← Quay lại trang sách

Chương 2

Thời gian đó, tôi gặp khó khăn về tiền bạc.

Nói như vậy nghe chẳng giống một học sinh tiểu học tí nào, nhưng đây quả không phải lời bông đùa hay thổi phồng, sự thực đúng là như vậy. Kỳ thực tôi đã mê mệt một thứ và tiêu gần hết chỗ tiền tiêu vặt ít ỏi của mình vào nó. Vì nó mà tới hàng bánh kẹo tôi còn chẳng ghé qua được nữa.

Thứ mà tôi say mê là trò cờ vây. Đó cũng là trò tôi học được nhờ Kuramochi rủ rê. Tất nhiên là tôi đã biết chơi cờ vây từ trước. Điều mà hắn dạy tôi, là cách để kiếm thêm tiền tiêu vặt nhờ trò này.

Hắn dẫn tôi tới một khu dân cư nằm cạnh một dòng sông. Những ngôi nhà nhỏ lợp mái tôn nằm túm tụm lại một khu. Điểm đến của chúng tôi là một trong những ngôi nhà ấy. Tại lối ra vào của một nơi quá tồi tàn để được coi là thềm nhà, có một cánh cửa đã hỏng bản lề. Để bước vào trong, tới mấy đứa tiểu học chúng tôi cũng phải cẩn thận để tránh va đầu.

Chỗ chúng tôi bước vào là nền xi măng, trên đó đặt một chiếc bàn nhỏ và hai chiếc ghế đối diện nhau. Ở trên bàn đặt một bàn cờ. Trên tường đính một mảnh giấy giải thích luật chơi cờ vây.

Kuramochi vừa mới cất tiếng gọi, cánh cửa trượt liền trượt sang một bên và một người đàn ông xuất hiện. Ông ta vận quần bảo hộ và khoác bên ngoài áo cộc tay một tấm áo bông hoen ố. Trong mắt tôi ông ta trông khá già, nhưng giờ nghĩ lại có lẽ cũng chỉ ngoài ba mươi. Mái tóc vốn húi cua đã dài ra đáng kể.

Kuramochi đưa ra hai đồng xu một trăm yên, người đàn ông liền đặt chúng lên mặt bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế phía đối diện. Sau đó ông ta lôi những quân cờ từ dưới gầm bàn lên. Kuramochi ngồi xuống chiếc ghế trước mặt mình.

Không ai bảo ai, ván cờ vây bắt đầu. Kuramochi đi trước. Tôi đứng chếch sau lưng hắn và chăm chú theo dõi ván cờ.

Người đàn ông dễ dàng thắng ván đầu tiên. Do Kuramochi giữa chừng đã mắc phải lỗi nghiêm trọng. Mặc dù tôi đã để ý thấy lỗi ấy, song tôi không thể chỉ cho hắn. Bởi tờ giấy dán trên tường đề rằng “Xen vào trận đấu, phạt một trăm yên”.

Ván thứ hai là một trận tỉ thí ra trò. Cả Kuramochi lẫn người đàn ông kia đều không mắc bất cứ lỗi nào. Cuối cùng Kuramochi đã đi một nước cờ tài tình và giành chiến thắng. Người đàn ông khẽ thốt lên “Bị nhóc chơi một vố rồi”. Đây là lần duy nhất ông ta lên tiếng trong suốt ván cờ.

Tiếp đến là ván thứ ba. Đây lại là một trận so tài vô cùng phức tạp. Dù vậy kết cục phần thắng đã nghiêng về phía người đàn ông. Kuramochi tặc lưỡi.

“Tajima cũng chơi thử coi. Nghe chừng mày sẽ có cơ thắng đó.”

Theo như lời hắn, người chơi sẽ bỏ ra hai trăm yên và đấu với người đàn ông ba ván, nếu thắng hai thì sẽ nhận được năm trăm yên. Chưa hết, nếu thắng hai ván liên tiếp thì sẽ nhận được một nghìn yên. Đối với một học sinh tiểu học thuở ấy thì một nghìn yên là một khối tài sản kếch xù.

Tôi đắn đo một chút, nhưng rồi quyết định sẽ chơi thử. Sau khi trả hai trăm yên cho người đàn ông, tôi ngồi xuống ghế thế chỗ cho Kuramochi. Tôi khá tự tin với trò cờ vây. Nhìn Kuramochi chơi, tôi đã rút ra kết luận rằng người đàn ông này cũng không giỏi lắm.

Ván đầu tiên là tôi thắng. Thắng dễ đến bất ngờ nên tôi hơi chưng hửng. Kuramochi đứng cạnh vỗ tay.

“Ái chà, mày sẽ kiếm được một nghìn yên đó.”

Tôi thừa thắng xông lên. Trình độ của ông ta như vậy thì còn gà lắm. Chưa gì tôi đã mường tượng ra trong đầu xem sẽ tiêu một nghìn yên như thế nào.

Tuy nhiên sang ván thứ hai, người đàn ông bắt đầu thay đổi chiến thuật một chút. Tôi lúng túng rồi vô tình phạm phải sai lầm, kết quả là không thắng được hai ván liên tiếp. Kuramochi giậm chân đành đạch tỏ vẻ nuối tiếc.

“Phí quá đi. Chơi cẩn thận vào.”

Đương nhiên là tôi đã chơi ván thứ ba một cách thận trọng. Nếu để thua ở đây thì đừng nói một nghìn yên, đến số tiền hai trăm yên cũng không lấy lại được.

Song, một chút phán đoán sai lầm đã khiến tôi vuột mất chiến thắng. Không xem trọng đối thủ lắm nên tôi càng bực bội và nuối tiếc.

Ngày hôm đó tổng cộng tôi đã tiêu sáu trăm yên. Tức là tôi đã đấu thêm hai lần nữa. Nhưng kết quả vẫn không thay đổi. Ván nào tôi cũng chiếm thế thượng phong, mà rồi cuối cùng lại bị lật ngược thế cờ. Bản thân tôi cũng chẳng rõ vì sao mình không thể thắng.

Kể từ hôm ấy cứ cách hai, ba ngày tôi lại đi chơi cờ ăn tiền. Nếu hoàn toàn không thấy có khả năng thắng thì không nói làm gì, nhưng có vô số lần tôi đã tiến gần đến chiến thắng, nói đúng ra là hầu như không có lần nào tôi để đối thủ thắng dễ dàng cả, nên tôi nghĩ rồi có lúc mình sẽ giành được chiến thắng thôi. Trò này còn thu hút tôi ở điểm là khi thắng hai ván liên tiếp, tôi sẽ nhận được một nghìn yên. Khu chơi game và trò vớt cá vàng cũng vui đấy, nhưng dù có chơi giỏi tới cỡ nào cũng không sinh lời được. Mức độ hấp dẫn giữa chúng cách nhau một trời một vực.

Đó là lý do tôi cần tiền tiêu vặt. Dẫu vậy, tôi đâu thể nói ra tôi tiêu tiền vào cái gì, đâm nào dám vòi tiền bố mẹ. Cho nên chỗ tôi có thể xin tiền chỉ có một. Và thế là, hôm đấy, trong lúc mọi người còn chưa dậy, tôi đã đi tới gian phụ nơi bà nằm ngủ.

Gạt mở cánh cửa dính vết gì đó hoen ố, tôi cất tiếng véo von gọi “Bà ơiiiii”.

Bà đang nhắm mắt. Miệng bà hé một nửa. Trong phòng, như thường lệ, hôi mùi ẩm mốc và lạnh hơn bình thường. Cho tới khi tôi mở cửa, dường như bầu không khí trong căn phòng đã hoàn toàn trở nên tĩnh lặng.

“Bà ơi,” tôi gọi thêm lần nữa. Tôi không dám lớn tiếng. Kẻo bị ai nghe thấy thì khốn. Đặc biệt là mẹ tôi.

Bà không phản ứng gì. Tới mí mắt cũng không thấy nhúc nhích. Tôi đóng cửa lại rồi lồm cồm bò đến bên chăn. Người bà tỏa ra mùi hôi của người già như mọi khi.

Đồ rằng bà đang say ngủ, tôi thử đặt tay lên chăn và lay người bà. Cơ thể bà chỉ khẽ lay động như một con búp bê. Nó lạnh như đá và cứng đờ.

Bình thường bà lúc nào cũng ngáy rõ to. Thế nhưng từ cái miệng đang há một nửa kia, đừng nói tiếng ngáy mà tới hơi thở cũng không có.

Có lẽ bà đã chết, tôi nghĩ như thế.

Cho tới thời điểm đó tôi chưa từng chứng kiến cái chết của con người, tôi không dám chắc liệu đây có phải là trạng thái khi một ai đó chết hay không. Xác chết của chó, mèo, hay sâu bọ thì tôi đã thấy qua nhiều lần, song cái chết của chúng đối với tôi mà nói chỉ giống như chuyện một món đồ chơi bị hỏng. Dù lý trí hiểu rõ rằng việc tương tự cũng xảy ra với con người, nhưng chưa bao giờ tôi dùng cảm xúc để suy nghĩ về nó.

Bà đã thực sự chết hay chưa, tôi quyết định sẽ không đào sâu thêm nữa. Điều quan trọng là có vẻ như bà không có chút cử động gì, chỉ vậy mà thôi. Nói cách khác, đây là cơ hội ngàn năm có một để tôi thó tiền tiêu vặt.

Phải hành động thật nhanh kẻo bị mẹ phát hiện mất... Tôi rón rén vén chăn, để rồi nhìn thấy cơ thể gầy gò của bà. Phần ngực áo bị banh ra, để lộ bộ ngực nổi gân xanh. Mùi hôi thối tôi ghét càng thêm phần nồng nặc.

Tôi tiếp tục vén chăn. Ngay lập tức tôi tìm thấy thứ cần tìm. Bà đang nắm chặt thứ ấy trong bàn tay để trên bụng. Chiếc búa nhỏ cầu may được móc vào chiếc ví ló ra từ kẽ hở giữa những ngón tay gầy guộc như những cành củi khô.

Tôi cố lấy chiếc ví trong khi tránh nhìn vào mặt bà. Nhưng những ngón tay của bà bám khư khư vào nó. Ngay cả khi tôi cố kéo chúng cũng không hề suy suyển. Thấy bà chẳng phản ứng gì, tôi còn nghĩ có khi bà hẵng còn sống và đang nhất quyết không chịu đưa ví cho tôi.

Nhưng tôi không thể bỏ cuộc lúc này được. Dù có phải động tay động chân cũng phải cướp cho bằng được. Tôi tách từng ngón tay đang bám trên chiếc ví của bà bằng cả hai tay. Những ngón tay ấy không hề mềm mại, hơn nữa còn rất lạnh. Cảm giác như tôi đang chạm vào những khối đất nặn phơi chưa khô hẳn vậy.

Vật lộn một hồi tôi cũng lấy được chiếc ví và mở ra kiểm tra. Bên trong có mấy tờ tiền in hình Ito Hirobumi [1] và Iwakura Tomomi [2] . Có cả tờ in hình Thánh Đức Thái Tử [3] . Tôi như mở cờ trong bụng. Lần cuối tôi có trong tay bộn tiền như thế là từ đợt được họ hàng lì xì đầu năm.

Đạt được mục đích rồi, tôi cũng chẳng còn việc gì ở phòng bà nữa. Đắp chăn lại như cũ xong, tôi đứng lên. Tôi đã cố không nhìn nhưng trong một khắc, khuôn mặt bà vẫn lọt vào tầm nhìn của tôi. Tôi giật mình kinh hãi.

Tôi có cảm tưởng như mắt bà vừa mới mở. Chưa hết, trông bà còn như đang trợn trừng mắt nhìn thằng cháu vừa cướp ví của mình.

Tôi không có đủ dũng khí để kiểm tra. Đột nhiên cơn sợ hãi ập đến. Tôi rời khỏi tấm đệm như một con rô bốt bị hỏng bánh răng cưa. Tưởng như bà sẽ cất tiếng nói chuyện với tôi bất cứ lúc nào. Sau khi cẩn thận ra khỏi phòng mà cố không gây ra tiếng động, tôi rời đi như thể chạy trốn.

Một tiếng sau khi tôi ra tay, ai đó cuối cùng cũng phát hiện ra là bà đã chết và chuyện lúc ấy mới ầm ĩ lên.

Vị bác sĩ tên Nishiyama - hàng xóm và cũng là bạn chơi mạt chược của bố tôi - tới nhà và khám cho bà tôi. Dù rất muốn xem tình hình song cô Tomi đã ngăn tôi lại, rút cục tôi chẳng thể bước vào trong.

Chuyện bà chết đã rõ mười mươi, vậy mà mãi vẫn không thấy bác sĩ Nishiyama ra khỏi phòng. Bố mẹ tôi cũng ở trong phòng và dường như họ đang trao đổi gì đó với nhau.

Lễ canh linh cữu được tổ chức vào đêm hôm đó. Ngày hôm ấy quả thực rất bận rộn. Tới buổi chiều, không chỉ họ hàng mà hàng xóm cũng đổ xô tới nhà và bắt đầu sắp xếp nhà tôi thành nơi tổ chức cúng lễ. Một bàn thờ được sắp lên ở gian thờ Phật, quan tài cũng được đặt ở đó.

Nhưng đến mãi mãi sau này tôi vẫn chẳng hay biết vì sao bà lại chết. Từ cuộc chuyện trò của mấy người họ hàng, tôi nghe lỏm được cụm từ “già yếu”.

Tôi hỏi cậu - em trai ruột của mẹ tôi - ý nghĩa của cụm từ này. Cậu giải thích cho tôi một cách dễ hiểu rằng:

“Chắc cháu cũng có mấy mô hình nhựa chạy bằng mô tơ nhỉ? Như kiểu mấy mô hình Thunderbird ấy. Để cái mô hình đó chạy thì cần phải có pin. Nhưng nếu cứ bắt nó chạy suốt thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nó sẽ dừng lại đúng không? Cháu có biết vì sao không?”

“Vì hết pin chứ sao nữa ạ.”

“Đúng rồi. Rút cục thì con người cũng giống những mô hình đó thôi. Dù không hỏng nhưng nếu một lúc nào đó hết pin thì sẽ dừng lại. Đó chính là già yếu. Có điều, khác với mô hình, con người thì không thể thay pin mới.”

Tức, con người rút cục cũng chỉ là máy móc mà thôi, tôi nghĩ bụng. Vậy là việc bác sĩ chữa bệnh cũng giống như sửa sang máy móc. Nghĩ thế, tôi kết luận chết chẳng phải là việc gì quá to tát. Chỉ là bị hỏng nhưng không thể sửa về như cũ mà thôi.

Theo tôi thấy lễ canh linh cữu giống một buổi hội họp thì đúng hơn là một nghi lễ tiếc thương người đã khuất. Những chiếc bàn dài không biết từ đâu được xếp ra, trên mặt bàn bày một loạt món ăn đặt từ cửa tiệm gần nhà. Một đống người cứ luân phiên đi ra đi vào rồi gắp thức ăn trên bàn. Hình như nhà tôi cũng đã chuẩn bị rất nhiều bia và rượu. Trong số những khách tới viếng, có người còn ngồi bệt ở phòng khách và say tới độ ngọng líu ngọng lô. Một vài người đứng gần buông lời ác ý rằng ông này lúc nào cũng bí tỉ như thế.

Không chỉ người chủ trì nghi lễ là bố tôi mà người phụ trách tiếp khách là mẹ tôi cũng vô cùng bận rộn. Các vị khách gửi lời chia buồn tới bố mẹ tôi, và để đáp lại bố mẹ tôi nói lời cảm ơn họ với vẻ mặt như thể đang đau buồn từ tận tâm can. Nhưng cũng vẫn là người mẹ đó lại bảo với họ hàng bên ngoại nhà tôi rằng, “cuối cùng cũng nhẹ nhõm được một phần” rồi nháy mắt ra ám hiệu. Đối phương gật đầu cùng vẻ mặt như đã đón được ý của mẹ tôi.

Ngày hôm sau, tang lễ được cử hành. Người tới đám tang còn đông hơn tối hôm trước.

Với tôi mà nói, đây là một buổi lễ chán ngắt. Được nghỉ học là điều duy nhất khiến tôi vui. Thế nhưng khi vừa kìm nén cơn ngáp vừa ngồi nghe nhà sư tụng kinh, tôi lại thầm nghĩ thế này thì thà đi học còn hơn.

Trước khi đưa quan tài tới nơi hỏa táng, một người đàn ông vận đồ đen bảo mọi người hãy nói lời từ biệt với người đã khuất. Tôi không biết người đàn ông lạ mặt đó. Ông ta hình như là người của công ty tổ chức tang lễ.

Mọi người luân phiên đặt hoa vào bên trong quan tài. Vài người đang khóc.

“Kazuyuki, con cũng tới từ biệt bà đi.” Bố bảo tôi.

Tôi bước một, hai bước gần tới quan tài. Chóp mũi bà lấp ló lộ ra.

Đúng vào khoảnh khắc đó, một nỗi sợ hãi và căm ghét khó tả choán lấy tôi. Tôi đứng khựng lại, rồi giật lùi về phía sau.

“Không,” tôi hét lên. “Không, không, con không thích.”

Mọi người xung quanh hoảng hốt trước phản ứng của tôi. Đặc biệt là bố mẹ tôi. Hai người mỗi người tóm một bên tay tôi và bắt tôi đứng trước quan tài.

“Không chịu đâu, tởm lắm.”

Tôi cố giằng tay ra khỏi bố mẹ. Nhưng, bố đã giáng cho tôi một cái tát vào má.

“Đừng có mà bố láo bố toét. Mau lên, đặt hoa vào quan tài.”

Bố bắt tôi phải cầm hoa và đặt vào trong quan tài. Lúc đó, tôi đã nhìn thấy mặt của bà. Người bà trông như bộ xương của tôi mang vẻ mặt như đang mỉm cười. Nụ cười của bà càng làm tôi run rẩy.

Xung quanh bà không còn cái mùi hôi thối tôi ghét, mà phảng phất hương hoa. Vậy nhưng khoảnh khắc ngửi được mùi hương đó, một cơn buồn nôn dữ dội khiến tôi xây xẩm.

Tôi đã lùi ra xa khỏi cỗ quan tài như tên bắn. Bố gầm lên gì đó nhưng tôi không nghe thấy. Tôi nôn thốc nên tháo ngay tại chỗ. Dưới chân tôi chẳng mấy chốc nhuốm đầy sắc cam bởi trước đó tôi đã uống nước cam.

Mãi đến khi đợi ở nhà hỏa táng tôi mới bình tĩnh trở lại. Không có anh chị em họ trạc tuổi mình, tôi lơ đãng đứng nhìn mấy người lớn. Bố đã lệnh cho mẹ không được cho tôi ăn uống quá nhiều cho tới lúc ra về, thành thử tôi chẳng thể nào động đến chỗ bánh kẹo. Dù sao tôi cũng chẳng thèm ăn đến thế.

Tại sao bản thân lại trở nên hoảng loạn đến vậy, chính tôi cũng không biết nữa. Mới hôm trước tôi còn kết luận rằng con người rút cục cũng chỉ là máy móc sau khi nghe cậu giải thích. Chết có nghĩa là bị hỏng. Nói cách khác, xác chết chỉ là một đồ vật không hơn không kém. Vậy mà sao...

Người lớn đang vừa uống rượu và trà vừa trò chuyện. Thật lạ là vẫn có không ít người đang cười. Mẹ tôi không cười, nhưng nét mặt mẹ trông tràn đầy sức sống hơn mọi khi. Kể cả bố trông cũng có vài phần nhẹ nhõm. Vừa quan sát tôi vừa chắc mẩm, hẳn người lớn thừa biết rằng xác chết chỉ đơn thuần là một cỗ máy hỏng không hơn không kém.

Lễ hỏa táng có lẽ đã kéo dài khoảng một giờ đồng hồ. Tôi bị dẫn ra chỗ nhặt xương. Bố mẹ dường như lo sợ tôi lại la lối om sòm như ban nãy, nhưng họ chỉ lo bò trắng răng. Nhìn những mảnh xương nom như những mẩu rác, tôi chỉ nghĩ, “Dào ôi, có vậy thôi hả?” Một cái xác trông đáng sợ là vậy, nhưng thiêu đi rồi thì hầu như chẳng còn gì sót lại. Cả việc tôi đã lấy trộm ví tiền của bà cũng sẽ chẳng bị ai biết.

Chết quả là một chuyện đơn giản - tôi đã nghĩ như vậy đấy.

Từ sau hôm hỏa táng, cô Tomi không còn đến nhà tôi nữa. Cô ấy được thuê để săn sóc bà, nên chuyện thành ra như thế cũng là đương nhiên thôi.

Cô Tomi luôn đặt mấy lọ gia vị hay dụng cụ bếp ở những chỗ cố định để tiện sử dụng, song sự sắp đặt của cô hình như không vừa ý mẹ tôi cho lắm. Một lần nọ, mẹ đã một mình sắp xếp lại toàn bộ. Chắc hẳn mẹ phải muốn thay mới toàn bộ lắm nên mới ném hết cả mấy cái hộp vẫn còn đường rồi muối bên trong vào thùng rác như vậy.

Vào ngày cúng thất tuần đầu tiên, những người họ hàng lại lũ lượt kéo đến nhà tôi. Ngày hôm đó đã thực sự trở thành một buổi tiệc tùng. Có lẽ do chung quanh toàn người thân thích nên đã có không ít kẻ quên mất cả câu nệ, để rồi vui vẻ quá đà.

Họ hàng của bố và của mẹ, ngoài mặt thì tỏ ra thân thiết, nhưng đến đứa trẻ con như tôi cũng nhận ra rằng thực chất quan hệ giữa hai bên không hề tốt đẹp. Nhất là mấy bà bác bên bố, họ dường như không mấy vui vẻ với việc tài sản trong căn nhà này giờ đây đã thuộc quyền kiểm soát của mẹ tôi.

“Giờ cô Mineko có thể xây lại nhà theo ý thích rồi. Từ xưa cô ấy đã suốt ngày kêu ca là ghét căn nhà cũ này, cuối cùng thì giấc mơ cũng thành hiện thực nhé,” em gái của bà tôi bĩu môi nói. Bà ấy đang buôn chuyện với mấy cô em họ của bố tôi. Không rõ vì lý do gì nhưng trong gia tộc Tajima, nữ giới đông áp đảo luôn.

“Hóa ra từ đó tới giờ Mineko vẫn luôn nín nhịn sao?”

“Đúng rồi đó. Vì chị ấy không cho phép mà. Gì thì gì hồi đấy căn nhà này vẫn đang đứng tên chị ấy.”

“Ồ vậy ư?” Những người phụ nữ còn lại thốt lên.

Tôi có thể nghe lỏm đoạn hội thoại của họ là vì tôi đang giả vờ đọc truyện tranh ở hành lang đi ra hiên nhà được ngăn cách với bên trong bởi một tấm vách. Từ vị trí của họ không thể nhìn thấy tôi.

“Nhưng mà, chắc chị Mineko đang mừng không chỉ vì chuyện căn nhà thôi đâu. Có vẻ như chị ta với bác từng có rất nhiều xung đột.” Một cô em họ của bố nói.

“À ừ, chắc là vậy đấy.” Một người khác hưởng ứng đầy ẩn ý.

“Hồi bác còn khỏe mạnh, nghe nói bác ấy cũng có phần nghiêm khắc với chị Mineko.”

“Có nghiêm khắc gì đâu. Đối với chúng ta là bình thường thôi à. Giá như chị ấy có một cô con dâu giỏi giang hơn thì đã sống thọ hơn rồi. Chị ấy hay đổ tại Mineko mà tuổi thọ của mình mới bị giảm đi như thế.”

“Có thể lắm chứ. Bác đã bị nhốt trong căn phòng từng là phòng uống trà đó mà, không phải sao? Cứ ở rịt trong căn phòng không có chút ánh nắng nào như thế thì bảo sao bệnh tình không hề thuyên giảm.”

“Hơn nữa nói về chuyện chăm sóc cho bác, gần đây chị ta có động vào tí nào đâu. Nghe nói chị ta thuê một người giúp việc và đẩy cho người đó làm hết còn gì.”

“Ngay cả người giúp việc đó cũng chả tốt lành gì,” em gái của bà nói. “Nghe nói cô ta chậm chạp và luộm thuộm lắm. Chị ấy còn chê cơm cô ta nấu cũng dở tệ, phải cố lắm mới nuốt trôi được.”

Những người phụ nữ đồng thanh than vãn.

“Vậy có khác nào bác bị chị Mineko giết đâu.”

Ai đó trong số họ nói, ngay lập tức tất cả im lặng.

“Ây da, nhưng nói thế thì hơi quá rồi.” Một người khác nói nhằm xoa dịu bầu không khí. Thế nhưng trong giọng nói đó lại ẩn chứa sự thích thú.

“Không, bác nghĩ như vậy đấy.” Bà dì nói, không có vẻ gì là đang đùa. “Chị ấy đã bị cô ta giết hại. Mặc dù không rõ là cố ý hay không thôi.”

Nhưng tới đó thì chừng như mọi người không dám hưởng ứng một cách bừa bãi nữa. Không ai nói một lời nào.

Tôi vẫn còn nhớ rõ đoạn hội thoại khi ấy bởi trong đó xuất hiện từ khóa “bị giết hại”. Mặc dù đã khá quen với khái niệm “sát nhân” trong những bộ phim truyền hình, tôi chưa từng nghe ai đó nhắc đến từ này ngoài đời thực cả.

Với tâm trí của một đứa trẻ tôi cũng đoán ra được chuyện mẹ đã luôn mong chờ bà chết. Song tôi không nhận ra chính vì vậy mà mẹ nhốt bà trong căn phòng tồi tàn ấy hay cố tình thuê một người giúp việc kém cỏi.

Cái nhìn của tôi về mẹ đã thay đổi một chút kể từ lúc đó.

Một phần là do ai nấy đều bận rộn sau cái chết của bà mà hầu như nhà tôi chẳng mấy khi ăn cơm đủ thành viên. Bố mẹ tôi thì toàn nói chuyện xoay quanh vấn đề người nào ở đâu viếng bao nhiêu tiền, quà đáp lễ nên làm thế nào. Từ miệng hai người chẳng có lấy một chữ nào tỏ lòng tiếc thương cho cái chết của bà cả.

Kể cả sau khi đã tổ chức xong lễ cầu siêu, tình hình cũng không thay đổi là bao. Phòng khám sau một thời gian nghỉ đã mở cửa trở lại, bố và mẹ cũng quay về guồng công việc bận rộn như xưa.

Cơm nước giờ do mẹ tôi nấu, nhưng đồ ăn không ngon bằng của cô Tomi. Nói cách khác mẹ toàn nấu những món ăn đơn giản. Nhưng bố không tỏ ra bất mãn gì nên tôi cũng không dám phàn nàn. Bố tôi răn rằng phàn nàn về thức ăn là xấu tính, là đòi hỏi quá mức. Vào thời đó, chắc gia đình nào cũng dạy con như vậy.

Mỗi lần ăn cơm mẹ nấu tôi luôn lấy làm lạ. Theo như lời bà dì, bà nội tôi từng hay chê thức ăn của cô Tomi khó nuốt. Thế nhưng tôi thì chưa bao giờ nghĩ như vậy. Cả bố tôi lúc nào cũng khen ngon.

Tôi nghĩ có lẽ bà mới là người đòi hỏi.

Trong lúc ăn cơm bố mẹ cũng trở nên kiệm lời. Họ chỉ trao đổi vài câu ngắn ngủi về chuyện chi tiêu của phòng khám mà thôi. Sau cái chết của bà, bố tôi đặc biệt hiếm khi nở nụ cười. Ông cũng không chơi cùng tôi nữa. Lúc nào trông ông cũng có vẻ như đang suy tư điều gì đó.

Đúng vào thời điểm ấy, một tin đồn kỳ quái bắt đầu râm ran.

Chuyện xảy ra trên đường tôi từ trường về nhà. Khi tôi đang đi một mình, bỗng từ sau lưng có tiếng gọi. Tôi quay lại thì thấy ba đứa học sinh lớp sáu đang đi về phía mình. Một đứa trong số đó là con trai của xưởng đúc sắt thép gần nhà tôi. Thân hình nó to như hộ pháp và khuôn mặt già dặn như người lớn. Ở trường nó sắm vai một kẻ cầm trịch.

Kẻ cầm trịch đang nhe răng cười một cách ám muội. Tới trước mặt tôi, nó nhìn xuống tỏ vẻ khinh thường.

“Nghe nói bà nội mày bị giết.” Nó lên tiếng. Hai đứa còn lại nhìn tôi với vẻ mặt thích thú. Đứa nào cũng đang cười.

“Không phải đâu.” Tôi đáp. Chọc điên bọn lớp trên thì dễ bị ăn đòn lắm, giọng tôi có chút run rẩy.

“Mày định lừa ai? Chính tai tao nghe được là bà già ở nhà nha sĩ đã chết vì ngày nào cũng bị cho uống thuốc độc.”

“Làm gì có chuyện đấy.”

Nghe tôi gắt lên như vậy, ba đứa kia cười phá lên khoái trá. “Ui sợ quá kìa, trêu nó vừa thôi kéo nó bỏ độc vào đồ ăn trưa của mình đấy,” thằng đàn em số một nói.

“Ừ ha. Ghê quá ghê quá.”

Thằng con trai xưởng đúc sắt thép cùng hai tên đàn em rời đi. Chúng quay lại nhìn tôi vài lần rồi lại thì thầm vào tai nhau cái gì đó.

Ngày hôm sau dường như tin đồn này đã tới tai cả bọn lớp tôi. Mặc dù những đứa kia không nói gì, nhưng Kuramochi đã báo cho tôi biết.

“Nhưng mà không phải thật đâu đúng không?” Hắn hạ giọng hỏi.

“Ừm. Tất nhiên là không phải thật rồi. Bà tao chết vì già yếu mà.”

“Ra là thế. Già yếu tức là chết mà không có nguyên nhân đặc biệt phải không?”

“Tới tuổi thôi. Giống như hết pin í.”

“Nhưng mà,” hắn ghé miệng vào tai tôi. “Khi một người già chết mà không biết được tên bệnh, bác sĩ sẽ cho là chết già để đỡ phiền phức đó.”

“Nếu chết do thuốc độc, làm sao qua mắt được bác sĩ chứ?”

“Vậy mà lại được đấy, hình như mấy vị bác sĩ không rành lắm về độc đâu. Bởi làm gì có nhiều bệnh nhân chết vì độc, nên có vẻ nhiều bác sĩ không có nhiều kinh nghiệm khám chữa.”

“Không phải. Chuyện không phải như thế.”

Thấy tôi nổi cáu thực sự, Kuramochi không hỏi thêm gì nữa.

Khi ấy, tôi vẫn tưởng lời đồn đó chỉ có bọn trẻ con rỉ tai nhau. Thật chẳng ngờ nó lại lan xa đến vậy.

Bà chủ tiệm bánh gần nhà tôi vốn nổi tiếng vì tính cách hiền hòa, thân thiện, ấy vậy mà hễ tôi đứng trước tủ kính, nét mặt bà lập tức trở nên lúng túng. Rồi bà nở một nụ cười gượng gạo và bảo tôi rằng, “Hình như hôm nay không có món bánh ưa thích của cháu rồi Kazuyuki à.” Rõ ràng là bà ấy muốn đuổi khéo tôi.

Không chỉ bà chủ tiệm bánh, bất cứ ai chạm mặt tôi mắt đều ánh lên nét khó xử. Ban đầu tôi cho rằng do mình tưởng tượng, nhưng Kuramochi đã chỉ cho tôi biết rằng không phải vậy.

“Mẹ của tao cũng biết về lời đồn rồi.” Lúc ở trường hắn khẽ thì thầm.

Tôi chẳng hiểu nổi tại sao lời đồn ấy lại lan rộng đến thế.

“Mọi người đã nghe chuyện từ miệng ai vậy?”

Trước câu hỏi của tôi, Kuramochi nghiêng đầu hoài nghi.

“Tao nghe từ mấy thằng lớp khác. Mẹ tao thì hình như nghe từ một người mua hàng.”

Lời nói của hắn khiến cõi lòng tôi trở nên u ám. Hình ảnh một bà nội trợ thích tám chuyện đang hồ hởi đi khắp nơi loan tin hiện ra trước mắt tôi.

Tôi nghĩ là bố mẹ tôi đương nhiên đã biết chuyện. Song hai người không hề trao đổi gì về chuyện này. Có lẽ họ tránh nói về nó trước mặt tôi.

Cả bố lẫn mẹ trông đều bực bội. Bệnh nhân tới phòng khám dường như đã giảm đi trông thấy. Nguyên nhân chắc hẳn có liên quan tới lời đồn kia.

Không lâu sau đó, phía cảnh sát phái người tới nhà tôi. Khi tôi từ trường về nhà đã thấy có hai đôi giày lạ để ở lối ra vào. Từ ngoài hành lang, tôi trông thấy hai người đàn ông đang nói chuyện với bố mẹ tôi trong phòng khách. Một người mặc đồng phục còn người còn lại mặc thường phục. Vị mặc đồng phục trông khá quen. Ông ấy thường đứng canh ở đồn cảnh sát trước nhà ga.

“Ấy không, không phải là chúng tôi đang nghi ngờ anh chị. Chúng tôi chỉ là đang hỏi xem liệu anh chị có biết gì đó về lời đồn kia không thôi.” Người đang nói là vị cảnh sát mặc đồng phục. “Bình thường thì cảnh sát sẽ không can thiệp nếu chuyện chỉ dừng ở mức đồn thổi, nhưng do nội dung khá nghiêm trọng nên phía chúng tôi mới mời thêm cả cảnh sát điều tra tới đây.”

“Chúng tôi làm sao mà biết gì được. Rõ ràng là một lời đồn vô căn cứ. Chúng tôi đang rất muốn biết ai là kẻ đầu têu ra lời đồn này đây.” Là giọng của bố. Hiếm khi nào giọng ông gay gắt như lúc này.

“Các anh thực sự đang làm phiền nhà chúng tôi đấy, mẹ tôi ngồi bên cạnh đế thêm.

“Ý tôi là đây cũng có thể chỉ là một trò quấy rối...”

“Chính xác là một trò quấy rối đấy.” Bố cướp lời vị cảnh sát. “Lại còn rất hiểm ác.”

“Vậy anh chị có chút manh mối nào về người có khả năng bày ra trò này không?”

“Nói sao nhỉ? Con người vốn là loài sẽ đem lòng ganh ghét người khác chỉ vì một chuyện chẳng ai ngờ tới, nên biết đâu cũng có kẻ muốn phá đám một nha sĩ không chừng.”

“Chúng tôi sẽ tuyệt đối giữ bí mật, vì vậy liệu anh có thể cung cấp cho chúng tôi tên của người anh đang nghi ngờ không?”

“Ừm, không được.” Bố tôi lầm bầm đầy giận dữ. “Các anh nói thế nhưng kiểu gì cũng bị lộ ra thôi.”

“Không, chúng tôi nhất định sẽ bảo lưu thông tin thật cẩn mật.”.

“Thay vì thế sao các anh không thử đi hỏi từng người đã nghe được lời đồn này? Dò hỏi một hồi thể nào chẳng lần ra được kẻ đầu têu?”

“Khổ nỗi tin tức hiện nay đang vô cùng rối rắm, nên chúng tôi khó lòng khoanh vùng nguồn gốc của chúng. Trong số ấy còn có người không chịu cho chúng tôi biết mình đã nghe từ ai.”

“Thật đúng là tai ương mà. Kẻ nào đã nói ra mấy lời nhảm nhí này chứ?” Bố tôi thở dài thườn thượt. “Nếu ai đó thấy các anh rời khỏi nhà chúng tôi, chắc người ta sẽ lại đồn ầm lên là cuối cùng cảnh sát cũng đã tới điều tra cho mà coi.”

“Ấy không, khi ra về chúng tôi sẽ chú ý.” Vị mặc đồng phục vội vã nói.

Viên cảnh sát, người đã im lặng suốt cả buổi, cuối cùng cũng cất tiếng.

“Thạch tín có gợi ra cho anh điều gì không?”

“Thạch tín?”

“Đúng vậy. Anh chị có dùng thạch tín vào việc gì đó ở nhà... hoặc ở phòng khám không?”

“Không có đâu,” bố tôi lập tức đáp lời. “Đó chẳng phải là thuốc độc liều mạnh sao.”

“Không cần phải là thạch tín nguyên chất, liệu có loại thuốc nào đó có chứa thạch tín không?”

“Không có. Tại sao các anh lại hỏi chúng tôi câu này? Họ đồn mẹ tôi bị chuốc thạch tín mà chết ư?”

“Quả thực đúng như lời anh nói. Giờ tin đồn bà cụ nhà Tajima mỗi ngày đều bị cho ăn thức ăn có lẫn thạch tín nên mới mất mạng đang được lan đi rất nhanh.”

“Nhảm nhí! Chuyện này thật là vô lý. Nếu tìm ra kẻ loan tin, chúng tôi sẽ kiện hắn.” Bố tôi lớn tiếng nói.