẩm của Shakespeare hoặc các tập hồi kí khả tín viết vào thế kỷ XVII của Verney và Hutchinson hình như chẳng mấy ai muốn có cá tính riêng.” Hẳn là thế, nhưng nếu suy xét kỹ chúng ta thấy Cleopatra có đường lối riêng của nàng; người ta có thể tin là Lady Macbeth cũng có riêng một ý chí; còn người ta phải kết luận Rosalind là một cô gái hấp dẫn. Giáo sư Trevelyan đã không nói hết sự thật khi ông phát biểu đàn bà trong tác phẩm của Shakespeare hình như chẳng ai muốn có cá tính riêng. Không phải là nhà viết sử, người ta có thể đi xa hơn và tuyên bố đàn bà cháy sáng như ngọn hải đăng trong tác phẩm của các thi sĩ từ thời cổ đại - Clytemnestra, Antigone, Cleopatra, Lady Macbeth, Phèdre, Cressida, Rosalind, Desdemona, công nương Malfi, trong tác phẩm kịch; rồi phải kể đến trong tác phẩm văn xuôi: Millamant, Clarissa, Becky Sharp, Anna Karenina, Emma Bovary, Madame de Guermantes - tên tuổi các nữ nhân vật đó cứ thế ùa vào tâm trí, họ cho thấy đàn bà chẳng hề “thiếu cá tính” chút nào. Quả thế, nếu đàn bà không hiện hữu, ngoại trừ trong các tác phẩm hư cấu viết bởi đàn ông, thì người ta phải tưởng tượng nàng là nhân vật cực kì quan trọng; rất đa dạng; anh hùng và hèn hạ; tươi sáng và tối tăm; đẹp đẽ vô cùng và xấu xí tột độ; vĩ đại chẳng kém đàn ông, thậm chí có người cho là còn hơn thế [30] . Nhưng đây là đàn bà trong tác phẩm văn học. Sự thật là, như giáo sư Trevelyan chỉ ra cho chúng ta rõ, nàng bị nhốt trong phòng và bị đánh đập đến nhừ tử, lên bờ xuống ruộng.

Một sự tổng hợp kì dị do đó xuất hiện. Trong trí tưởng, nàng là nhân vật cực kì quan trọng; ngoài thực tế, nàng chẳng là gì; trong thi ca, nàng tràn ngập từng con chữ, trong lịch sử nàng vắng mặt. Nàng tỏa khắp đời sống vua chúa và là người chinh phục trong tiểu thuyết; nhưng sự thật, nàng là nô lệ của bất kì cậu trai nào sau khi cha mẹ cậu ấn cái nhẫn vào ngón tay nàng. Trong văn chương, những từ ngữ cao nhã nhất, những tư tưởng thâm thuý nhất thốt ra từ đôi môi nàng; ngoài đời thật, nàng gần như mù chữ và là tài sản của chồng nàng.

Nếu đọc sử trước rồi đọc thơ sau, chắc chắn ta sẽ liên tưởng đến giống quái vật kì dị - con giun có cánh như chim ưng; đời sống tinh thần và sắc đẹp băm vụn cùng mỡ bò trong nhà bếp. Những con quái thú này, tuy lạ lẫm trong trí tưởng tượng, nhưng không hiện hữu ngoài đời thực. Để đưa nàng ra ánh sáng, người ta phải vận dụng hai cách suy nghiệm cùng lúc, vừa thi vị vừa dung tục, nhờ đó sự thật không vuột mất - rằng bà tên Martin, ba mươi sáu tuổi, mặc áo màu xanh, đội nón đen và đi giày nâu; nhưng cũng đừng để mắt cái nhìn hư cấu - bà là cái bình chứa trong đó đủ loại tinh thần và những năng lực chuyển vận và chiếu sáng muôn đời. Tuy nhiên, khi thử áp dụng phương pháp suy luận này với người phụ nữ sống dưới thời Elizabeth, luồng sáng bỗng dưng tắt ngấm; người ta khựng lại bởi sự khan hiếm dữ kiện. Chẳng ai biết cặn kẽ điều gì, không hề có sự thật hoàn toàn chính xác và thực chất về nàng. Lịch sử nhắc đến nàng thật ít ỏi. Và tôi giở lại cuốn sách của giáo sư Trevelyan để xem, lịch sử nghĩa là gì với ông. Tôi tìm thấy tên mỗi chương sách đại để như sau:

“Triều đình Manor và những phương pháp canh điền… Dân Cistercian và việc chăn nuôi cừu… Cuộc viễn chinh của Thập tự quân… Trường Đại học… Thứ dân Nghị viện… Cuộc chiến một trăm năm… Chiến tranh hoa hồng… Những học giả thời Phục hưng… Sự giải thể những tu viện… Sự tái phân chia điền địa và cuộc xung đột tôn giáo… Nguồn gốc hải lực Anh quốc… Hạm đội…”, vân vân. Thi thoảng, tên tuổi một người đàn bà được nhắc đến, Elizabeth, Mary; một nữ hoàng, một công nương cao quý. Nhưng không hề thấy người phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu, người không có gì trong tay ngoài khối óc và cá tính trong ý thức làm chủ của mình, tham dự vào bất kì phong trào lớn nào, những phong trào đem hợp lại sẽ tựu thành cái nhìn của sử gia về quá khứ. Ngay cả trong giai thoại hoặc dã sử cũng không có. Aubrey chẳng viết gì về mình. Bà không bao giờ viết về cuộc đời bà, nhật kí cũng không; chỉ có chừng mươi bức thư tay của bà còn lưu lại. Bà không soạn kịch cũng chẳng làm thơ để qua đó chúng ta có thể thẩm định con người bà. Tôi chạnh nghĩ, điều người ta mọng mỏi - và tại sao các sinh viên ưu tú của Newnham hay Girton không cung cấp cho chúng ta? - là khối lượng lớn những thông tin; bà lấy chồng năm bao nhiêu tuổi; bà có bao nhiêu người con; nhà cửa bà ra sao; bà có căn phòng riêng không; bà có tự tay nấu nướng không; bà có phải là hạng người nuôi đầy tớ trong nhà? Tất cả những dữ kiện này còn nằm yên nơi nào đó, có lẽ là trong sổ đăng kí của giáo xứ hoặc hồ sơ kê khai hành chính; đời sống người phụ nữ trung bình thời Elizabeth phải nằm rải rác đâu đó, biết đâu người ta có thể tập hợp lại và hoàn thành một cuốn sách. Tham vọng này vượt quá cả sự liều lĩnh của chính tôi, tôi nghĩ trong lúc nhìn quanh quất lên kệ sách tìm kiếm những cuốn mà tôi biết không có, và tôi đề nghị sinh viên các trường đại học danh tiếng trên hãy viết lại lịch sử, mặc dù, tôi phải công nhận nó có vẻ khá kì quặc, phi thực tế và lệch lạc làm sao; nhưng tại sao không đóng góp thêm vào dòng chính sử trang sử phụ này, dĩ nhiên là gọi nó bằng cái tên kín đáo để các bà nhận ra mà không thấy khiếm nhã? Bởi, chúng ta thường thoáng thấy bóng họ trong cuộc sống như những nhân vật vĩ đại, nhưng cái bóng mau chóng biến mất vào hậu trường, ẩn nấp, đôi khi tôi nghĩ thế, cái chớp mắt, nụ cười, và có lẽ cả giọt lệ. Và nói cho cùng, chúng ta có đầy đủ đời sống của Jane Austen; có vẻ như không cần thiết phải xét lại bi kịch của Joanna Baillie [31] ảnh hưởng đến thơ Edgar Allan Poe [32] như thế nào; riêng tôi, tôi không thấy có vấn đề gì nếu người ta đóng cửa nhà và dinh thự của Mary Russell Mitford chí ít cả thế kỷ, không cho công chúng vào xem nữa. Nhưng, tôi tiếp tục suy nghĩ, mắt lại ngước lên nhìn kệ sách, điều tôi thấy đáng trách là chúng ta không hề biết gì về người phụ nữ trước thế kỷ XVIII. Tôi không biết dựa vào đâu cho những suy nghiệm của mình. Tại nơi đây tôi đặt câu hỏi tại sao đàn bà dưới thời Elizabeth không làm thơ, và tôi không rõ họ được giáo dục như thế nào; họ được dạy viết hay không; họ có phòng làm việc riêng không; bao nhiêu người có con trước năm hai mươi mốt tuổi; đại để, họ làm gì trong suốt thời gian từ tám giờ sáng đến tám giờ tối. Hiển nhiên, họ không có tiền; và theo như giáo sư Trevelyan cho biết, dù muốn hay không, họ phải lấy chồng ngay sau khi rời nhà trẻ, có lẽ khi mới mười lăm mười sáu tuổi. Bởi thế, tôi đi đến kết luận là chẳng bao giờ có chuyện đột nhiên một người trong họ là kịch gia tầm cỡ Shakespeare, và tôi bỗng nghĩ đến người đàn ông lớn tuổi khả kính đã qua đời, sinh thời ông là giám mục, tôi nghĩ thế, ông từng tuyên bố không người đàn bà nào, trong quá khứ, hiện tại hay tương lai có thể là thiên tài như Shakespeare. Ông viết như thế trong một bài báo. Có bà mệnh phụ đến tham vấn và ông bảo bà rằng loài mèo không lên thiên đường, đó là sự kiện hiển nhiên, mặc dù, ông nói thêm, chúng cũng có thứ linh hồn nào đó. Bao nhiêu là suy nghĩ những ông lão khả kính này dùng để cứu rỗi chúng ta? Với cách suy luận như thế, làm sao họ thu nhỏ biên giới của sự ngu dốt được? Mèo không lên thiên đàng. Đàn bà không thể viết kịch như Shakespeare. Buồn cười thật đấy, nhưng tôi không thể không nghĩ, trong lúc ngước nhìn những tác phẩm của Shakespeare nằm uy nghi trên kệ sách, biết đâu ngài giám mục ở bình diện nào đó có lí; đàn bà sống vào thời đại Shakespeare viết kịch như Shakespeare là chuyện hoàn toàn bất khả. Hãy cho tôi tưởng tượng, bởi dữ kiện khó tìm quá, rằng chuyện gì xảy ra nếu Shakespeare có người em gái mà thiên tư chẳng kém gì ông, hãy gọi nàng là Judith. Mẹ Shakespeare là người sống nhờ của thừa kế và rất có thể ông được gửi vào trường nơi ông học tiếng Latin - trước tác của Ovid, Virgil và Horace [33] - cùng các nguyên tắc cơ bản của ngữ pháp và luận lí học. Như chúng ta biết, ông là cậu trai phóng túng, ông đi săn thỏ, có lẽ cả nai; kết hôn vội vã với người đàn bà gần nhà, và bà ta đẻ ngay cho ông đứa con. Ông bỏ nhà lên London đi tìm sự nghiệp. Có vẻ ông yêu thích nhà hát kịch; ông khởi nghiệp bằng nghề giữ ngựa ngoài cổng rạp. Chẳng bao lâu, ông có việc làm trong nhà hát, trở thành một diễn viên kịch khá thành công và sống giữa trung tâm vũ trụ, ông gặp gỡ, quen biết mọi người, làm nghệ thuật trên sân khấu, phô diễn những điều minh triết ngoài đường phố, thậm chí được phép ra vào lâu đài của hoàng hậu.

Trong khi đó, cô em gái tài năng lạ thường của ông chúng ta cứ giả thử như thế, vẫn ở nhà. Nàng cũng mang trong người dòng máu phiêu lưu, cũng giàu trí tưởng tượng và ôm ấp giấc mộng đi du ngoạn thế giới như ông. Nhưng nàng không được đến trường. Ngay cả văn phạm và luận lí nàng cũng chẳng được học, nói gì đến việc đọc trước tác của Horace hay Virgil. Thi thoảng nàng cầm lên cuốn sách, có lẽ của anh nàng, và đọc vài trang. Nhưng cha mẹ nàng bước vào và bảo nàng đi may vá quần áo chứ đừng thơ thẩn với sách vở làm gì. Cha mẹ nàng nói với nàng bằng giọng nghiêm khắc nhưng không ghét bỏ, bởi họ thuộc thành phần khá giả, họ hiểu rõ kiếp sống của người phụ nữ và thật tình yêu thương con gái mình - quả thế, chắc chắn nàng là báu vật trong mắt người cha. Có lẽ, lúc một mình ở nhà, nàng lén lút viết lách linh tinh nhưng nàng cẩn thận giấu kín những trang viết hoặc viết xong rồi đốt. Tuy thế, chẳng bao lâu, trước khi bước sang tuổi hai mươi, nàng được cha mẹ hứa hôn với cậu con trai người làm len cùng thôn xóm. Nàng ghét lấy chồng và nàng khóc lóc ỉ ôi, vì thế nàng bị cha đánh đập tàn nhẫn. Rồi ông ngưng chửi mắng nàng. Thay vào đó ông van xin nàng đừng làm ông đau đớn, đừng làm ông mất mặt với chuyện hôn nhân của nàng. Ông hứa sẽ cho nàng xâu chuỗi hay cái áo đẹp; và khóe mắt ông ướt đẫm những giọt lệ. Làm sao nàng cãi lời cha được? Làm sao nàng để ông đau khổ được? Nhưng sức mạnh từ chính tài năng của nàng đã thúc đẩy nàng đi đến quyết định. Thu gom ít quần áo tư trang vào cái túi nhỏ, một đêm hè, từ phòng trên, nàng thòng dây đu xuống đất và bỏ nhà tìm đường đi London. Tuổi nàng chưa đầy mười bảy. Tiếng hát nàng còn hay hơn tiếng hót của bầy chim đậu trên cành. Giống như anh nàng, nàng có tài phổ nhạc cho thơ và đam mê sân khấu. Nàng đứng ngoài cửa rạp; nàng bảo nàng muốn diễn kịch. Đám đàn ông phá lên cười vào mũi nàng. Người quản lí rạp - gã đàn ông to béo, môi trề - cười ha hả. Gã rống lên những điều về chó lông xù múa may làm trò và đàn bà diễn kịch - gã bảo nàng rằng đàn bà không đời nào trở thành diễn viên được. Gã ngụ ý đấy - nhưng chắc các bạn hiểu gã muốn nói gì. Nàng sẽ không được huấn luyện diễn xuất. Ngay cả chuyện vào quán rượu gọi bữa ăn hay lang thang một mình ngoài đường vào nửa đêm cũng khó lòng xảy ra. Nhưng thiên tư của nàng hiển lộ nơi lòng say mê sáng tạo, nàng khao khát muốn vào xem tường tận kiếp sống của đàn ông, đàn bà và đem chúng vào văn chương. Cuối cùng - bởi nàng còn trẻ lắm, lại giống anh nàng một cách kì quặc, mặt nàng là Shakespeare thi sĩ, cũng hai mắt xám tro và đôi lông mày vòng nguyệt - cuối cùng Nick Greene, gã diễn viên kiêm quản lí rạp hát thấy thương cảm; một hôm nàng thấy mình có con với gã và thế là - ai là người đi đo lường sức nóng và cường độ mãnh liệt của trái tim thi sĩ khi nó quấn quíu và hỗn loạn trong cơ thể người đàn bà? - một đêm đông giá lạnh, nàng tự kết liễu đời mình và thân xác nàng vùi dưới lòng đất, nơi ngã tư đường mà ngày nay xe buýt đỗ bên gần khu Elephant và Castle.

Ít nhiều theo tôi, đó là câu chuyện của người đàn bà thiên tư như Shakespeare, sống dưới thời Shakespeare. Riêng phần tôi, tôi đồng ý với ngài giám mục đã qua đời, nếu quả thật như thế - là không ai nghĩ dưới thời Shakespeare có người đàn bà nào có thiên tài như Shakespeare. Bởi, thiên tài như Shakespeare không sinh ra trong gia đình lao động, không học hành, thuộc tầng lớp tôi đòi. Nó không sinh ra ở Anh quốc bởi chủng tộc Saxon và Briton. Ngày nay, nó cũng không sinh ra trong giai cấp công nhân. Vậy thì làm sao nó có thể sinh ra giữa những người đàn bà mà theo lời giáo sư Trevelyan, việc nhà việc cửa bắt đầu trước khi họ ra khỏi nhà trẻ, những người bị cha mẹ ép buộc phải làm như thế bởi quyền năng của luật pháp và tục lệ? Tuy vậy một người phụ nữ thiên tài như thế chắc chắn phải hiện hữu giữa tầng lớp lao động. Thi thoảng, một Emily Brontë hay một Robert Burns [34] bùng lên và minh chứng sự hiện hữu của nó. Nhưng điều hiển nhiên là nó chẳng bao giờ được ghi chép vào sách vở. Tuy thế, hễ đọc được mẩu chuyện về mụ phù thủy bị dìm xuống nước chết, hay người đàn bà bị quỷ ám, người đàn bà thông thái bán thuốc thảo mộc, thậm chí bà mẹ người đàn ông tài giỏi, tôi chợt nghĩ chúng ta đang dõi theo một tiểu thuyết gia bị quên lãng, một thi sĩ bị chèn ép, một Jane Austen sống trong câm lặng và tăm tối, một Emily Brontë vỡ óc chết trong đầm lầy hoặc nhăn nhó, điên dại lang thang ngoài đường cái, với sự tra tấn gây nên bởi chính thiên tài của mình. Quả thế, tôi còn dám liều lĩnh ước đoán cái tên Khuyết Danh, tác giả không biết bao nhiêu bài thơ không kí tên, thông thường phải là đàn bà. Chính Edward Fitzgerald [35] là người đưa ra giả thuyết tác giả những khúc balat và dân ca là đàn bà, họ sáng tác để hát ru con, hát bên khung cửi, hoặc trong đêm đông dài bất tận.

Điều này có thể đúng, có thể sai - ai biết được? - nhưng hình như tôi nhìn ra sự thật khi ôn lại câu chuyện cô em gái Shakespeare mà tôi bịa ra, đó là bất cứ người phụ nữ nào sinh ra với thiên tư hơn người ở thế kỷ XVI đều trở nên điên loạn và cuối cùng, phải tự kết liễu đời mình hoặc cô độc sống nốt quãng đời còn lại trong túp lều bên ngoài thôn làng, nửa phù thủy, nửa pháp sư và bị người đời sợ hãi, nhạo báng. Vì người ta không cần nhiều kiến thức tâm lí học để biết chắc một cô gái thiên tư hơn người cố tận dụng tài năng của mình để làm thơ thì đương nhiên sẽ bị kẻ khác tìm cách ngăn trở và phá hại, tâm tư cô sẽ bị hành hạ và xé rời từng mảnh bởi chính những bản năng đầy mâu thuẫn của mình, đến nỗi chắc chắn là thân xác cô trở nên tàn tạ và đầu óc cô mất sự tỉnh táo. Không người con gái nào có thể đứng trước cửa sân khấu kịch ở London, chen vào tìm gặp người diễn viên, kiêm quản lí sân khấu mà không tự chuốc vào người những đau khổ, phiền não ghê gớm, nỗi khổ đó dù có thể phi lí - bởi sự trinh bạch là linh vật do xã hội đặt ra không cần viện vào lí do xác đáng nào - nhưng vẫn không sao tránh khỏi. Sự trinh bạch vào thời đó, và ngay cả thời bây giờ, trong cuộc đời người đàn bà, có vai trò quan trọng của tôn giáo, họ phải dùng ý chí và bản năng để trói nó lại, nên cắt đứt dây trói, thả tự do cho nó nhìn thấy ánh sáng ban ngày là việc làm đòi hỏi lòng can đảm vô biên. Người đàn bà sinh vào thế kỷ XVI ở London, sống cuộc sống tự do không bị trói buộc, như một nữ sĩ, một kịch gia, có nghĩa là sống trong tình trạng căng thẳng thần kinh và tiến thoái lưỡng nan, một tình trạng có thể dẫn đến cái chết. Giả sử bà không chết, nhưng ngay cả thế những gì bà viết cũng sẽ bị bóp méo và biến dạng, kết quả của những trí tưởng tượng lệch lạc và bệnh hoạn. Hiển nhiên, tôi nghĩ trong lúc nhìn lên kệ sách nơi tôi chẳng thấy vở kịch nào của nữ tác giả, những tác phẩm của bà không có chữ kí. Đó phải là nơi trú ẩn bà tìm kiếm. Chính vết tích cay nghiệt của ý thức về sự trinh bạch này khiến đàn bà ở ngay thế kỷ XIX vừa qua vẫn phải ẩn danh khi viết văn. Currer Bell [36] , George Eliot, George Sand [37] , những nạn nhân của cuộc xung đột bên trong như tác phẩm họ chứng tỏ, đều thất bại trong việc che giấu bản thân mình bằng cách lấy tên nam giới làm bút danh. Làm thế, họ chỉ tôn cao thêm cái quy ước đàn bà nổi tiếng thì đáng khinh, một quy ước nếu không do giới phái kia đặt ra thì cũng được họ khuyến khích hỗ trợ (Pericles [38] từng nói vinh dự của người đàn bà không phải là việc được nói đến, trong khi chính ông là người được nói đến rất nhiều). Trong máu người đàn bà có sẵn sự ẩn danh. Họ không thích lộ diện. Thậm chí ngày nay, họ vẫn không màng đến danh vọng như đàn ông, và nói chung, khi đi ngang qua mộ chí hay biển chỉ đường, họ không cảm thấy bị thôi thúc phải làm cái gì để tên mình nằm trên đó, như Alf, Bert hoặc Chas phải làm bởi đó là bàn năng của họ, cái bản năng rên lên khe khẽ khi thấy có bóng dáng đàn bà, thậm chí là một con chó, Ce chien est à moi (Con chó này là của tôi). Và dĩ nhiên, có thể không phải là con chó, tôi nhớ đến quảng trường Parliament, Sièges và những đại lộ khác; có thể nó là một mảnh đất hoặc một người đàn ông tóc quăn đen nhánh. Một trong những ưu điểm làm đàn bà là người ta có thể đi qua cô gái da đen duyên dáng, xinh đẹp mà không cần ước thầm phải chi biến cô thành người đàn bà Anh.

Người đàn bà đó, sinh ra với tài thơ văn vào thế kỷ XVI, là người không hạnh phúc và tự bất hòa với chính mình. Tất cả những điều kiện sinh sống, tất cả những bản năng trong chính bản thân bà đồng loạt chống đối cái tâm thức cần thiết để bà tự do buông thả bất cứ điều gì hiện lên trong trí não. Nhưng tôi tự hỏi, tâm thức nào thì phù hợp với hoạt động sáng tạo? Người ta có cách nào nhận ra ý niệm của tâm thức này không? Tâm thức mà nhờ nó mới tạo thành thao tác kì lạ kia. Đến đây, tôi giữ bộ tuyển tập những bi kịch của Shakespeare. Thí dụ, trong đầu Shakespeare là tâm thức gì khi ông viết vở Lear , vở Antony và Cleopatra ? Chắc chắn nó là tâm thức phù hợp nhất cho thi ca mà chưa hề hiện hữu trước đó. Nhưng chính Shakespeare lại chẳng nói gì về điều này. Chúng ta chỉ tình cờ biết là ông “không bao giờ bôi xóa một dòng chữ”. Có thể trước thế kỷ XVIII, nghệ sĩ chẳng bao giờ nói về tâm thức của mình trong lúc sáng tạo. Rousseau [39] có lẽ là người đầu tiên. Dù sao chăng nữa, bước sang thế kỷ XIX, khái niệm về ý thức phát triển đến độ văn nghệ sĩ có thói quen miêu tả những gì họ tư duy, họ viết sách tự thú hoặc tự truyện. Cuộc đời họ cũng được phơi bày trên trang sách, và người ta còn in thư từ của họ sau khi họ qua đời. Do đó, dù chúng ta không biết Shakespeare nghĩ gì khi ông viết vở kịch Lear , chúng ta lại biết rất rõ Carlyle [40] nghĩ gì khi viết Cách mạng Pháp ; Flaubert [41] nghĩ gì khi viết Bà Bovary ; Keats [42] nghĩ gì khi ông viết những dòng thơ về cái chết đang đến và sự thản nhiên của thế gian.

Và thu góp từ tủ sách văn chương tự truyện hiện đại khổng lồ này để viết một tác phẩm của thiên tài là việc cực kì khó khăn, gần như không làm nổi. Chẳng có gì bảo đảm đấy là tất cả những gì có trong đầu óc nhà văn. Thông thường, nó trái nghịch với những yếu tố vật chất. Chó sẽ sủa; con người không bất tử; phải làm ra tiền; bệnh tật sẽ tới. Thêm nữa, tất cả những khó khăn này còn bị nhân lên bởi sự thản nhiên thường tình của thế gian. Nó không yêu cầu người ta làm thơ, viết tiểu thuyết hay viết sử; nó không cần những điều đó. Nó không cần biết Flaubert có tìm ra từ ngữ đắc địa hay không hoặc Carlyle có cẩn trọng trong việc kiểm chứng dữ kiện này dữ kiện nọ. Nghiễm nhiên, nó sẽ không trả tiền cho cái nó không muốn. Và vì thế, những nhà văn như Keats, Flaubert, Carlyle đã vấp phải, nhất là ở thời tuổi trẻ, tất cả những triệu chứng của sự lệch hướng và nản lòng. Nó là lời nguyền, là tiếng kêu của nỗi thống khổ, vọng lên từ những cuốn sách tự thú. “Những nhà thơ vĩ đại chết cái chết cực kì đau đớn” - đó là hệ lụy phát sinh từ bài ca của họ. Nếu có cái gì từ đó đi ra thì nó phải là phép màu và có lẽ không cuốn sách nào ra đời mà toàn vẹn và không què quặt như khi được thai nghén.

Nhưng đối với người phụ nữ, tôi nghĩ trong lúc nhìn lên kệ sách trống trơn, những khó khăn này còn ghê gớm hơn gấp bội. Đầu tiên là, trước thế kỷ XIX, con gái trong nhà có riêng cho mình căn phòng, một căn phòng bình thường chứ chưa nói đến căn phòng bốn bề yên ả hay có hệ thống cách âm, là điều không thể xảy ra, ngoại trừ trường hợp cha mẹ cô là người giàu có tột bậc hoặc thuộc giai cấp quý tộc. Tiền túi của cô, vốn tuỳ thuộc vào lòng tốt của cha cô, chỉ đủ cho cô may quần áo, chẳng bao giờ cô được hưởng những thú vui hoặc tiện nghi tầm thường như cuộc dạo chơi, chuyến du lịch nước Pháp, hay chỗ ở riêng, một căn hộ tuy lụp xụp nhưng ít ra nó giúp cô thoát khỏi sự phiền nhiễu và chuyên chế của gia đình, Keats hoặc Tennyson hoặc Carlyle đều có điều kiện thực hiện những điều này dù họ chẳng giàu có gì. Khó khăn vật chất ghê gớm nhường thế; nhưng khó khăn phi vật chất còn tồi tệ hơn nhiều. Sự thản nhiên của thế gian mà Keats và Flaubert hoặc những thiên tài khác thấy quá sức chịu đựng trong trường hợp của đàn bà, là sự chống đối đầy gây hấn. Với những người này, thế gian bảo, “Ông muốn viết gì thì viết, nó chẳng thay đổi chúng tôi tí nào”. Nhưng với đàn bà, giọng họ khác hẳn, họ nói với tiếng cười đầy nhạo báng, “Viết lách hả? Văn chương của bà thì có ích lợi gì mà viết? Đây, những nhà tâm lí học của hai trường Newnham và Girton có thể ra lay giúp chúng ta”, tôi nghĩ thế trong lúc lại nhìn lên khoảng trống trên kệ sách. Chắc chắn đã đến lúc, tác động của sự đả phá làm nản lòng người nghệ sĩ sáng tạo phái nữ cần được đo lường, như tôi từng thấy công ti sản xuất sữa đo lường hiệu ứng của sữa thường và sữa loại A lên cơ thể giống chuột. Họ nhốt hai con chuột trong hai cái lồng đặt cạnh nhau, một con thì láo liên, rụt rè và nhỏ bé, còn con kia thì mượt mà, mạnh dạn và to béo. Xin hỏi chúng ta cho những nữ nghệ sĩ ăn uống như thế nào? Vừa hỏi tôi vừa nhớ lại bữa ăn tối với mận khô và bánh sữa. Để trả lời câu hỏi đó, tôi chỉ cần giở trang báo ấn bản buổi tối và đọc quan điểm của Lord Birkenhead [43] - nhưng thật tình tôi chẳng muốn viết và sao chép lại quan điểm về văn chương phái nữ của Lord Birkenhead làm gì. Những gì Dean Inge [44] nói tôi cũng để yên đấy. Và cứ để các chuyên gia của Harley Street bắc loa khua động tiếng dội ầm vang con đường Harley với những điều đao to búa lớn, mà chẳng sợi tóc nào trên đầu tôi dựng đứng cả. Tuy nhiên, tôi sẽ trích dẫn lời ông Oscar Browning [45] , bởi có thời ông là nhân vật lừng lẫy của Đại học Cambridge và ông từng khảo hạch sinh viên hai trường Girton và Newnham. Ông Oscar Browning thường hay phát biểu “ấn tượng để lại trong đầu sau khi ông chấm bất cứ loạt bài dự thi nào là, không cần biết điểm ông cho như thế nào, trí tuệ của cô nữ sinh viên xuất sắc nhất cũng chẳng thể nào vượt qua nổi cậu sinh viên kém cỏi nhất”. Sau khi phát biểu như thế, ông Browning trở về phòng - và đoạn tiếp theo mới là cái khiến ông được thương mến và làm hình tượng con người ông to lớn, đường bệ - ông trở về phòng và bắt gặp gã phu chuồng ngựa nằm dài trên sô pha - “một bộ xương không hơn không kém, hai bên má gã lõm sâu xuống và vàng xạm, răng gã đen, dường như gã không đủ sức cử động tay chân… ‘Đấy là Arthur.’ (Ông Browning nói tiếp) ‘Cậu ấy thật ra là con người dễ thương và có tư tưởng thanh cao nhất.’” Với tôi, hai hình ảnh này luôn luôn bổ sung cho nhau. Và sung sướng thay, ở thời đại viết tiểu sử này thường bao giờ cũng có hai hình ảnh bổ sung lẫn nhau, để từ đó, chúng ta có thể lí giải quan điểm vĩ nhân không hẳn chỉ dựa vào những gì họ nói mà còn là những gì họ làm.

Nhưng dù thời nay điều này tương đối phổ biến, những quan điểm như thế từ các nhân vật lẫy lừng cách đây năm mươi năm có ảnh hưởng thật ghê gớm. Chúng ta hãy giả sử người cha trong gia đình mong muốn con cái mình thành đạt nhưng ông không muốn cô con gái đi xa nhà và trở thành nhà văn, họa sĩ hay học giả. “Con thấy ông Oscar Browning nói gì không?”, ông bảo với con gái như vậy; và không phải chỉ có mình ông Oscar Browning; còn tờ Thứ bảy điểm báo nữa; lại có cả ông Greg - ông này nhấn mạnh, “cốt lõi của bản chất người đàn bà là họ sống nhờ vào sự trợ giúp của đàn ông và họ là kẻ hầu hạ đàn ông.” - có không biết cơ man nào mà kể những quan điểm như thế của nam giới về nữ giới và những quan điểm đó đóng góp vào quan niệm chung, đó là đừng kì vọng điều gì từ trí tuệ người phụ nữ. Ngay cả, nếu ông bố cô gái không đọc to lên những quan điểm này thì chính cô cũng đọc từ đâu đó; thậm chí, sang thế kỷ XIX, sinh lực của cô vẫn bị đè nén và nó ảnh hưởng sâu sắc lên việc làm của cô. Luôn luôn phải vươn lên khẳng định, chống lại và đánh bại định kiến - cô không thể nào làm nổi chuyện đó, cô không có khả năng. Có lẽ, đối với tiểu thuyết gia ngày nay, con vi khuẩn này đã bớt tai hại phần nào; bởi đã xuất hiện những nhà văn nữ xuất sắc. Nhưng với họa sĩ thì chất độc còn nặng; và với nhạc sĩ, theo tôi, ngay cả bây giờ, nó vẫn hoành hành và cực kì độc hại. Nhà soạn nhạc phái nữ ngày nay đứng ở vị trí cô nữ diễn viên sân khấu thời Shakespeare. Nick Greene, các bạn còn nhớ câu chuyện tôi bịa ra về cô em gái Shakespeare chứ, nói là đàn bà diễn xuất trên sân khấu chỉ khiến ông ta liên tưởng đến con chó diễn trò múa may. Hai trăm năm sau, Johnson lập lại câu nói đó khi ông nói về người phụ nữ giảng đạo. Và đây, tôi nói trong lúc lật cuốn sách viết về âm nhạc, chúng ta có dẫn chứng chữ nghĩa, viết vào cái năm 1928 tươi sáng này, về đàn bà muốn trở thành nhà soạn nhạc. “Nói về Germaine Tailleferre [46] , người ta chỉ có thế lặp lại câu nói của tiến sĩ Johnson liên quan đến đàn bà giảng dạo, chỉ cần thế chỗ soạn nhạc với giảng đạo. ‘Thưa ngài, đàn bà mà soạn nhạc thì cũng như con chó đi bằng hai chân sau. Dở lắm, nhưng ngài sẽ phải ngạc nhiên là có chuyện đó có thật [47] ’”. Lịch sử tái diễn chính xác quá đỗi.

Do đó, tôi kết luận, trong lúc khép lại cuộc đời ông Oscar Browning và đẩy tất cả những nhân vật khác vào nơi an nghỉ, điều khá hiển nhiên là sang thế kỷ XIX đàn bà vẫn chưa được khuyến khích chọn lựa nghiệp nghệ sĩ. Ngược lại, cô vẫn bị xem thường, bị tát vào mặt, bị hô hào, bị lên lớp dạy bảo. Đầu óc cô chắc là căng cứng và sinh lực của cô suy sụp vì cứ phải đối phó và minh chứng hết chuyện này đến chuyện kia. Bởi nơi đây, một lần nữa, chứng ta lại bước vào phạm vi của cái mặc cảm nam tính tuy rất thú vị nhưng mù mờ khó hiểu và ảnh hưởng quá nhiều đến phong trào của phụ nữ; đó là nỗi khao khát thâm căn cố đế đàn ông phải vượt trội hơn đàn bà, để bất kì chỗ nào người ta nhìn vào cũng thấy ông ta xuất hiện nơi tiền diện, không những trong nghệ thuật mà cả chính trị, ngay cả khi mối hiểm họa đe dọa ông ta dường như cực nhỏ và kẻ van nài dưới chân ông ta thường tỏ ra vô cùng khiêm tốn, tận tụy hết mình. Thậm chí là, Lady Bessborough, nếu tôi không lầm, với tất cả niềm đam mê chính trị, đã phải khiêm tốn khom mình viết thư cho Lord Granville Leveson-Gower [48] như sau: “… bất chấp tất cả những gì bị xem là quá mạnh tay nơi tôi trong lĩnh vực chính trị và sau khi nói quá nhiều về đề tài đó, tôi vô cùng đồng ý với ngài, chính trị hoặc bất cứ công vụ hệ trọng nào khác không phải là chỗ cho đàn bà dính dáng vào, bà ta chỉ nên phát biểu quan điểm của mình (nếu được hỏi) mà thôi”. Và sau đó bà tiếp tục dốc tâm huyết chuyên chú vào vấn đề cực kì quan trọng mà không gặp trở ngại nào, đó là bài diễn từ mở đầu của Lord Granville trước Thứ dân Nghị viện. Tôi nghĩ cảnh tượng chắc là lạ lùng lắm. Lịch sử đàn ông chống đối giải phóng phụ nữ có lẽ còn thú vị hơn chính tình tiết của cuộc giải phóng đó. Nếu có cô sinh viên trẻ nào của Đại học Girton hoặc Newnham chịu khó đi thu nhặt dẫn chứng và suy luận ra lí thuyết thì có lẽ cô sẽ viết được cuốn sách hay ho, - nhưng cô cần có đôi găng tay thật dầy và những chấn song sắt để bảo vệ khối vàng ròng của cô.

Nhưng cái ngày nay xem là chuyện giải khuây, tôi hồi tưởng trong lúc khép lại Lady Bessborough, có thời là chuyện không đùa tí nào. Những chuyện này, thời nay người ta gộp chung vào cuốn sách dán nhãn cúc cù cu và dành để đọc vào những đêm hè, nhưng có thời nó làm nước mắt tuôn rơi, tôi đảm bảo với các bạn như thế. Bà nội, bà ngoại, cố nội, cố ngoại của các bạn có nhiều người mắt đã đầm lệ. Bà Florence Nightingale [49] cất tiếng kêu hết sức đau đớn [50] . Vả lại, mọi chuyện đến với bạn đều tốt đẹp, các bạn là những sinh viên đại học với căn phòng riêng hẳn hoi - hay chỉ là phòng-ngồi-trên-giường? - các bạn có thể bảo thiên tài không việc gì phải để tâm đến các quan điểm đó; thiên tài đứng cao hơn những điều nói về mình. Chẳng may, chính thiên tài, đàn ông cũng như đàn bà, lại là kẻ quan tâm nhiều nhất đến những gì nói về họ. Các bạn hẳn còn nhớ thi sĩ Keats. Các bạn nhớ lời ông khắc trên bia mộ của mình chứ? Hãy nghĩ đến Tennyson; nghĩ thôi và tôi chẳng cần nhắc lại biết bao bằng chứng hiển nhiên khác cho thấy bản chất của nghệ sĩ là quan tâm quá mức đến những điều nói về mình. Rơi vãi trong văn chương biết bao xác chết những kẻ quan tâm quá mức đến quan điểm của kẻ khác về mình.

Và sự nhạy cảm này là điều chẳng may nhân đôi, tôi nghĩ thế trong lúc trở lại với cuộc tìm kiếm ban đầu của mình, câu hỏi tâm thức nào của nghệ sĩ thuận lợi nhất công việc sáng tạo, bởi để đạt đến nỗ lực phi thường hòng giải phóng toàn thể và toàn bộ tác phẩm trong tim óc, trí tuệ người nghệ sĩ phải cháy sáng, như trí tuệ của Shakespeare chẳng hạn, tôi đoán như thế trong lúc nhìn vào những trang kịch bản Anthony và Cleopatra nằm trước mặt. Không chướng ngại vật nào cản trở nó; không ngoại vật nào không bùng cháy.

Bởi mặc dù, chúng ta bảo chúng ta không biết gì về tâm thức Shakespcare, nhưng chỉ cần nói như thế chúng ta đã nói cái gì đó về tâm thức Shakespeare rồi. Chúng ta biết quá ít về Shakespeare - so với Donne [51] hoặc Ben Jonson [52] hoặc Milton - bởi vì chúng ta chẳng biết tí gì về nội tâm ông; ông oán giận chuyện gì hoặc thù oán, ác cảm với ai, tất cả đều ẩn trong bóng tối. Chúng ta không vén lên được đôi điều “tiết lộ” về tác giả. Tất cả những khát vọng được phản đối, rao giảng, giải bày nỗi thương đau, đền ơn trả oán, biến thế gian thành nhân chứng cho nỗi khổ sở muộn phiền hay nỗi bất bình nào để từ con người ông bùng cháy mãnh liệt và thẩm thấu vào tác phẩm. Bởi thế, thơ của ông tuôn chảy lai láng, không gì cản được. Nếu có người nào biểu hiện một cách toàn vẹn trong tác phẩm của mình, người đó phải là Shakespeare. Một trí tuệ cháy sáng, thông suốt, tôi nghĩ trong lúc nhìn lên kệ sách, đó là trí tuệ của Shakespeare.