Chương 3 Không giải thích được
Chúng tôi tập trung về phòng khách, hoàn toàn bàng hoàng, rối trí và hoang mang. Một ý nghĩ hãi hùng vụt qua óc tôi: bà Darnley đã quay lại đòi công lí. Bà đã trả thù bằng cách giết chết kẻ sát hại bà, mà người đó không ai khác chính là Henry. Ngay lập tức, tôi bác bỏ ý nghĩ này vì đó là điều bất khả, tuy vậy không người sống nào có thể đi vào căn phòng đã niêm phong. Và chuyện gì đã xảy ra với Patrick? Anh ta đâu? Tôi cố gắng suy nghĩ rành mạch nhưng vô vọng, tất cả đều điên rồ, hoàn toàn điên rồ. Tôi đang sống trong một cơn ác mộng.
Một bàn tay cầm ly brandy xuất hiện trước mắt, tôi chộp lấy chiếc ly, uống một hơi cạn sạch và nhìn ra xung quanh. Đầu tiên tôi nhìn cái trường kỉ nhỏ nơi Alice vẫn nằm bất tỉnh, rồi đến Arthur. Victor mời ông một ly brandy, nhưng ông lắc đầu và chỉ trân trối vào khoảng không, như thể đã bị rút cạn mọi dấu hiệu của sự sống.
“Cảnh sát sẽ tới sớm thôi,” Victor thì thào và ngồi xuống cạnh tôi. “Mọi chuyện xảy ra với ông ấy thật khủng khiếp. Đầu tiên là vợ, và giờ là đứa con duy nhất… ở trên kia.”
“Còn Patrick thì sao ạ?”
“Bác không biết, bác vẫn chưa có thời gian tìm kiếm trong nhà. Hãy cứ hi vọng, James ạ, bác không biết chuyện gì đang xảy ra với chúng ta nữa, nhưng quả là kinh khủng. May mà cô Latimer vẫn chưa tỉnh lại vì bác không biết phải giải thích thế nào với cô ấy về tình cảnh này.”
Cánh cửa đột nhiên mở ra và Patrick đi vào, tay xoa xoa sau gáy.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Anh ta líu lưỡi. “Alice! Chúa ơi! Cô ấy không…”
Và lao về phía vợ.
Khi tỉnh lại, Alice níu lấy chồng mình, hai hàng nước mắt lăn dài.
Đã đến lúc giải thích. Tôi thuật lại chi tiết những sự kiện bi thảm xảy ra một tiếng trước.
Alice suýt ngất đi lần thứ hai.
“Henry, bị giết? Ở trên kia?” Miệng Patrick há hốc vì kinh ngạc. “Nhưng…”
Anh ta đột nhiên im lặng, đi tới chiếc bàn rồi tự rót rượu cho mình và nốc liền hai ly.
“Tôi tin là tôi biết chuyện xảy ra như thế nào,” anh ta cúi đầu.
Chúng tôi nín thở chờ đợi.
“Khi xuống nhà lấy áo khoác,” Patrick kể. “Tôi đã bị tấn công. Tôi đi gần đến chỗ cái móc áo, rồi… bị đánh gục. Không biết gì nữa. Vì quá tối, tôi không nhìn rõ kẻ tấn công. Chắc hắn đã mặc áo khoác và đội mũ của tôi, rồi mạo nhận là tôi lên gặp mọi người.”
“Anh nói đúng!” tôi kêu lên. “Chúng tôi không thấy mặt hắn, và cũng không nghe được giọng ngoại trừ hai tiếng gầm gừ. Thái độ đó khiến tôi lấy làm lạ ngay rồi. Cả dáng đi… Còn nữa, hắn thấp hơn anh, Patrick. Khổ người chỉ tầm…”
“… Henry,” Alice thầm thì tiếp lời. “Nhưng chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Mọi người có kiểm tra kĩ dấu niêm phong không?’ Patrick hỏi.
Arthur lên tiếng, “Không ai có thể đi qua cánh cửa vào thời điểm đó: dấu niêm phong còn nguyên vẹn. Cần thì anh cứ tự kiểm tra. Chỉ có dây ruy-băng là bị cắt.”
Vì không ai bình luận gì thêm, ông tiếp tục.
“Kẻ sát nhân - nếu hắn thực sự tồn tại - không thể kiếm được hoặc sao chép đồng xu chúng ta dùng để niêm phong, vì một lẽ đơn giản là không một ai, ngay cả tôi, biết được đồng xu nào trong bộ sưu tập sẽ được dùng cho mục đích đó. Xin nhắc lại, tôi chỉ quyết định ngay trước khi đến đây, chính xác là lúc 8 giờ 30 phút tối. Nhân đây, bộ sưu tập của tôi có tổng cộng hơn sáu trăm đồng xu.”
Arthur quả là một người đàn ông phi thường. Ngay cả khi tinh thần suy sụp vì đau buồn, ông vẫn duy trì sự điềm tĩnh và óc suy luận logic. Mấy ai ở trường hợp của ông làm được như vậy?
“Vì thế Henry để cho chính mình bị nhốt trong căn phòng,” Patrick tiếp lời. “Và…”
“Chúng ta đang phải đối mặt với một vụ án mạng siêu nhiên,” Arthur sắc bén cắt ngang. “Không có lời giải thích nào khác. Câu hỏi duy nhất còn lại là tại sao Henry tới đây. Và tại sao nó lại… phải chết?”
Không ai nói gì.
“Ông có chắc đó là Henry không?” Patrick hỏi. “Tốt hơn hết là đi lên và…”
“Hãy đợi cảnh sát,” Victor nói. “Họ sẽ đến bất cứ lúc nào.”
Chuông cửa reo vang.
“Họ tới rồi.”
Hoàn toàn kinh hãi trước vụ án, cảnh sát địa phương quyết định lập tức cầu viện tới Sở Cảnh sát Thủ đô và chánh thanh tra Drew được giao nhiệm vụ điều tra vụ án này. Trong ba năm qua, ông đã thăng cấp nhanh chóng nhờ phá được hàng loạt vụ án phức tạp. Một bài báo về Drew gần đây có giải thích phương pháp truy bắt tội phạm đặc biệt khác thường mà ông đã thực hiện. Ông bắt đầu bằng cách đặt mình vào vị trí của hung thủ. Nghi phạm bị thẩm vấn thường có vẻ không liên quan gì đến vụ án. Drew bèn thăm dò sâu vào đời sống riêng tư của họ, thậm chí truy tra tới tận thời thơ ấu và nghiên cứu tính cách họ một cách tỉ mỉ. Vì kĩ thuật điều tra này, các đồng nghiệp đặt cho ông biệt danh là Nhà tâm lí học.
Cuối cùng thi thể cũng được mang đi, trước đó các nhân chứng đã xác định đây chính là Henry. Tuy nhiên, Arthur không thừa nhận cái chết của con mình.
“Rất dễ nhầm người đàn ông này với Henry, nhưng anh ta không phải con trai tôi.”
Một ngày sau thảm kịch, Drew bắt tay vào việc. Cho tới lúc đó, cảnh sát đã kiểm tra dấu niêm phong cùng hiện trường vụ án và gần như không rút ra được kết luận gì: không có lối đi bí mật, không có dấu hiệu động chạm vào dấu niêm phong cũng như không có cách nào chốt cửa sổ từ bên ngoài. Họ đã thẩm vấn Arthur hàng giờ liền về đồng xu sử dụng cho dấu niêm phong, nhưng ông dứt khoát phủ nhận việc ai đó biết trước lựa chọn của ông và kiếm được một bản sao y hệt. Hơn nữa, ngay cả khi tên sát nhân có khả năng đọc ý nghĩ, hắn cũng phải tìm khắp nơi mới kiếm được bản sao.
Giả thuyết tiếp theo là một bản sao đã được đúc ra, nhưng suy đoán này nhanh chóng bị các chuyên gia loại trừ. Dấu niêm phong được in từ chính đồng xu nguyên bản của Arthur chứ không phải từ một bản sao. Còn một khả năng là đồng xu bị đánh tráo sau khi nạn nhân bị nhốt. Arthur quả quyết rằng kể từ thời điểm được sử dụng cho dấu niêm phong, đồng xu chưa từng rời khỏi túi áo trong của ông, và ông thường xuyên kiểm tra nó.
May mắn thay, Arthur có bằng chứng ngoại phạm vững chắc. Giữa 9 và 10 giờ đêm - theo pháp y là khoảng thời gian ước đoán xảy ra án mạng - không lúc nào ông ở một mình
Đương nhiên điều đó cũng không loại trừ lời giải thích hợp lí cho “tội ác bất khả thi” này, rằng Arthur hoàn toàn có thể thực hiện vụ ám sát với sự trợ giúp của đồng phạm. Xét cho cùng, đã từng có trường hợp cha giết con trong quá khứ. Nhưng ở trường hợp hiện tại, không có mảy may một động cơ nào. Giả thuyết Arthur mất trí cũng bị loại trừ, vì rõ ràng ông vẫn là một người tỉnh táo và ôn hòa.
Chính vì thế, không hề đáng ngạc nhiên khi cảnh sát đã hoàn toàn đi vào ngõ cụt lúc chánh thanh tra Drew đến. Thành công trong ba năm qua thể hiện rõ ở phong thái tự tin điềm đạm, ở từng cử chỉ, và ông trưng ra nụ cười trịch thượng của những kẻ luôn coi mình là người duy nhất có thể tìm ra sự thật. Sau một hồi khám xét hiện trường vụ án trong khoảng thời gian không thể nhanh chóng hơn, ông kiêu ngạo tuyên bố kết luận của mình.
“Nếu các nhân chứng nói đúng sự thật, thì chỉ có hai khả năng. Thứ nhất, ông White đã giết con trai mình với sự trợ giúp của tòng phạm. Tuy nhiên, tôi không nghĩ đây là phương án hợp lí vì nó quá đơn giản. Khả năng thứ hai, mặc dù thoạt nhìn có vẻ hoang đường nhưng vẫn là có nhiều khả năng xảy ra hơn. Henry, sau ba năm mất tích, trở lại ngôi làng nơi cậu ta sinh ra và vào nhà Latimer, hay nhà Darnley, gọi sao cũng được. Cậu ta rình nấp ở đại sảnh, đánh gục anh Latimer. Sau đó đội mũ và mặc áo khoác của anh ta, đi lên căn phòng áp mái rồi để mình bị nhốt trong đó dưới lốt của anh Latimer. Đừng vội tìm hiểu động cơ khiến cậu ta làm thế. Tiếp đó, cậu ta mở cửa sổ và cho kẻ sát nhân vào. Cách tiếp cận cửa số từ bên ngoài thoạt nhìn là một việc bất khả thi, nhưng xem xét kĩ thì có thể thực hiện được bằng cách trèo ra ngoài từ một cửa sổ khác và leo qua mái nhà. Kẻ sát nhân đâm Henry từ phía sau, rồi quay trở lại bằng cách hắn đã đến. Trước khi chết, Henry đóng cửa sổ lại. Chính hành động dường như không thể hiểu nổi đó đã tạo ra vẻ ‘siêu nhiên’ của vụ sát hại này. Những vụ án bất khả thi luôn đi kèm một lời giải thích vô cùng đơn giản.”
“Bữa ăn ngon quá, thực ra là quá tuyệt vời. Chưa bao giờ trong đời anh được…”
“James, đừng cường điệu, anh đang làm quá lên đấy. Thà anh cứ giễu cợt em còn hơn là tiếp tục như vậy,” Elizabeth phản đối.
“Nhưng James không hề cường điệu, em yêu,” John phụ họa. “Có chăng là anh ấy hiểu được tài nấu nướng của em mà thôi. Những nhà hàng lớn nhất nước Pháp chắc hẳn cũng sẵn sàng làm mọi cách để mời em về bếp của họ.”
Elizabeth trừng mẳt không tin, không biết phải nghĩ gì nữa.
Hai ngày sau tấn thảm kịch, em tôi gửi lời mời đến nhà ăn tối. Đây là một sự kiện rất hiếm hoi, rõ ràng là em muốn biết mọi chi tiết đã xảy ra vào buổi tối tệ hại ấy. Tôi đã phải thuật lại sự việc hai lần, và liên tục bị cắt ngang bởi ‘James. Thôi đi! Thật kinh khủng! Đừng bao giờ kể với em về việc này thêm một lần nào!’ rồi ngay lập tức ‘Sao nữa?’
“Anh nghĩ sao hả John?” Elizabeth hỏi, giờ đã bình tĩnh lại.
“Anh nói với em rồi. Khả năng nấu ăn ngoại hạng đấy.”
“Em đang nói đến vụ sát hại Henry!”
“Anh không biết,” John nói với vẻ mặt kì lạ. “Dân làng không đồn thổi về căn phòng ma ám nữa, họ gọi thẳng là ‘căn phòng sát nhân’. Một số khách hàng của anh còn đưa ra giả thuyết là Henry đã giết mẹ anh và hồn ma của bà trở về trả thù. Nhưng anh không tin vào ma quỷ. Dù sao đi nữa, anh bắt đầu nghĩ rằng có một tên cuồng sát trong làng, vì anh dần dần tin là thực ra mẹ bị sát hại.”
“Đủ rồi, John,” Elizabeth rên rỉ. “Đừng nhắc đến vụ án nữa. Thế mà anh định để em sống trong ngôi nhà đó kia đấy! Nhưng tại sao lại có kẻ muốn sát hại mẹ anh? Và tại sao Henry lại bị giết?”
“Có lẽ Henry biết ai giết mẹ của cậu, John à,” tôi gợi ý.
“Nếu thế thì,” John ngờ vực nhìn tôi. “Cậu ấy đã bị giết lâu rồi.”
“Chính xác.”
Một khoảng lặng.
“Báo chí tới tấp chạy bài về vụ ám sát nhưng lại giữ kín những tình tiết bất thường,” Elizabeth nhận xét, rõ ràng là thạo tin.
“Hiển nhiên,” tôi thở dài. “Cảnh sát không muốn công khai một vụ án mà họ không biết phải giải quyết thế nào. Dạo gần đây họ thường xuyên bị đặt dấu hỏi về năng lực.”
John gật đầu, rồi đột ngột nói, “Cậu nghĩ sao về giả thuyết của thanh tra Drew?”
“Henry đóng cửa sổ trước khi chết? Quá nực cười. Hoàn toàn vô lí.”
“Em tin,” Elizabeth xen vào với giọng quả quyết. Khó chịu trước sự im lặng của chúng tôi, em cao giọng. “Em biết quá rõ tính kiêu căng tự phụ ngu ngốc của Henry, em có thể dễ dàng tưởng tượng ra việc anh ấy giở mánh khóe một lần cuối cùng. Anh ấy muốn một kết thúc hoàn mỹ, một cái chết xứng đáng với danh tiếng mà anh ấy nghĩ mình luôn có. Theo quan điểm của em, thanh tra Drew nói đúng. Ông ẩy đã thực sự nắm bắt được con người của Henry. Rốt cuộc, chẳng phải tự dưng người ta lại gọi ông ấy là Nhà tâm lí học.”
Tôi đã định đáp trả, nhưng khi thấy John đặt một ngón tay lên môi, tôi ngăn mình lại.
“Họ đã kiểm tra bằng chứng ngoại phạm của các đối tượng tình nghi chưa?” cậu ta hỏi. “Đó, ừm, ý tôi là những người mà…”
Elizabeth không cho tôi thời gian để trả lời.
“Chỉ có một người không có bằng chứng ngoại phạm!’
Hai chúng tôi yên lặng, đăm đăm nhìn em một lúc lâu.
“À!” John mở lời. “Em nghĩ là Patrick có thể…”
“Không,” Elizabeth đáp trả. “Không phải Patrick. Là anh, John!” Ngón trỏ của em thình lình chỉ vào chồng. “Anh ở một mình trong ga ra đến tận nửa đêm.”
John cười, “Khả năng quan sát thật sắc sảo, em yêu của anh. Tuy nhiên, em có vẻ đã quên rằng, chính vì thế mà em cũng không có bằng chứng ngoại phạm.”
Elizabeth cứng người và run lên, “Sao anh dám buộc tội vợ anh? Vợ anh, người… người…”
Em uất nghẹn vì tức giận. Tôi giơ tay làm hòa.
“Đủ rồi! Bọn em tha hồ cãi nhau sau khi anh đi. Hơn nữa, anh phải đi luôn rồi, đã gần 8 giờ rưỡi. Bác White bảo anh ghé qua.”
“Gấp thế sao?” John hỏi. “Để một lúc nữa hẵng đi, hoặc để đến mai cũng được. Cậu chỉ việc gọi cho bác ấy.”
“Không. Thực tế thì không phải tôi đi gặp bác White, mà là thanh tra Drew muốn thẩm vấn chúng tôi kĩ hơn.”
“Tội nghiệp bác white,” Elizabeth nói. “Cảnh sát nên biết quan tâm hơn tới người đàn ông tội nghiệp ấy.”
“Đừng lo,” tôi nhắc nhở. “Bác White không hề suy sụp. Bác ấy vẫn tin chắc rằng người đàn ông bị sát hại không phải con trai mình, dù tất cả đều xác nhận đó là cậu ấy. Thôi, anh phải đi đây.”
Tiện thể, tôi cảm ơn họ về bữa ăn tuyệt vời và rời đi.
Bên ngoài, chào đón tôi là vầng trăng tái nhợt và lạnh buốt
Tiếng bước chân vang vọng trên con đường vắng gợi nhớ cái đêm thảm kịch ấy, khiến tôi ngẫu nhiên điểm lại các sự kiện trong đầu mình. Có điều gì đó không đúng, điều gì đó kì lạ mà tôi chưa thế làm rõ. Tôi chỉ xác định được lúc nó xảy ra, chứ không phải nó là cái gì. Đó là khoảng thời gian chúng tôi đi lên tầng áp mái lần thứ hai. Đứng ngoài hành lang, đập cửa, không thấy tiếng trả lời. Gỡ dấu niêm phong, mở cửa, thấy xác chết. Không phải trước đấy cơ, tôi đã đi hơi xa rồi. Ấn tượng đó xảy đến với tôi khi… A! Giá mà tôi có thể nhớ được! Là một cử chỉ? Một từ? Một hình ảnh? Hay một tiếng động?
Tra tấn bộ não cũng chẳng ích gì. Lời giải có thể sẽ đến khi tôi không cố nghĩ về nó nữa.
Tôi đã không nghĩ ra gì cả, nhưng nếu thực sự phát hiện ngay lúc đó, thì chắc chắn tôi sẽ nhận ra cách thức ma quỷ mà tên sát nhân sử dụng, và đã ngăn chặn để một tội ác đáng ghê tởm không xảy ra, một tội ác mà động cơ của nó sẽ sống mãi trên những trang biên niên của Sở Cảnh sát Thủ đô.
Khi Arthur kết thúc bản tường thuật về đêm xảy ra vụ sát hại thì đã gần 9 giờ 15 phút. Ông nói quá tỉ mỉ, tôi cảm thấy không cần thiết phải ngắt lời ông.
Drew, tay khoanh trước ngực, ngồi thoải mái trên chiếc ghế bành, lắc đầu với một nụ cười nhạt.
“Bài tường thuật của ông mặc dù rất đáng ghi nhận, nhưng rất tiếc chẳng bổ sung được điều gi mới.” Ông ta chuyển ánh mắt sắc bén sang tôi. “Còn cậu, cậu Steven, cũng không bổ sung được thêm gì sao? ông White không bỏ sót điều gì chứ?”
“Không,” tôi trả lời và châm một điếu thuốc để tránh ánh nhìn soi mói thấu suốt từ cặp mắt xanh của viên thanh tra. “Không còn gì để bổ sung. Mọi sự kiện xảy ra vào tối hôm đó đã được bác White điểm lại một cách hoàn hào. Và vì lúc nào chúng tôi, tức là tôi và bác White, cũng có mặt cùng nhau, nên tôi không còn gì để nói cả.”
Arthur nheo mắt lại, chậm rãi hút tẩu.
“Đây là lần thứ ba trong vòng bốn mươi tám tiếng qua tôi kể về những sự kiện này,” ông nói. “Tôi cứ nghĩ rằng lúc này ông đã phải biết rõ như thể bản thân có mặt tại đó rồi chứ.”
“Cảnh sát không tin vào ma quỷ,” ông Drew đột ngột cắt ngang.
Arthur nhăn mặt phản bác, “Mỗi người một quan điểm.” Im lặng một hồi, ông tiếp. “Nhắc mới nhớ, còn giả thuyết của ông về chuyện nạn nhân tự đóng cửa sổ sau khi bị đâm chí mạng thì sao?”
Một tia khó chịu ánh lên trong mắt Drew, nhưng ông ta mau chóng trấn tĩnh và trả lời với vẻ thản nhiên.
“Trời đất, đó chỉ là một giả thuyết, một suy luận bất chợt, để chỉ ra rằng vụ án không nhất thiết phải lả tác phẩm của một con ma. Tất nhiên là sự việc gần như không thể diễn biến theo hướng đó. Một mặt, không có dấu vân tay trên nắm cửa sổ. Mặt khác, theo nhân viên pháp y, con trai ông không tự đứng dậy được sau khi bị đâm.”
Có thể nhận ra sự bực bội trên nét mặt Arthur.
“Xin nhắc lại một lần nữa, người đàn ông đó không phải con trai tôi.”
Drew chăm chú nhìn xuống mũi giày, môi nở nụ cười ngang ngạnh.
“Đừng vô lí thế, ông White,” ông ta nói với giọng xoa dịu. “Bất cứ ai từng thấy thi thể đều xác nhận đó là con ông. Tôi hiểu nỗi lòng người cha, nhưng ông phải nhìn thẳng vào thực tế.”
“Phải đó, bác White,” tôi xen vào, cố khéo léo hết cỡ.
“Là Henry thật đấy! Hãy tin cháu, nếu có bất cứ nghi ngờ nào dù là nhỏ nhất về nhận dạng, cháu sẽ là người đầu tiên nói ra.”
Arthur ngồi im như tượng đá. Một sự yên lặng khó chịu bao trùm phòng khách. Drew cắm một điếu thuốc lên đôi môi mỏng, châm lửa và mất một lúc lâu hắng giọng rồi mới tiếp tục.
“Chí ít có thể khẳng định, đây là một vụ án kì lạ.”
“Quả vậy,” tôi đồng tình với sự mỉa mai sâu sắc. “Khi tìm thấy một người đàn ông bị giết trong căn phòng niêm phong kín mít, thì ít nhất người ta có thể nói ‘đây là một vụ án kì lạ’.”
“Đương nhiên, nhưng tôi không nói đến việc đó,” Drew vặc lại. “Ông có nhớ không, ông White, gần ba năm trước ông là nạn nhân của một vụ hành hung trên con đường đất trước nhà?”
“Đúng rồi,” Arthur nói, vẻ bực bội. “Tôi thậm chí còn nhớ đã đề cập với ông rằng ngay trước khi bị đánh, tôi đã trông thấy ai đó vác một cơ thể người đi về hướng khu rừng. Mặc dù vậy, tôi thấy có vẻ ông không coi trọng chi tiết đó lắm.”
Drew tỏ ra khó chịu.
“Ông có ý gì, không coi trọng lắm?” ông ta gắt gỏng
“Chúng tôi đã xới tung cả khu rừng lên nhưng không tìm thấy một thi thể nào, và không có trình báo mất tích nào trong khu vực. Chúng tôi còn có thể làm gì hơn nữa?”
“Vậy còn sự biến mất của con trai tôi?” Arthur bị cuốn theo cuộc tranh luận, “ông gọi đó là gì?”
Không quên rằng Arthur là một nhà văn nổi tiếng, Drew tiếp tục một cách cẩn trọng hơn.
“Tôi đang nói đến đây,” ông ta xoa dịu. “Như vậy, ngay sau khi ông bị tấn công, con trai ông biến mất. Một vài ngày sau, cậu ta lại xuất hiện… ở hai nơi khác nhau vào cùng một thời điểm! Chỉ thế đã đủ lạ thường, nhưng sự việc chưa dừng lại. Không hiểu sao cậu ta lọt vào được căn phòng niêm phong và tệ hại nhất là tìm ra cách để người ta giết mình!”
Drew khó nhọc kìm nén cơn giận dữ đang trào dâng, giọng ông ta run rẩy.
“Tốt nhất tôi nên cảnh báo ông trước, ông White, chúng tôi sẽ mò ra ngọn nguồn vụ việc bất kể bên nào phạm tội. Cho tới giờ tôi chưa một lần thất bại, và tôi cũng không có ý định thất bại đâu.”
Chuông réo vang nơi cửa chính.
“Là Victor,” Arthur vừa nói vừa đứng dậy. “Không, đợi đã, tôi nghe tiếng xe ô tô. Có lẽ là một người bạn. Ông vui lòng đợi tôi trong chốc lát chứ?”
Arthur rời khỏi phòng khách. Drew và tôi ngồi lại trong im lặng, chăm chú lắng nghe. Chúng tôi nghe thấy tiếng reo sửng sốt, tiếng ô tô nổ máy, rồi không nghe thấy gì nữa. Một lát sau là những tiếng cảm thán xúc động.
Cửa phòng khách bật mở, lộ rõ Arthur đang gần như khóc lóc vì vui sướng. Từ đằng sau ông, một dáng hình nhô ra khỏi bóng tối. Tim tôi lỡ một nhịp, và tâm trí tôi mất kiểm soát trong giây lát.
Henry đứng đó, ngay trước mắt tôi, bằng xương bằng thịt.